Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại Ma-la-hê-sưu,, du hành nhân gian, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, dần dần đi đến nước Ma-lâu.
Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo, các ngươi hãy tự thắp sáng. Thắp sáng trong Chánh 
pháp, chớ đừng thắp sáng ở nơi khác. Hãy tự mình nương tựa nơi mình, 
nương tựa nơi Chánh pháp, chớ đừng nương tựa vào một nơi nào khác..
“Này các Tỳ-kheo, thế nào là hãy tự thắp sáng; thắp sáng trong Chánh 
pháp, chớ đừng thắp sáng ở nơi khác; hãy tự mình nương tựa nơi mình, 
nương tựa nơi Chánh pháp, chớ đừng nương tựa vào một nơi nào khác?
“Ở đây, Tỳ-kheo quán thân trên nội thân, tinh cần không biếng nhác, 
ức niệm không quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán thân trên ngoại thân, 
quán thân trên nội ngoại thân, tinh cần không biếng nhác, ức niệm không 
quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán thọ, quán ý, quán pháp cũng vậy. Đó là 
Tỳ-kheo hãy tự thắp sáng; thắp sáng trong Chánh pháp, chớ đừng thắp sáng
ở nơi khác; hãy tự mình nương tựa nơi mình, nương tựa nơi Chánh pháp, 
chớ đừng nương tựa vào một nơi nào khác. Thực hành như thế sẽ không bị 
ma nhiễu hại, công đức ngày một thêm. Tại vì sao?
“Vào thời quá khứ xa xưa, có vị vua tên là Kiên Cố Niệm, là vua Quán 
đảnh dòng Sát-lỵ, làm Chuyển luân thánh vươngChuyển luân thánh vương, 
thống lãnh cả bốn châu thiên hạ. Bấy giờ nhà vua là vị Tự tại, cai trị 
bằng chánh pháp, là người tối thắng trong loài người. Vua có đủ bảy thứ 
báu: bánh xe vàng báu, voi trắng báu, ngựa xanh báu, thần châu báu, ngọc
nữ báu, cư sĩ báu, chủ binh báu. Và có một ngàn người con hùng dũng, đủ
sức dẹp địch. Vua không cần dùng binh mà thiên hạ tự thái bình.
“Vua Kiên Cố Niệm trị vì đã lâu ngày, một hôm bánh xe vàng báu ở 
không trung bỗng tự nhiên rời khỏi chỗ cũ. Người coi bánh xe gấp đến tâu
vua: Tâu Đại vương, nên biết, bánh xe báu nay rời khỏi chỗ cũ. Sau khi 
nghe thế, vua Kiên Cố Niệm nghĩ: Ta từng nghe các bậc tiền túc kỳ cựu 
nói: Nếu bánh xe báu rời khỏi chỗ cũ thì thọ mạng của Chuyển luân vương 
không còn được lâu. Ta nay đã thụ hưởng phước lạc ở cõi người, nên tìm 
phương tiện để thọ hưởng phước lạc thiên thượng. Ta hãy lập thái tử lên 
thống lãnh bốn châu thiên hạ và phong riêng một ấp cho người hớt tóc, để
khiến cắt bỏ râu tóc, rồi ta mặc pháp y, xuất gia tu đạo.
“Rồi vua Kiên Cố Niệm sai gọi thái tử và bảo: Khanh biết không? Ta 
từng nghe các bậc tiền túc kỳ cựu nói, nếu bánh xe báu rời khỏi chỗ cũ 
thì thọ mạng của Chuyển luân vương không còn được lâu. Ta nay đã thụ 
hưởng phước lạc ở cõi người, nên tìm phương tiện để thụ hưởng phước lạc 
trên Trờithiên thượng. Nay ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất 
gia tu đạo. Ta đem bốn châu thiên hạ ủy thác cho ngươi. Ngươi hãy gắng 
sức, thương yêu dân chúng. Sau khi thái tử lãnh mạng. Vua Kiên Cố Niệm 
liền cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.
