Tôi nghe như vậyvầy:
Một thời, Phật ở tại nước Ca-duy-la-vệ, trong khu rừng của Ưu-bà-tắc
Miến-kỳ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người.
Bấy giờ, có Sa- di Châu-na, ở tại nước Ba-ba, sau an cư mùa hạ, cầm y
bát, đi lần đến nước Ca-duy-la-vệ, trong vườn Miến-kỳ; đến chỗ A-nan,
cúi đầu lễ dưới chân, rồi đứng sang một bên, bạch A-nan rằng:
“Có Ni-kiền Tử trong thành Ba-ba, chết chưa bao lâu, mà các đệ tử của
ông đã chia làm hai phe. Họ tranh chấp nhau, trực diện mắng chửi nhau,
không còn phân biệt trên dưới; tìm tòi khuyết điểm của nhau, ganh đua
kiến thức với nhau rằng: Ta có thể biết điều này; ngươi không thể biết
điều này. Hành động của ta chân chính, còn ngươi là tà kiến. Ngươi đặt
cái trước ra sau; để cái sau ra trước; điên đảo, thác loạn, không có
phép tắc. Những điều ta làm thật là vi diệu. Những điều ngươi nói thì
sai lầm. Ngươi có điều gì nghi ngờ, cứ hỏi ta. Bạch Đại đức A-nan, bấy
giờ, những người thờ Ni-kiền Tử trong nước này nghe những tranh tụng như
vậy sinh lòng chán ghét”.”
A-nan nói với Sa-di Châu-na:
“Ta có điều muốn bạch Thế Tôn. Ngươi hãy đi với ta, trình bày Thế Tôn
về sự việc này. Nếu Thế Tôn có răn dạy điều gì, chúng ta hãy cùng phụng
hành”.”
Rồi thì, Sa-di Châu-na sau khi nghe A-nan nói bèn cùng đi theo đến
chỗ Thế Tôn. Sau khi cúi lạy dưới chân Thế Tôn, bèn đứng sang một bên.
Lúc bấy giờ, A-nan bạch Thế Tôn rằng:
“Sa-di Châu-na này, sau an cư mùa hạ ở nước Ba-ba, cầm y bát, đi lần
đến đây. Sau khi đảnh lễ dưới chân con, nói với con rằng: Có Ni-kiền Tử
trong thành Ba-ba, chết chưa bao lâu, mà các đệ tử của ông đã chia làm
hai phe. Họ tranh chấp nhau, trực diện mắng chửưởi nhau, không còn phân
biệt trên dưới; tìm tòi khuyết điểm của nhau, ganh đua kiến thức với
nhau rằng: Ta có thể biết điều này; ngươi không thể biết điều này. Hành
động của ta chân chính, còn ngươi là tà kiến. Ngươi đặt cái trước ra
sau; để cái sau ra trước; điên đảo, thác loạn, không có phép tắc. Những
điều ta làm thật là vi diệu. Những điều ngươi nói thì sai lầm. Ngươi có
điều gì nghi ngờ, cứ hỏi ta. Bấy giờ, những người thờ Ni-kiền Tử trong
nước này nghe những tranh tụng như vậy sinh lòng chán ghét.”.”
Thế Tôn nói với Châu-na:
“Quả vậy, Châu-na, trong phi pháp ấy không có gì đáng để nghe. Đó
không phải là những điều được nói bởi Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng
như ngôi tháp đổ nát, khó có thể bôi màu. Kia tuy có thầy, nhưng thảy
đều ôm giữ tà kiến. Tuy có pháp, nhưng thảy đều không chân chánh, không
đáng để nghe theo, không có khả năng xuất ly, không phải là những điều
được nói bởi Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng như ngôi tháp đổ nát không
thể bôi màu vậy.
“Trong số các đệ tử của vị ấy có người không thuận theo pháp ấy, dứt
bỏ tà kiến ấy, đi theo chánh kiến. Châu-na, nếu có người đến nói với các
đệ tử ấy rằng: Này chư Hiền, pháp của thầy ông là chân chánh, nên tu
hành trong pháp ấy, sao lại bỏ đi? Nếu người đệ tử này mà tin lời ấy,
thì cả hai đều thất đạo, mắc tội vô lượng. Vì sao vậy? Kia tuy có pháp,
nhưng không chân chánh.
“Châu-na, nếu thầy không tà kiến và pháp ấy chân chánh, có thể khéo
léo nghe theo, có khả năng xuất yếu, là pháp được nói bởi Đấng Chánh
Biến Tri. Cũng như ngôi tháp mới có thể dễ dàng bôi màu. Nhưng nếu các
đệ tử, ở trong pháp ấy, không tinh cần tu tập, không thể thành tựu, bỏ
con đường bình đẳng, đi vào tà kiến. Nếu có người đến nói với các đệ tử
ấy rằng: Này chư Hiền, pháp của thầy các người là chân chánh, nên ở
trong đó mà tu hành, sao lại bỏ đi mà đi vào tà kiến? Các đệ tử ấy nếu
tin lời ấy, thì cả hai đều thấy chân chánh, được phước vô lượng. Vì sao
vậy? Vì pPháp ấy chân chánh”.”