“Vua xuất gia được bảy ngày thì bánh xe vàng báu bỗng nhiên không 
hiện ra nữa. Người coi bánh xe đến tâu vua: Đại vương nên biết, nay bánh
xe vàng báu bỗng nhiên biến mất. Vua không vui. Bèn tìm đến chỗ vua 
Kiên Cố Niệm. Sau khi đến, bạch rằng: Phụ vương nên biết, nay bánh xe 
vàng báu bỗng nhiên không hiện ra nữa. Vua Kiên Cố Niệm trả lời con: 
Ngươi chớ lo lắng cho là điều không vui. Bánh xe vàng báu đó không phải 
là của cha ngươi sản xuất ra. Ngươi chỉ cần gắng thi hành chánh pháp 
Thánh vương, rồi đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội nước hương, lên ngồi 
tại chánh pháp điện, có thể nữ bao quanh, tức thì có thần bảo bánh xe 
vàng báu tự nhiên hiện đến. Bánh xe có ngàn căm, màu sắc đầy đủ, là tác 
phẩm của thợ nhà trời chứ không phải của loài người.
“Thái tử tâu phụ vương: Phụ vương, chánh pháp của Chuyển luân thánh 
vươngChuyển luân thánh vương là thế nào? Phải làm như thế nào?. Vua bảo 
con: Hãy nương trên pháp, an lập trên pháp, thành tựu nơi pháp; cung 
kính, tôn trọng, quán sát pháp; lấy pháp làm đầu, thủ hộ chánh pháp. Lại
nữa, hãy răn dạy các thể nữ bằng pháp. Lại nữa, hãy chăm sóc dạy dỗ các
vương tử, đại thần, các quan lại, trăm quan và thứ dân bằng pháp. Hãy 
hộ trì, chăm sóc các Sa-môn, Bà-la-môn, cho đến cầm thú. Rồi vua lại bảo
con: Lại nữa, trong cõi nước ngươi, nếu có các Sa-môn, Bà-la-môn, tu 
hành thanh chơn, công đức đầy đủ, chuyên cần tinh tấn, xa lìa kiêu mạn, 
nhẫn nhục nhân ái, một mình ở chỗ nhàn tịnh tu tập, một mình yên nghỉ, 
một mình đạt đến Niết-bàn; tự mình diệt trừ tham dục, dạy người khác
diệt trừ tham dục; tự diệt trừ sân nhuế, dạy người khác diệt trừ sân 
nhuế; tự diệt trừ ngu si, dạy người khác diệt trừ ngu si; ở trong chỗ ô 
nhiễm họ không ô nhiễm, trong chỗ tội ác họ không tội ác, trong chỗ ngu 
si họ không ngu si, chỗ có thể đắm trước họ không đắm trước, chỗ đáng 
trụ họ không trụ, chỗ đáng ở họ không ở, thân hành chất trực, miệng nói 
lời chất trực, ý nghĩ chất trực; thân hành thanh tịnh, miệng nói thanh 
tịnh, ý nghĩ thanh tịnh, chánh niệm thanh tịnh, nhân huệ,, không hề 
chán; biết đủ trong sự ăn mặc và cầm bát đi khất thực để gây phước lành 
cho chúng sanh. Nếu có những người như thế, ngươi hãy thường nên tìm 
đến, tùy lúc hỏi han: phàm những điều tu hành, sao là thiện, sao là ác, 
sao gọi là phạm, sao gọi không phạm, cái nào đáng thân, cái nào không
đáng thân, việc gì đáng làm, việc gì không đáng làm và thi hành pháp gì 
để được an lạc lâu dài? Ngươi hỏi xong rồi lấy ý mình quán xét thấy việc
nên làm thì gắng làm, việc nên bỏ thì gắng bỏ. Trong nước nếu có kẻ mồ 
côi, già cả hãy nên chẩn cấp. Người nghèo cùng yếu kém đến xin, cẩn thận
chớ trái nghịch. Trong nước có luật pháp cũ, ngươi chớ thay đổi. Đó là 
những pháp mà Chuyển luân thánh vương Chuyển luân thánh vương tu hành, 
ngươi hãy phụng hành”.”
Phật nói với các Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo, khi Chuyển luân thánh vương nghe lời phụ vương dạy 
xong, thì như lời dạy mà tu hành. Đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội nước 
hương, lên ngồi tại bảo điện, có thể nữ bao quanh, tự nhiên có bánh xe 
báu hiện ra trước mặt, vành xe có ngàn căm sáng chói, do thợ trời làm 
chớ không phải đời có được. Bánh xe toàn bằng chân kim, đường kính bánh 
xe một trượng tư. Khi ấy, Chuyển luân Thánh vương Chuyển luân thánh 
vương thầm nghĩ: Ta từng nghe các bậc tiên túc kỳ cựu nói: Nếu vua Quán 
đảnh dòng Sát-lỵ, đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội nước hương, lên ngồi 
tại bảo điện, có thể nữ bao quanh, thời tự nhiên có bánh xe vàng hiện 
đến trước mặt, bánh xe có ngàn căm, ánh sáng rực rỡ, là tác phẩm của thợ
nhà trời chứ không phải do con người làm, được làm thành bằng vàng
thật, đường kính trượng tư, khi đó được gọi là Chuyển luân thánh 
vươngChuyển luân thánh vương. Nay có bánh xe báu ấy hiện đến há không là
đây chăng? Ta hãy thử coi bánh xe đó thế nào?
“Khi ấy, vua Chuyển luân liền triệu bốn thứ binh, hướng về phía bánh 
xe vàng, trịch áo bày vai phải, đầu gối phải qùỳy sát đất, rồi lấy tay 
mặt vỗ lên bánh xe và nói: Ngươi hãy theo đúng phép mà vận chuyển về 
phương Đông, chớ trái lệ thường. Bánh xe liền chuyển về phương Đđông. 
Vua bèn dẫn bốn thứ quân binh đi theo bánh xe vàng, trước bánh xe vàng 
có bốn vị thần dẫn đường. Đến chỗ bánh xe vàng ngừng thì vua cũng dừng 
xe. Bấy giờ, các tiểu quốc phương Đđông thấy đại vương đến, họ đem bát 
vàng đựng lúa bạc, bát bạc đựng lúa vàng đến trước vua, cúi đầu tâu 
rằng: “Đại vương đến, thật lành thay! Nay phương Đđông này đất ruộng phì
nhiêu, nhân dân sung túc, tánh khí nhân hòa, từ hiếu trung thuận. Cúi 
mong Thánh vương lấy chánh pháp trị hóa chốn này, chúng tôi xin cung cấp
hầu hạ, phục vụ mọi việc cần dùng. Vua Chuyển luân nói với các tiểu 
vương: “Thôi thôi chư Hiền! Thế là các ngươi đã cúng dường ta rồi đó. 
Các ngươi hãy nên lấy chánh pháp mà trị dân, chớ làm cho thiên lệch, 
không để cho quốc nội có hành vi phi pháp. Như vậy tức là ta trị hóa đó.
Các tiểu vương vâng lệnh. Họ liền theo vua đi tuần khắp nước, đến tận 
mé biển Đđông mới trở về.
“Vua lần lượt đi về phương Nnam, rồi phương Ttây, phương Bbắc. Hễ 
bánh xe vàng đến ở đâu thì các quốc vương đều đến cống hiến như các tiểu
quốc phương Đđông vậy.
“Bấy giờ, vua Chuyển luân, sau khi đã theo bánh xe vàng đi khắp bốn 
biển, đem chánh đạo khai hóa, an ủi dân chúng xong, trở về nước, thì 
bánh xe vàng dừng lại trên không trung ngay cửa cung điện. Vua Chuyển 
luân vui mừng phấn khởi nói: Bánh xe vàng báu này thật là điềm tốt của 
ta. Nay ta chính thật là Chuyển luân thánh vương.
“Đó là sự thành tựu bánh xe vàng báu.
“Vua ấy trị đời một thời gian lâu, rồi bánh xe vàng báu giữa hư không
lại bỗng nhiên rời chỗ cũ. Người coi bánh xe gấp đến tâu vua: Đại vương
nên biết, nay bánh xe báu đã rời chỗ. Vua nghe xong liền tự mình suy 
nghĩ: Ta từng nghe nơi các bậc tiên túc kỳ cựu rằng, nếu bánh xe báu dời
chỗ, Chuyển luân thánh vương Chuyển luân thánh vương sống chẳng còn bao
lâu nữa. Ta nay đã hưởng thọ phước lạc của loài người, cũng nên tìm 
phương tiện thọ phước lạc trên trời. Ta hãy lập thái tử thống lãnh bốn 
thiên hạ, phong riêng một ấp cho người hớt tóc và ra lệnh cạo bỏ râu 
tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.