Phật bảo Châu-na:
“Kia tuy có thầy, nhưng ôm giữ tà kiến. Tuy cũng có pháp, nhưng thảy
đều không chân chánh, không có khả năng xuất yếu, không phải là pháp
được thuyết bởi Đấng Chánh Biến Tri. Cũng như ngôi tháp đổ nát không thể
bôi màu. Các đệ tử kia thành tựu pháp và tùy pháp, tùy thuận theo mà tu
hành, nhưng lại khởi tà kiến. Châu-na, nếu có người đến nói đệ tử ấy
rằng: Pháp của thầy ngươi là chân chánh. Điều ngươi làm là đúng. Nay
ngươi tu hành cần khổ như vậy, có thể ở trong đời này ngươi sẽ thành tựu
đạo quả. Các đệ tử kia tin lời ấy, thì cả hai đều thất đạo, mắc tội vô
lượng. Vì sao vậy? Vì pháp không chân chánh vậy.
“Này Châu-na, nếu bậc thầy không tà kiến; Pháp của vị ấy chân chánh,
có thể khéo léo nghe theo, có khả năng xuất ly, là pháp được thuyết bởi
Đấng Chánh Biến Tri. Cũng như ngôi tháp mới thì dễ bôi màu. Nay đệ tử
của vị ấy thành tựu pháp và tùy pháp, tùy thuận tu hành mà sanh chánh
kiến. Nếu có người đến nói với các đệ tử ấy rằng: Pháp của thầy ngươi là
chân chánh. Sở hành của ngươi là đúng. Nay cần khổ tu hành như vậy, có
thể ở trong đời này mà thành tựu đạo quả. Các đệ tử kia tin lời ấy, cả
hai đều chánh kiến, được phước vô lượng. Vì sao vậy? Vì pháp ấy chân
chánh.
“Này Châu-na, hoặc có bậc Đạo sư xuất thế khiến cho các đệ tử buồn rầu. Hoặc có Đạo sư xuất thế khiến các đệ tử không buồn rầu.
“Thế nào là Đạo sư xuất thế khiến các đệ tử sinh buồn rầu?
“Này Châu-na! Đạo sư mới xuất hiện thế gian, thành đạo chưa lâu, pháp
của vị ấy đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh, như thật chơn yếu nhưng không
được phân bố rộng khắp, rồi vị Đạo sư ấy lại chóng diệt độ. Các đệ tử vì
thế không được tu hành, thảy đều buồn rầu mà nói rằng: Thầy vừa mới
xuất thế, thành đạo chưa lâu, pháp của Thầy đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh,
như thật chơn yếu, nhưng rốt cùng lại không được phân bố rộng khắp, mà
nay Đạo sư lại nhanh chóng diệt độ, khiến cho đệ tử chúng ta không được
tu hành. Đấy là có vị Đạo sư xuất thế nhưng đệ tử lại ưu sầu.
“Thế nào là Đạo sư xuất thế, đệ tử không ưu sầu?
“Có vị Đạo sư xuất thế, Pháp của vị ấy thanh tịnh, đầy đủ phạm hạnh,
như thật chơn yếu, lại được lưu bố rộng rãi, rồi sau đó mới vào diệt độ.
Các đệ tử vì thế mà được tu hành, không ưu sầu, mà nói rằng: Thầy mới
xuất hiện thế gian, thành đạo chưa lâu, pháp của Thầy thanh tịnh, đầy đủ
phạm hạnh, như thật chơn yếu lại được lưu bố rộng rãi, rồi sau đó mới
vào diệt độ, khiến cho đệ tử chúng ta thảy đều được tu hành. Này
Châu-na, như vậy, Đạo sư xuất thế, đệ tử không ưu sầu”.”
Phật lại bảo Châu-na:
“Với chi này mà phạm hạnh thành tựu. Đó là, Đạo sư xuất thế, xuất gia
chưa bao lâu, danh tiếng chưa rộng, đó gọi là phạm hạnh chi chưa đầy
đủ. Này Châu-na! Đạo sư xuất thế, xuất gia đã lâu, danh tiếng đã rộng
rãi, đó gọi là chi phạm hạnh đầy đủ.
“Này Châu-na, Đạo sư xuất thế, xuất gia đã lâu, danh tiếng đã rộng,
nhưng các đệ tử chưa nhận được sự dạy dỗ, chưa đầy đủ phạm hạnh, chưa
đến nơi an ổn, chưa đạt được mục đích của mình, chưa thể phân bố diễn
thuyết pháp đã được thọ lãnh; nếu có dị luận nổi lên thì không thể như
pháp mà diệt, chưa chứng đắc thần thông có khả năng biến hóa. Đó gọi là
chi phạm hạnh chưa đầy đủ.