“Rồi vua sai gọi thái tử và bảo: Khanh biết không? Ta từng nghe các 
bậc tiền túc kỳ cựu nói, nếu bánh xe báu rời khỏi chỗ cũ thì thọ mạng 
của Chuyển luân vương không còn được lâu. Ta nay đã thụ hưởng phước lạc ở
cõi người, nên tìm phương tiện để thụ hưởng phước lạc thiên thượng. Nay
ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Ta đem bốn châu
thiên hạ ủy thác cho ngươi. Ngươi hãy gắng sức, thương yêu dân chúng. 
Sau khi thái tử lãnh mạng, vua liền cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất 
gia tu đạo.
“Vua xuất gia được bảy ngày thì bánh xe vàng bỗng nhiên không hiện. 
Người coi bánh xe đến báo tin vua: Tâu Đại vương, bánh xe báu nay bỗng 
nhiên biến mất. Vua nghe xong chẳng cho đó là điều đáng lo, cũng chẳng 
chịu đến hỏi ý phụ vương.
“Rồi vua cha bỗng nhiên thăng hà.
“Kể từ đây về trước có sáu vua Chuyển luân, cứ đắp đổi trao ngôi và 
lấy chánh pháp trị dân, duy một ông vua sau này tự chuyên trị nước, 
không theo pháp cũ, chánh trị bất công khiến thiên hạ oán thán, quốc độ 
kém sút, nhân dân điêu linh. Thấy vậy có một đại thần dòng Bà-la-môn đến
tâu vua: Nay quốc độ sút kém, nhân dân điêu linh, không được như trước.
Hiện nay trong nước vua có nhiều vị trí thức, thông minh bác đạt, rõ 
thấu cổ kim, biết đủ pháp chánh trị của tiên vương, sao ngài không vời 
lại để hỏi những điều họ biết, hỏi chắc họ đáp. Vua liền vời quần thần 
đến hỏi cái đạo trị chánh của Tiên vương, các vị trí thần đáp đủ mọi 
việc. Vua nghe xong bèn thi hành theo pháp cũ, lấy chánh pháp cứu hộ 
nhân dân, nhưng vẫn không thể chẩn tế những kẻ cô lão, cấp thí cho người
hạ
cùng, nhân dân trong nước vẫn bị đưa dần tới chỗ nghèo khổ, xâm đoạt lẫn
nhau mà thành có nạn đạo tặc hoành hành. Mỗi khi có ai bị rình bắt được
đem đến vua, tâu rằng: Người này làm giặc, xin vua trị nó. Vua hỏi: Có 
thật ngươi là giặc không? Người ấy đáp: Thật. Vì tôi nghèo cùng đói 
khát, không tự sống nổi nên phải làm giặc. Vua liền xuất kho, lấy của 
cấp cho và dặn: Ngươi đem của này về cung cấp cha mẹ, giúp đỡ bà con, từ
nay chớ làm giặc nữa nghe.
“Các người khác thấy vậy đồn: Có kẻ làm giặc được vua cấp cho tài 
bảo, nên họ cũng bắt chước làm theo. Họ lại bị rình bắt được đem đến 
vua, tâu rằng: Người này làm giặc, xin vua trị nó. Vua lại hỏi: Có thật 
ngươi là giặc không? Người kia đáp: Dạ thật. Vì tôi nghèo cùng đói khát 
không tự sống nổi, nên phải làm giặc. Vua lại xuất kho lấy của cấp cho 
và bảo: Ngươi đem của này về cung cấp cha mẹ, giúp đỡ bà con, từ nay chớ
làm giặc nữa nghe.