“Này Châu-na! Đạo sư xuất thế, xuất gia đã lâu, danh tiếng đã rộng,
mà các đệ tử thảy đều chịu giáo huấn, phạm hạnh đầy đủ, đã đến nơi an
ổn, đã đạt được mục đích của mình, lại có thể phân biệt diễn thuyết pháp
được lãnh thọ; nếu có dị luận khởi thì có thể như pháp mà diệt, đã
chứng đắc thần thông có khả năng biến hóa đầy đủ. Đó là chi phạm hạnh
đầy đủ.
“Này Châu-na! Đạo sư xuất thế, xuất gia chưa lâu, danh tiếng chưa
rộng, các Tỳ-kheo-ni chưa nhận được sự dạy dỗ, chưa đến chỗ an ổn, chưa
đạt được mục đích của mình, chưa thể phân bố diễn thuyết pháp đã được
lãnh thọ; nếu có dị luận khởi lên chưa thể như thật diệt trừ bằng chánh
pháp, chưa chứng đắc thần thông có khả năng biến hóa. Đó là chi phạm
hạnh chưa đầy đủ.
“Này Châu-na! Đạo sư xuất thế, xuất gia đã lâu, danh tiếng đã rộng,
các Tỳ-kheo-ni thảy đều nhận được giáo huấn, phạm hạnh đầy đủ, đã đến
nơi an ổn, có thể phân biệt diễn thuyết pháp đã lãnh thọ; nếu có dị luận
khởi lên thì như pháp mà trừ diệt, đã chứng đắc thần thông có khả năng
biến hóaoá. Đó là chi phạm hạnh đầy đủ.
“Này Châu-na! Các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di rộng tu phạm hạnh,... cho đến đã chứng đắc thần thông có khả năng biến hóaoá, cũng vậy.
“Này Châu-na, nếu Đạo sư không còn ở đời, không có danh tiếng, sự lợi
dưỡng tổn giảm. Đó là chi phạm hạnh không đầy đủ. Nếu Đạo sư tại thế,
danh tiếng và lợi dưỡng đều có đủ, không có tổn giảm; đó là chi phạm
hạnh đầy đủ.
“Nếu Đạo sư còn ở đời, danh tiếng và lợi dưỡng thảy đều đầy đủ, nhưng
các Tỳ-kheo không thể đầy đủ danh tiếng và lợi dưỡng. Đó là chi phạm
hạnh không đầy đủ.
“Nếu Đạo sư tại thế, danh tiếng và lợi dưỡng đầy đủ không tổn giảm,
chúng các Tỳ-kheo cũng đầy đủ như vậy. Đó là chi phạm hạnh đầy đủ. Chúng
Tỳ-kheo-ni cũng vậy.
“Châu-na, Ta xuất gia đã lâu, danh tiếng rộng xa, các Tỳ-kheo của Ta
đã nhận lãnh giáo huấn, đã đến chỗ an ổn, đã tự mình đạt được mục đích,
lại có thể nói cho người khác pháp đã lãnh thọ; nếu có dị luận khởi lên
có thể như pháp mà diệt, đã chứng đắc thần thông có khả năng biến hóa.
Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo- ni, Ưu- bà- tắc, Ưu- bà- di, cũng vậy.
“Châu-na, Ta đã lưu bố rộng rãi phạm hạnh,... cho đến, đã chứng đắc thần thông có khả năng biến hóa.
“Này Châu-na! Hết thảy Đạo sư trong thế gian, không thấy có ai có
danh tiếng và lợi dưỡng như Ta, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác.
“Này Châu-na, hết thảy đồ chúng có trong thế gian, không thấy ai có danh tiếng và lợi dưỡng như chúng của Như Lai.
“Châu-na, nếu muốn nói cho chân chánh, thì nên nói thấy mà không
thấy. Thế nào là thấy mà không thấy? Hết thảy phạm hạnh thanh tịnh cụ
túc, đã được tuyên thuyết, được lưu bố hiển thị. Đó gọi là thấy mà không
thấy”.”
Rồi thì, Ðức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Uất-đầu-lam Tử, ở giữa đại chúng, nói như vậy: Thấy mà không thấy.
Thế nào là thấy mà không thấy? Như có thể thấy con dao nhưng không thể
thấy sự bén nhọn. Này các Tỳ-kheo, vị ấy chỉ dẫn lời nói không nhận thức
của phàm phu mà ví dụ. Như vậy, này Châu-na, nếu muốn nói một cách chân
chánh, nên nói: Thấy mà không thấy. Thế nào là thấy mà không thấy?
Ngươi cần phải nói một cách chân chánh rằng: Hết thảy phạm hạnh thanh
tịnh đầy đủ, được tuyên thị, lưu bố. Đó là thấy mà không thấy.
“Này Châu-na, pháp tương tục kia không đầy đủ nhưng có thể đạt được.
Pháp không tương tục kia tuy đầy đủ nhưng không thể đạt được. Này
Châu-na, phạm hạnh trong các pháp, là đề hồ trong các thứ tô lạc “.”
Rồi Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Ta đối với pháp này tự thân tác chứng. Đó là bốn niệm xứ, bốn thần
túc, bốn ý đoạn, bốn thiền, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám đạo Hiền
thánh. Các ngươi tất cả hãy cùng hòa hợp chớ sanh tranh chấp. Cùng theo
học một Thầy, cũng như nước và sữa hòa một; ở trong Chánh pháp của Như
Lai, hãy tự thắp sáng cho mình, nhanh chóng được an lạc. Sau khi đã được
an lạc, nếu có Tỳ-kheo nào, trong lúc có Tỳ-kheo đang thuyết pháp, mà
nói rằng: Điều được nói của vị kia, văn cú không chánh; nghĩa lý không
chánh. Tỳ-kheo nghe như thế không nên nói đấy là đúng, cũng không nên
nói đấy là sai, mà hãy nói với Tỳ-kheo ấy rằng: Thế nào, chư Hiền? Câu
của tôi như vậy. Câu của các ngài như vậy. Nghĩa của tôi như vậy. Nghĩa
của các ngài như vậy. Cái nào hơn? Cái nào thua? Nếu Tỳ-kheo kia nói
rằng: Câu của tôi như vậy. Câu của ngài như vậy. Nghĩa của tôi như vậy.
Nghĩa của ngài như vậy. Câu của ngài hơn. Nghĩa của ngài cũng hơn.
Tỳ-kheo kia nói vậy, nhưng cũng chớ cho là đúng, cũng chớ cho là sai, mà
nên can gián Tỳ-kheo ấy, nên khuyến cáo hãy từ bỏ, hãy cùng suy cầu.
Như vậy, cùng nhau hòa hợp, chớ sanh tranh chấp. Cùng một Thầy học, như
sữa và nước hợp nhất; ở trong Chánh pháp của Như Lai, hãy tự mình thắp
sáng, chóng được an lạc.
“Sau khi đã an lạc, nếu có Tỳ-kheo nào trong khi có Tỳ-kheo đang
thuyết pháp mà nói như vậy: Điều mà vị ấy nói, văn cú không chánh, nhưng
nghĩa thì chánh. Tỳ-kheo nghe như vậy, không nên nói đấy là đúng, cũng
không nên nói đấy là sai, mà nên nói với Tỳ-kheo ấy rằng: Thế nào,
Tỳ-kheo? Câu của tôi như vậy. Câu của ngài như vậy. Câu nào đúng? Câu
nào sai? Nếu Tỳ-kheo ấy nói: Câu của tôi như vậy. Câu của ngài như vậy.
Câu của ngài hơn. Tỳ-kheo kia nói như vậy, nhưng cũng không nên nói đấy
là đúng, cũng không nên nói thế là sai, mà nên can gián Tỳ-kheo ấy, nên
khuyến cáo hãy dứt bỏ, hãy cùng suy cầu. Như vậy tất cả cùng hòa hợp,
chớ sanh tranh chấp, đồng một Thầy học, như nước sữa hợp nhất, ở trong
Chánh pháp của Như Lai, hãy tự mình thắp sáng, nhanh chóng được an lạc.
“Sau khi đã an lạc, nếu có Tỳ-kheo nào trong khi có Tỳ-kheo đang
thuyết pháp mà nói như vậy: Điều mà vị kia nói, văn cú chánh, nhưng
nghĩa không chánh. Tỳ-kheo nghe như vậy, không nên nói đấy là đúng, cũng
không nên nói đấy là sai, mà nên nói với Tỳ-kheo ấy rằng: Thế nào,
Tỳ-kheo? Câu của tôi như vậy. Câu của ngài như vậy. Câu nào đúng? Câu
nào sai? Nếu Tỳ-kheo ấy nói: Câu của tôi như vậy. Câu của ngài như vậy.
Câu của ngài hơn. Tỳ-kheo kia nói như vậy, nhưng cũng không nên nói đấy
là đúng, cũng không nên nói thế là sai, mà nên can gián Tỳ-kheo ấy, nên
khuyến cáo hãy dứt bỏ, hãy cùng suy cầu. Như vậy tất cả cùng hòa hợp,
chớ sanh tranh chấp, đồng một Thầy học, cùng hòa hợp như nước với sữa, ở
trong Chánh pháp của Như Lai, hãy tự mình thắp sáng, chóng được an lạc.
“Sau khi được an lạc, nếu có Tỳ-kheo trong khi có Tỳ-kheo đang thuyết
pháp mà nói như vậy Điều được thuyết kia, văn cú chánh, nghĩa chánh.
Tỳ-kheo nghe như vậy, không nên nói là sai, mà hãy nên khen ngợi Tỳ-kheo
ấy rằng: Điều ngài nói là đúng. Điều ngài nói là đúng. Vì vậy, này
Tỳ-kheo, trong mười hai bộ kinh hãy tự mình chứng nghiệm, rồi lưu bố
rộng rãi. Một là Quán kinh. Hai là Kỳ dạ kinh. Ba là Thọ ký kinh. Bốn là
Kệ kinh. Năm là Pháp cú kinh. Sáu là Tương ưng kinh. Bảy là Bổn duyên
kinh. Tám là Thiên bổn kinh. Chín là Quảng kinh. Mười là Vị tằng hữu
kinh. Mười một là Thí dụ kinh. Mười hai là Đại giáo kinh. Các ngươi hãy
khéo thọ trì, hãy tùy năng lực mà suy xét, phân bố rộng rãi.