“Lại những người khác nghe nói có kẻ làm giặc được vua cấp cho tài 
bảo, nên họ bắt chước rủ nhau làm theo và lại bị rình bắt đem đến vua, 
tâu: Người này làm giặc, xin vua trị nó. Vua lại hỏi: Có thật ngươi làm 
giặc không? Người kia đáp: Dạ thật. Vì tôi nghèo cùng đói khát, không tự
sống nổi nên phải làm giặc. Lần này vua nghĩ: Trước có người làm giặc, 
ta thấy nghèo đói cấp cho tài vật, dặn thôi đừng làm. Người khác nghe 
thế lại bắt chước làm. Nạn đạo tặc nhân đó tràn lan mãi. Thôi bây giờ 
tốt hơn ta phải hạ lệnh bắt trói người này dắt đi các ngõ đường, sau đưa
ra ngoài thành đến chỗ trống trải mà hành hình, để răn người sau. Vua 
liền sắc tả hữu bắt trói lại rồi đánh trống xướng lệnh đưa đi khắp ngõ 
đường. Xong rồi đem tới một nơi trống trải ở ngoài thành mà hành
hình. Mọi người khác thấy vậy truyền nhau: Nếu chúng ta làm giặc, cũng 
phải bị xử như thế chẳng khác gì. Từ đây quốc dân, để tự phòng hộ, mới 
tạo ra những binh trượng, gươm đao, cung tên, tàn hại nhau, tấn công, 
cướp gidậựt lẫn nhau.
“Kể từ vua này mới bắt đầu có sự nghèo cùng. Nhân có nghèo cùng mới 
có đạo tặc. Nhân có đạo tặc mới có đao trượng. Nhân có đao trượng mới có
sát hại. Nhân có sát hại nên nhan sắc con người mới tiều tụy, thọ mạng 
ngắn ngủi. Họ sống từ bốn vạn tuổi, sau lần xuống còn hai vạn tuổi. 
Trong số đó có người sống lâu; có người chết yểu; có người khổ; có người
sướng. Những người khổ thì sinh tâm tà dâm, tham thủ, bày đủ phương 
tiện để mưu đọạat của nhau, nên tai nạn nghèo cùng, trộm cướp, đao 
trượng, sát hại càng ngày càng nhiều, làm cho mạng người lại giảm dần 
xuống chỉ sống một vạn tuổi.
“Trong thời gian người sống một vạn tuổi, vẫn lại trộm cướp lẫn nhau.
Mỗi khi bị rình bắt đem đến vua, tâu rằng: Người này làm giặc, xin vua 
trị nó. Vua hỏi: Có thật ngươi làm giặc không? Người kia đáp: Tôi không 
làm. Và ở giữa đám đông nó cố ý nói dối. Như vậy chúng sanh lúc đó vì 
nghèo cùng nên trộm cướp. Vì trộm cướp nên có đao binh. Vì đao binh nên 
có giết hại. Vì giết hại nên có tham thủ tà dâm. Vì tham thủ tà dâm nên 
có nói dối. Vì có nói dối, do đó tuổi thọ lại giảm lần, chỉ còn sống 
được một ngàn tuổi.
“Trong thời gian sống một ngàn tuổi, bắt đầu người ta tạo bốn ác hạnh
về miệng trên đời là nói dối, nói hai lưỡi, nói độc ác và nói thêu dệt.
Ba ác nghiệp đó tăng dần lên thì tuổi thọ con người giảm bớt xuống, chỉ
còn sống được năm trăm tuổi.
“Trong thời gian sống năm trăm tuổi, người ta lại tạo thêm ba nết ác 
khác là dâm dục phi pháp, tham lam phi pháp và tà kiến. Ba ác nghiệp này
tăng dần lên thì tuổi thọ con người giảm bớt xuống, chỉ còn sống đến ba
trăm rồi hai trăm tuổi và nay, nhân loại trong thời ta, chỉ còn sống 
được một trăm tuổi. Số tuổi thọ được tăng thì ít mà giảm thì nhiều. Hễ 
cứ làm ác mãi thì tuổi thọ cứ như thế giảm xuống mãi cho đến khi nhân 
loại chỉ còn sống mười tuổi.