“Này các Tỳ-kheo, y mà Ta quy định, hoặc y lấy từ bãi tha ma, hoặc y
của trưởng giả, hoặc y xấu hèn; các thứ y ấy đủ để che nóng che lạnh,
muỗi mòng; đủ đểệ trùm kín bốn chi thể.
“Này các Tỳ-kheo, ẩm thực mà Ta quy định, hoặc thực phẩm do khất
thực, hoặc từ cư si; các loại thực phẩm ấy đủ no. Nếu thân thể khổ não,
các bệnh hoạn bức thiết mình, sợ rằng có thể vì thế mà chết, cho nên Ta
cho phép các loại thực phẩm ấy, để tri túc mà thôi.
“Này các Tỳ-kheo, trú xứ mà Ta quy định, hoặc dưới gốc cây, hoặc chỗ
trống, hoặc trong phòng, hoặc trên lầu gác, hoặc trong hang, hoặc tại
các trú xứ khác; các trú xứ ấy đủ để ngăn che nóng lạnh, che nắng, che
mưa, muỗi mòng, cho đến chỗ vắng vẻ để nghỉ ngơi.
“Này các Tỳ-kheo, thuốc men mà Ta quy định, hoặc đại tiểu tiện, hoặc
dầu, hoặc mật; các thứ thuốc ấy tự đủ, nếu thân thể phát sanh đau nhức,
các thứ bệnh hoạn bức thiết mình, sợ rằng có thể chết, cho nên Ta quy
định các thứ thuốc ấy”.”
Phật lại nói:
“Hoặc có Phạm chí ngoại đạo đến nói: Sa-môn Thích tử hưởng thụ các
thứ hoan lạc. Nếu có người nói như vậy, nên trả lời rằng: Ngươi chớ nói
như vậy, rằng Sa-môn Thích tử ham hưởng thụ các thứ hoan lạc. Vì sao? Có
thứ lạc nếu hưởng thụ thì bị Như Lai chê trách. Có thứ lạc nếu hưởng
thụ thì được Như Lai khen ngợi. Nếu Phạm chí ngoại đạo hỏi: Thứ lạc nào
mà nếu hưởng thụ thì bị Cù-đàm chê trách? Nếu có hỏi như vậy, nên trả
lời rằng: Năm phẩm tính của dục, đáng ưa đáng thích, mọi ngườòi đều đam
mê. Thế nào là năm? Mắt nhận thức sắc, đáng ưa đáng thích, mọi người đều
đam mê. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưuỡi nếm vị, thân biết xúc
cảm, đáng ưa đáng thích, mọi người đều đam mê. Này chư Hiền, do duyên là
năm dục mà sanh hỷ lạc; đó là điều mà Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh
Giác chê trách. Cũng như có người cố tình sát hại chúng sanh, tự cho thế
là hoan lạc; đó là điều mà Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác chê
trách. Cũng như có người lén lút trộm cắp của người, cho thế là khoái
lạc; đó là điều mà Như Lai chê trách. Cũng như có người xâm phạm tịnh
hạnh của người khác, tự cho thế là khoái lạc; đó là điều mà Như Lai chê
trách. Cũng như có người cố ý nói dối, tự cho thế là khoái lạc; đó là
đđiều mà Như Lai chê trách. Cũng có người sống phóng đãng buông thả; đó
là diều Như Lai chê trách. Cũng có người hành khổ hạnh bề ngoài, không
phải là hành chân chánh mà Như Lai dạy, tự cho thế là khoái lạc; đó là
điều Như Lai chê trách.
“Này các Tỳ-kheo, năm phẩm chất của dục vốn đáng chê trách, mà mọi
người tham đắm. Những gì là năm? Mắt nhận biết sắc, đáng ưa đáng thích,
là cái mà con người tham đắm. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm
vị, thân biết xúc, đáng ưa đáng thích, mọi người tham đắm. Sa-môn Thích
tử không tán đồng những thứ khoái lạc như vậy. Cũng như có người cố ý
sát sanh, cho đó là khoái lạc. Sa-môn Thích tử không tán đồng khoái lạc
như vậy. Cũng như có người trộm cắp, cho thế là khoái lạc. Sa-môn Thích
tử không tán đồng những thứ khoái lạc như vậy. Cũng như có người phạm
tịnh hạnh, cho thế là khoái lạc. Sa-môn Thích tử không tán đồng khoái
lạc như vậy. Cũng như có người phóng đãng buông trôi, cho thế là lạc.
Sa-môn Thích tử không tán đồng khoái lạc như vậy. Cũng như có người
hành khổ hạnh bề ngoài, cho thế là khoái lạc. Sa-môn Thích tử không tán
đồng khoái lạc như vậy.