“Trong thời gian nhân loại sống mười tuổi này, con gái vừa sinh ra 
năm tháng đã gả chồng. Ở vào thời ấy, những vị ngon ngọt như dầu mỡ, 
đường mật không còn nghe tên. Đậu, mè, lúa, nếp biến thành cỏ rác. Những
thứ danh phục, lụa là, gấm vóc, vải trắng, kiếp- ba, lụa tơ, lãnh nhiễu
như bây giờ không thấy mặc, mà phải bện lông gai xô xảm lấy làm áo mặc 
thượng hạng. Bấy giờ, toàn cõi đất này mọc đầy gai góc, sanh đầy mòng 
muỗi, ruồi lằng, chấy rận, rắn rết, ong, bò cạp, trùng độc. Vàng bạc, 
lưu ly, trân châu, danh bảo đều lặn hết xuống đất, chỉ còn ngói đá, sạn 
sỏi thì nổi cả lên trên. Nhân loại lúc đó tuyệt nhiên không còn nghe đến
tên thập thiện mà chỉ có thập ác dẫy đầy thế gian. Nhằm lúc cái tên 
thiện pháp còn không nghe thấy, nhân loại không biết đâu để tu tập hạnh
lành, do đó hễ người nào làm điều cực ác, bất hiếu với cha mẹ, bất kính 
với sư trưởng, bất trung bất nghĩa, phản nghịch vô đạo, thì được dân 
chúng tôn sùng như hiện nay người ta tôn sùng kẻ làm điều lành, hiếu 
dưỡng cha mẹ, kính thuận sư trưởng, trung tín tiết nghĩa, thuận đạo tu 
nhân vậy.
“Nhân loại thời ấy, phần nhiều tạo mười điều ác nên sa vào nẻo ác 
nhiều, hễ vừa trông thấy nhau là họ muốn bắn giết nhau như kẻ thợ săn 
trông thấy bầy nai.
“Cõi đất lúc ấy đầy dẫy hố hầm, khe suối, hang hóc; đất rộng người 
thưa, đi lại ghê sợ. Nhằm lúc ấy thì có nạn đao binh nổi lên. Cọng cỏ 
nhánh cây cầm trong tay cũng đều biến thành qua mâu, giết hại nhau trong
vòng bảy ngày. Khi ấy, những kẻ có trí, tìm lánh vào rừng sâu, nương ở 
hang hố, trong bảy ngày lòng quá sợ hãi mà phát lời từ thiện rằng: Ngươi
không hại ta, ta không hại ngươi. Họ nhờ ăn cỏ cây mà sống còn. Qua 
khỏi bảy ngày họ từ núi đi ra, hễ gặp người sống sót, vừa thấy nhau đã 
mừng rỡ nói: Ngươi không chết ư? Ngươi không chết ư? Giống như cha mẹ 
chỉ có con một, xa cách lâu ngày, nay gặp lại mừng không xiết kể. Họ đem
lòng mừng rỡ chúc hỏi nhau như thế xong, sau mới thăm hỏi đến nhà, thì 
hay rằng thân thuộc nhà họ đã chết đi nhiều, nên họ lại buồn khóc,
than van, kêu ca với nhau trong suốt bảy ngày tiếp.
“Hết bảy ngày buồn khóc, tiếp đến bảy ngày họ cùng nhau chúc mừng, 
hoan lạc và tự nghĩ: Vì chúng ta chứa ác quá nhiều nên gặp phải tai nạn,
khiến thân tộc chết chóc, gia quyến mất tiêu. Vậy nay ta nên chung nhau
tu tập điều lành, nhưng hãy tu điều lành gì? Ta nên đừng sát sinh.
“Bấy giờ nhân loại lại phát từ tâm, không tàn hại nhau, nhờ đó nhân 
loại được tăng dần sắc lực và thọ mạng từ mười tuổi nay sống lên hai 
mươi tuổi. Trong lúc sống hai mươi tuổi lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu 
chút ít hạnh lành không tàn hại nhau mà thọ mạng tăng lên hai mươi tuổi.
Có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Trước
đã không sát sinh rồi, giờ ta nên đừng trộm cắp. Và do tu điều không 
trộm cắp mà thọ mạng tăng lên bốn mươi tuổi. Trong lúc sống bốn mươi 
tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít lành mà thọ mạng tăng lên, 
nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta
nên tu điều không tà dâm. Từ đó mọi người đều không tà dâm và thọ mạng 
tăng lên tám mươi tuổi. Trong lúc sống tám mươi tuổi, lại suy nghĩ:
Chúng ta nhờ tu chút ít lành mà thọ mạng tăng lên, nay có lẽ ta nên tu 
thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không nói dối. 
Từ đó mọi người thảy đều không nói dối và thọ mạng tăng lên đến một trăm
sáu mươi tuổi. Trong lúc sống một trăm sáu mươi tuổi lại suy nghĩ: 
Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên
tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không nói 
hai lưỡi. Từ đó mọi người đều không nói hai lưỡi và thọ mạng tăng lên ba
trăm hai mươi tuổi. Trong lúc sống ba trăm hai mươi tuổi, lại suy nghĩ:
Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta 
nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không ác
khẩu. Từ đó mọi người không ác khẩu và thọ mạng tăng lên sáu trăm
bốn mươi tuổi. Trong lúc sống sáu trăm bốn mươi tuổi, lại suy nghĩ: 
Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên
tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không nói 
thêu dệt. Từ đó mọi người không nói thêu dệt và thọ mạng tăng lên đến 
hai ngàn tuổi. Trong lúc sống hai ngàn tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ 
tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít 
điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không xan tham. Từ đó 
mọi người không xan tham và thọ mạng tăng lên đến năm ngàn tuổi. Trong 
lúc sống năm ngàn tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành 
mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng 
nên tu điều lành gì? Ta nên không tật đố, Từ tâm tu thiện. Từ đó mọi
người không tật đố, Từ tâm tu thiện và thọ mạng tăng lên đến một vạn 
tuổi. Trong lúc sống một vạn tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít
điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành 
nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên tu chánh kiến, không sanh điên 
đảo. Từ đó mọi người tu chánh kiến, không sanh điên đảo và thọ mạng tăng
lên đến hai vạn tuổi. Trong lúc sống bốn vạn tuổi, lại suy nghĩ: Chúng 
ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu 
thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên hiếu dưỡng cha 
mẹ, kính thờ sư trưởng. Từ đó mọi người đều hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ 
sư trưởng và thọ mạng tăng lên đến tám vạn tuổi.
“Trong lúc nhân loại sống tám vạn tuổi, con gái đến năm trăm tuổi mới
gả chồng và có chín thứ bệnh là lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu 
tiện, tham dục, ham ăn và già nua. Cõi đất lúc ấy bằng phẳng không có 
rạch hầm, gò nổng gai góc, cũng không mòng muỗi, rắn rết, trùng độc. 
Ngói, đá, cát, gạch thì biến thành lưu ly. Nhân dân sung túc, ngũ cốc rẻ
thường, giàu vui không xiết tả. Có tám vạn thành lớn được dựng lên, 
thôn thành san sát gần nhau, gà gáy cùng nghe được.
“Vào thời kỳ ấy thì có Đức Phật ra đời hiệu là Di-lặc Như Lai, Chí 
Chân, Đẳng Chánh Giác, mười hiệu đầy đủ như Đức Thích-ca Như Lai ngày 
nay không khác. Đức Di-lặc kia tự mình tu chứng ngay ở giữa hàng chư 
Thiên, Đế Thích, Ma, Thiên ma, Sa-môn, Bà-la-môn và Nhân gian, mà tự 
thân tác chứng, cũng như ta ngày nay ở ngay giữa hàng chư Thiên, Đế 
Thích, Ma hoặc Thiên ma, Sa-môn, Bà-la-môn và Nhân gian mà tự mình tác 
chứng vậy.
“Đức Di-lặc sẽ thuyết pháp, khoảng đầu, giữa và cuối đều trọn lành, 
đầy đủ nghĩa vị, tịnh tu phạm hạnh như ngày nay Ta thuyết pháp, khoảng 
đầu, giữa, cuối đều chân chánh, nghĩa vị đầy đủ, phạm hạnh thanh tịnh 
vậy.
“Đức Di-lặc có chúng đệ tử vô số ngàn vạn, như Ta ngày nay có đệ tử 
vài trăm. Nhân dân lúc ấy gọi đệ tử Ngài là Từ tử như gọi đệ tử Ta nay 
là Thích tử.
“Lúc ấy, có vua tên là Tương-già, là vua Sát-lỵ Chuyển luân thánh 
vương Chuyển luân thánh vương quán đảnh, cai trị bốn châu thiên hạ. Vua 
lấy chánh pháp trị dân, ai nấy đều mến phục. Vua có đủ bảy thứ báu là 
bánh xe vàng, voi trắng, ngựa xanh, thần châu, ngọc nữ, cư sĩ, chủ binh 
và ngàn người con dõng mãnh hùng nghị, đủ sức dẹp ngoại địch, được bốn 
phương kính thuận, không cần binh đao mà thiên hạ thái bình.