“Nếu có Phạm chí ngoại đạo hỏi như vậy: Thứ lạc hưởng thụ nào mà
Sa-môn Thích tử khen ngợi? Này các Tỳ-kheo, nếu người kia có nói như
vậy, các ngươi nên trả lời rằng: Này chư Hiền, năm phẩm chất của dục,
đáng ưa đáng thích, được người đời tham đắm. Những gì là năm? Mắt biết
sắc,...., cho đến, thân biết xúc, đáng ưa đáng thích, được người đời
tham đắm. Này chư Hiền, do nhân duyên là năm dục mà sanh lạc, nên nhanh
chóng diệt trừ. Cũng như có người cố ý sát sanh, tự cho thế là khoái
lạc. Thứ lạc như thế, nên nhanh chóng diệt trừ. Cóò người trộm cắp, tự
cho thế là khoái lạc. Thứ lạc ấy nên nhanh chóng diệt trừ. Cũng như có
người phạm tịnh hạnh, tự cho thế là khoái lạc. Thứ lạc ấy nên chóng diệt
trừ. Cũng như có người phóng đãng buông trôi, tự cho thế là khoái lạc.
Thứ
lạc ấy nên nhanh chóng diệt trừ. Cũng như có người hành khổ hạnh bề
ngoài, cho thế là khoái lạc. Thứ lạc ấy nên chóng diệt trừ. Cũng như có
người ly dục, lìa bỏ pháp ác bất thiện, có giác có quán, có hỷ lạc phát
sanh do ly dục, nhập Sơ thiền. Lạc như thế là điều Phật khen ngợi. Cũng
như có người diệt giác quán, nội tâm hoan hỷ, nhất tâm, không giác không
quán, có hỷ lạc do định sanh, nhập Nhị thiền. Lạc như thế được Phật
khen ngợi. Cũng như có người trừ hỷ, nhập xả, tự biết thân lạc, là điều
mà Hiền thánh mong cầu, có xả niệm, nhất tâm, nhập đệ Tam thiền. Lạc như
thế được Phật khen ngợi. Lạc hết, khổ hết, ưu và hỷ trước đã diệt,
không khổ không lạc, hộ niệm thanh tịnh, nhập đệ Tứ thiền. Lạc như vậy
được Phật khen ngợi.
“Nếu có Phạm chí ngoại đạo nói như vầy: Trong lạc ấy, các ngươi tìm
phẩm chất gì? Nên trả lời rằng: Lạc ấy sẽ đưa đến phẩm chất của bảy quả.
Những gì là bảy? Ngay trong đời này, chứng đắc Thánh đạo. Giả sử chưa
chứng, sau khi chết, sẽ chứng đắc Thánh đạo. Nếu trong khi chết mà chưa
chứng đắc, thì sẽ đoạn trừ năm hạ phần kết, sẽ chứng đắc Trung bát
Niết-bàn, Sanh bát Niết-bàn, Hành bát Niết-bàn, Vô hành bát Niết-bàn,
Thượng lưu A-ca-nị-trá Niết-bàn. Này chư Hiền, như vậy lạc ấy có bảy
phẩm chất. Chư Hiền, nếu Tỳ-kheo đang ở bậc học địa mà muốn hướng
thượng, tìm cầu chỗ an ổn, nhưng chưa trừ năm triền cái. Những gì là
năm? Tham dục triền cái, sân nhuế triền cái, thụy miên triền cái, trạo
hý triền cái, nghi triền cái. Tỳ-kheo hữu học kia muốn cầu hướng thượng,
tìm chỗ
an ổn, nhưng chưa diệt trừ năm triền cái, đối với bốn niệm xứ không hay
tinh cần, đối với bảy giác ý không hay tinh cần, lại muốn chứng được
pháp thượng nhân, trí tuệ tăng thượng của Hiền thánh, mong cầu muốn
biết, muốn thấy, không có trường hợp ấy.
“Chư Hiền, Tỳ-kheo hữu học muốn cầu hướng thượng, tìm cầu chỗ an ổn,
mà có thể diệt trừ năm triền cái là tham dục triền cái, sân nhuế triền
cái, thụy miên triền cái, trạo hý triền cái, nghi triền cái, đối với bốn
niệm xứ lại hay tinh cần, đối với bảy giác ý như thật tu hành, vị ấy
muốn đượôc pháp thượng nhân, trí tuệ tăng thượng của Hiền thánh, muốn
biết muốn thấy, có trường hợp như vậy.
“Chư Hiền, có Tỳ-kheo là lậu tận A-la-hán, điều cần làm đã làm xong,
đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, đã dứt sạch các
kết sử của hữu, với chánh trí đã giải thoát; vị ấy không làm chín việc.
Những gì là chín? Một là không giết. Hai là không lấy trộm. Ba là không
dâm. Bốn là không nói dối. Năm, không xả đạo . Sáu, không bị dục chi
phối. Bảy, không bị sân chi phối. Tám, không bị sợ hãi chi phối. Chín,
không bị nghi chi phối. Chư Hiền, ấy là vị lậu tận A-la-hán đã làm xong
điều cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, đã
dứt sạch kết sử của hữu, chánh trí giải thoát, xa lìa chín sự.
“Hoặc có Phạm chí ngoại đạo nói như vầy: Sa-môn Thích tử có pháp bất
trụ. Nên trả lời vị ấy rằng: Chư Hiền, chớ nói như vậy, rằng Sa-môn
Thích tử có pháp bất trụ. Vì sao vậy? Pháp của Sa-môn Thích tử là thường
trụ, không bị dao động. Cũng như ngưỡng cửa thường trụ không động. Pháp
của Sa-môn Thích tử cũng vậy, thường trụ không di động.
“Hoặc có Phạm chí ngoại đạo nói như vậy: Sa-môn Cù-đàm biết suốt việc
trong đời quá khứ, nhưng không biết việc trong đời vị lai. Tỳ-kheo kia,
cùng Phạm chí dị học kia, trí tuệ khác nhau, trí quán cũng khác, nên
lời nói hư dối. Như Lai đối với việc quá khứ kia, không gì không thấy
biết, rõ như ở trước mắt. Đối với đời vị lai, Như Lai có trí tuệ phát
sanh từ đạo. Việc trong đời quá khứ vốn hư dối không thật, không đáng
vui thích, không lợi ích gì, Như Lai không ghi nhận. Hoặc việc quá khứ
có thật, nhưng không đáng ưa thích, không ích lợi gì, Phật cũng không
ghi nhận. Nếu việc quá khứ có thật, đáng ưa, nhưng không lợi ích, Phật
cũng không ghi nhận. Nếu việc quá khứ có thật, đáng ưa, có lợi ích, Như
Lai biết suốt, sau đó mới ghi nhận. Vị lai, hiện tại, cũng vậy.
“Như Lai đối với quá khứ, vị lai, hiện tại, nói đúng thời, nói sự
thật, nói có nghĩa, có lợi, nói đúng pháp, đúng luật, không có lời hư
dối. Phật từ đêm đầu tiên thành Vô thượng Chánh giác cho đến đêm cuối
cùng, trong khoảng giữa, có nói điều gì, thảy đều như thật; do đó gọi là
Như Lai.
“Lại nữa, những điều Như Lai nói đúng như sự; sự đúng như lời; do đó gọi là Như Lai.
“Do nghĩa gì mà gọi là Đẳng Chánh Giác? Những gì mà Phật thấy biết,
diệt trừ, giác ngộ, Phật thảy đều giác ngộ, biết rõ, nên gọi là Đẳng
Chánh Giác.
“Hoặc có Phạm chí ngoại đạo nói như vậy: Thế gian thường còn. Duy chỉ
điều này là thật; ngoài ra đều là hư dối. Hoặc có người lại nói: Thế
gian này là vô thường. Duy chỉ điều này là thật; ngoài ra đều hư dối.
Hoặc có người lại nói: Thế gian vừa thường vừa vô thường. Duy chỉ điều
này là thật; ngoài ra đều hư dối. Hoặc có người nói: Thế gian không phải
thường, không phải vô thường. Duy chỉ điều này là thật; ngoài ra là hư
dối.
“Hoặc có người nói: Thế gian hữu biên. Duy chỉ điều này là thật;
ngoài ra đều hư dối. Hoặc có người nói: Thế gian vô biên. Duy chỉ điều
này là thật; ngoài ra đều hư dối. Hoặc có người nói: Thế gian vừa hữu
biên vừa vô biên. Duy chỉ điều này là thật; ngoài ra đều hư dối. Hoặc
nói: Thế gian không phải hữu biên không phải vô biên. Duy chỉ điều này
là thật; ngoài ra đều hư dối.
“Hoặc nói: Chính mạng tức là thân. Duy chỉ điều này là thật; ngoài ra
đều dối. Hoặc nói: Mạng không phải là thân. Đây là thật; ngoài ra là
dối. Hoặc nói: Mạng khác thân khác. Đây là thật; ngoài ra là dối. Hoặc
nói: Không phải mạng khác thân khác. Đây là thật; ngoài ra là dối.
“Hoặc nói: Như Lai có cuối cùng. Đây là thật, ngoài ra là dối. Hoặc
nói: Như Lai không có cuối cùng. Đây là thật còn ngoài ra là dối. Hoặc
nói: Như Lai vừa có cuối cùng vừa không có cuối cùng, đây là thật còn
ngoài ra là dối. Hoặc nói: Như Lai không phải có cuối cùng cũng không
phải không có cuối cùng, đây là thật còn ngoài ra là dối.
“Những ai có quan điểm như vậy, gọi là bổn sanh bổn kiến. Nay ta ghi
nhận cho ngươi rằng: Thế gian là thường còn... cho đến, Như Lai không
phải có cuối cùng cũng không phải không có cuối cùng. Đây là thật còn
ngoài ra là dối. Đó là bổn kiến bổn sanh. Hãy ghi nhớ lấy.
“Gọi là: Mạt kiếp mạt sanh. Ta cũng ghi nhận. Những gì là mạt kiếp
mạt sanh được ta ghi nhận? Sắc là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng;
đây là thật còn ngoài ra là dối. Vô sắc là ta, tùy theo tưởng có cuối
cùng. Vừa có sắc vừa vô sắc là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Không
phải có sắc không phải không sắc là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng.