“Vua thiết lập một Đại bảo tràng vòng vây mười tầm, cao một ngàn tầm,
được trang nghiêm với ngàn sắc lẫn lộn. Bảo tràng có một trăm góc ;; 
mỗi góc có trăm nhánh, dệt bằng chỉ báu, có các châu bảo xen lẫn. Sau 
khi lập bảo tràng để cúng thí hàng Sa-môn, Bà-la-môn và người nghèo 
trong nước xong, vua cắt bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, tập
hạnh vô thượng, ngay trong pháp hiện tại mà tự thân tác chứng, sanh tử 
dứt hết, phạm hạnh thành tựu, việc làm hoàn mãn, không còn phải chịu 
thân sau nữa”.”
Phật dạy:
“Này các Tỳ-kheo! Các ngươi hãy siêng tu các thiện hạnh. Nhờ tu thiện
hạnh mà thọ mạng lâu dài, nhan sắc thêm tươi, an ổn khoái lạc, tài bảo 
phong nhiêu, oai lực đầy đủ, giống như các vua thuận làm theo cựu
pháp của Chuyển luân thánh vương Chuyển luân thánh vương thời thọ 
mạng lâu dài, nhan sắc thêm tươi, an ổn khoái lạc, tài bảo phong nhiêu, 
oai lực đầy đủ. Tỳ-kheo cũng vậy, nên tu thiện pháp, thọ mạng lâu dài, 
nhan sắc thêm tươi, an ổn khoái lạc, tài bảo phong phú, oai lực đầy đủ.
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo được thọ mạng lâu dài? Tỳ-kheo tu tập dục 
định, tinh cần không giải đãi, do thành tựu diệt hành mà tu thần thông..
Tu tập tinh tấn định, ý định, tư duy định, tinh cần không giải đãi, do 
thành tựu diệt hành mà tu thần thông. Như thế là Tỳ-kheo thọ mạng lâu 
dài.
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo được nhan sắc thêm tươi? Ở đây, Tỳ-kheo có 
giới Cụ túc, thành tựu oai nghi, thấy có tội nhỏ đã sanh lòng sợ lớn, 
học tập đầy đủ trong các học giới, hoàn toàn không thiếu sót. Như thế là
Tỳ-kheo nhan sắc thêm tươi.
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo được an ổn khoái lạc? Ở đây, Tỳ-kheo đoạn trừ
dâm dục, xả bỏ pháp bất thiện, có giác có quán, có hỷ lạc phát sanh do 
viễn ly, chứng đệ Nhất thiền. Trừ diệt giác và quán, nội đẳng tịnh, tâm 
chuyên nhất, không giác không quán, có hỷ lạc phát sanh do định, chứng 
đệ Nhị thiền. Lìa hỷ, an trú xả, chuyên tâm không tán loạn, tự mình biết
rõ cảm giác lạc nơi thân, an trú nơi điều mà Hiền thánh nói là 
xả-niệm-lạc, chứng đệ Tam thiền. Dứt khổ dứt lạc, ưu và hỷ đã loại trừ 
từ trước, không khổ không lạc, xả và niệm thanh tịnh, chứng đệ Tứ thiền.
Như thế là Tỳ-kheo an ổn, khoái lạc.
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo được tài bảo phong nhiêu? Ở đây, Tỳ-kheo lo 
tu tập Từ tâm, khắp một phương, rồi đến các phương khác cũng vậy, bao 
trùm, rộng lớn, bình đẳng vô lượng, trừ mọi oán kết, tâm không tật đố, 
tịch mặc từ nhu. Bi tâm, Hỷ tâm, Xả tâm cũng như thế. Như thế là Tỳ-kheo
được tài bảo phong nhiêu.
“Thế nào gọi là Tỳ-kheo được oai lực đầy đủ? Ở đây, Tỳ-kheo hiểu biết
một cách như thật về Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. Như thế là 
Tỳ-kheo được oai lực đầy đủ. Này các Tỳ-kheo! Nay Tta xem khắp những 
người có sức lực không ai hơn ma lực, nhưng Tỳ-kheo đã đoạn trừ hết hoặc
lậu, thì lại thắng được chúng ma đó.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-