Ta là hữu biên, ta là vô biên, ta vừa hữu biên vừa vô biên, ta không
phải hữu biên cũng không phải vô biên, tùy theo tưởng mà có cuối cùng.
Ta có lạc, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Ta không có lạc, tùy theo
tưởng mà có cuối cùng. Ta vừa có khổ vừa có lạc, tùy theo tưởng mà có
cuối cùng. Ta không khổ cũng không lạc, tùy theo tưởng mà có cuối cùng.
Một tưởng là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Nhiều tưởng là ta, tùy
theo tưởng mà có cuối cùng. Ít tưởng là ta, tùy theo tưởng mà có cuối
cùng. Vô lượng tưởng là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Đây là thật
ngoài ra là dối. Đó là tà kiến bổn kiến bổn sanh, được Ta ghi nhận.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn, có luận như vầy, có kiến như vầy: thế
gian này thường còn, đây là thật, ngoài ra là dối... cho đến, vô lượng
tưởng là ta, đây là thật, ngoài ra là dối. Sa-môn, Bà-la-môn kia, lại
nói như vầy, thấy như vầy: Đây là thật ngoài ra là hư dối. Nên trả lời
người ấy rằng: Có phải ngươi chủ trương rằng, thế giới này là thường
còn; đây là thật còn ngoài ra là dối? Lời nói như vậy Phật không chấp
nhận. Vì sao? Trong các kiến giải đó mỗi thứ đều có kết sử. Ta lấy lý mà
suy, trong các Sa-môn, Bà-la-môn, không ai bằng Ta, huống hồ muốn hơn
Ta. Các tà kiến như vậy chỉ có nơi lời nói mà thôi, không đáng cùng bàn
luận... Cho đến vô lượng tưởng là ta, cũng vậy.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn nói như vầy: Thế gian này tự tạo. Lại có
Sa-môn, Bà-la-môn nói: Thế gian này cái khác tạo. Hoặc nói: Vừa tự tạo
vừa cái khác tạo. Hoặc nói: Không phải tự tạo cũng không phải cái khác
tạo nhưng ngẫu nhiên mà có. Sa-môn, Bà-la-môn nào nói rằng thế gian là
tự tạo thì các Sa-môn, Bà-la-môn ấy đều nhân bởi nhân duyên là xúc. Nếu
lìa xúc là nhân mà có thể nói được; không có trường hợp ấy. Vì sao? Do
sáu nhập thân mà phát sanh xúc. Do xúc mà sanh thọ. Do thọ mà sanh ái.
Do ái mà sanh thủ. Do thủ mà sanh hữu. Do hữu mà sanh sanh. Do sanh mà
có già, chết, ưu, buồn, khổ não, khối lớn khổ đau. Nếu không có sáu
nhập, thì không có xúc. Không có xúc thì không có thọ. Không có thọ thì
không có ái. Không có ái thì không có thủ. Không có thủ thì không có
hữu. Không có hữu thì không có sanh. Không có sanh thì không có già,
chết, ưu, buồn, khổ não, khối lớn khổ đau.
“Lại nói, thế gian này do cái khác tạo; lại nói, thế gian này vừa tự
tạo vừa do cái khác tạo; lại nói, thế gian này không phải tự tạo cũng
phải do cái khác tạo, nhưng ngẫu nhiên mà có; cũng vậy. Nhân xúc mà có,
không có xúc thì không”.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu muốn diệt trừ các quan điểm tà ác ấy, nên tu ba hành đối với Bốn
niệm xứ. Thế nào Tỳ-kheo diệt trừ các tà ác, nên tu ba hành với Bốn
niệm xứ? Tỳ-kheo quán thân trên nội thân, tinh cần không biếng nhác, ghi
nhớ không quên, trừ tham ưu ở đời. Quán thọ, ý, pháp, cũng vậy. Đó là
muốn diệt trừ ba hành đối với Bốn niệm xứ.
“Có tám giải thoát. Những gì là tám? Có sắc, quán sắc, đó là giải
thoát thứ nhất. Bên trong có sắc tưởng, quán ngoại sắc là giải thoát thứ
hai. Tịnh giải thoát là giải thoát thứ ba. Vượt sắc tưởng, diệt hữu đối
tưởng, trú không xứ là giải thoát thứ tư. Xả không xứ trú thức xứ là
giải thoát thứ năm. Xả thức xứ, trú bất dụng xứ là giải thoát thứ sáu.
Xả bất dụng xứ, trú hữu tưởng vô tưởng xứ là giải thoát thứ bảy. Diệt
tận định, giải thoát thứ tám”.”
Bấy giờ, A-nan đứng sau Thế Tôn, cầm quạt quạt Phật, bèn trịch áo bày vai phải, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay bạch Phật rằng:
“Kỳ diệu thay, Thế Tôn. Pháp này thanh tịnh, vi diệu bậc nhất, nên gọi là gì? Nên phụng trì như thế nào?”
Phật bảo A-nan:
“Kinh này gọi là là “Thanh tịnh”. Ngươi hãy phụng trì như thế”.”
Bấy giờ, A-nan sau khi nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-