Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại Xá-vệ, trong vườn Thanh tín, giảng đường Lộc
mẫu, cùng chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người.
Lúc ấy, có hai người Bà-la-môn với lòng tin kiên cố tìm đến chỗ Phật
xin xuất gia học đạo, một tên là Bà-tất-tra một tên là Bà-la-đọa.
Lúc bấy giờ, Ðức Thế Tôn rời khỏi tịnh thất, đang kinh hành thong thả
trên giảng đường. Bà-tất-tra vừa trông thấy Phật liền vội vàng đến bảo
Bà-la-đọa:
“Anh biết không, Như Lai hiện đang rời khỏi tịnh thất kinh hành tại
giảng đường. Chúng ta nên đến đó hoặc có nghe Ngài dạy bảo điều gì
chăng?”
Bà-la-đọa nghe nói thế liền cùng đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ chân Phật, rồi đi theo sau Phật.
Phật nói với Bà-tất-tra:
“Hai người vốn sanh trong dòng Bà-la-môn, với lòng tin kiên cố, muốn xuất gia tu hành ở trong giáo pháp ta phải không?”
Hai người đáp:
“Thưa phải.”
Phật nói:
“Này Bà-la-môn, nay các ngươi xuất gia tu hành ở trong giáo pháp Ta, các người Bà-la-môn khác há không hiềm trách các ngươi?”
Hai người đáp:
“Thưa có. Nhưng mong ơn lớn của Phật được xuất gia tu đạo, thật sự chúng con không khỏi bị các người Bà-la-môn hiềm trách.”
Phật dạy:
“Họ lấy lẽ gì mà hiềm trách các ngươi?”
Hai người đáp:
“Họ nói rằng: Dòng Bà-la-môn ta tối cao bậc nhất, các dòng khác thấp
hèn. Dòng ta trắng trẻo, các dòng khác đen điu. Dòng Bà-la-môn ta xuất
xứ từ Phạm thiên, từ miệng Phạm thiên sanh ra, ở ngay trong hiện tại mà
được thanh tịnh giải, về sau cũng thanh tịnh. Cớ gì các ngươi lại bỏ
dòng thanh tịnh của mình mà vào trong dị pháp của Cù-đàm kia. Bạch Thế
Tôn, thấy chúng con ở trong Phật pháp mà xuất gia tu đạo nên họ lấy lời
lẽ như thế chê trách chúng con.”
Phật bảo Bà-tất-tra:
“Này Bà-tất-tra, ngươi xem các người đó khác nào kẻ ngu si vô thức
như cầm thú, dối trá tự xưng rằng: Dòng Bà-la-môn là tối cao bậc nhất,
còn ngoài ra là hèn hạ. Dòng ta trắng trẻo, các dòng khác đen điu. Dòng
Bà-la-môn ta xuất xứ từ Phạm thiên, từ miệng Phạm thiên sanh, ở ngay
trong hiện tại mà được thanh tịnh giải, về sau cũng thanh tịnh. Này
Bà-tất-tra, nay trong Chánh đạo vô thượng của Ta không cần kể dòng dõi,
không ỷ vào tâm kiêu mạn ngô ngã. Pháp thế tục cần thứ đó. Pháp của Ta
không phải vậy. Nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào tự thị chủng tộc, ôm
lòng kiêu mạn thì ở trong giáo pháp Ta trọn không chứng đắc Vô thượng.
Nếu hay khước từ chủng tánh, trừ bỏ tâm kiêu mạn, thì mới có thể chứng
được đạo quả Vô thượng trong giáo pháp Ta, mới kham lãnh thọ được Chánh
pháp. Người đời gớm ghét kẻ hạ lưu, còn giáo pháp ta không thế.”
“Này Bà-tất-tra! Có bốn chủng tánh gồm cả người lành người dữ; được
người trí khen, cũng bị người trí chê. Bốn chủng tánh ấy là: Sát-lỵ,
Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la.
“Này Bà-tất-tra! Hẳn ngươi từng nghe trong dòng Sát-lỵ có kẻ sát
sinh, có kẻ trộm cắp, có kẻ dâm loạn, kẻ dối trá, kẻ nói hai lưỡi, kẻ
nói ác độc, có kẻ ỷ ngữ, có kẻ xan tham, có kẻ tật đố, có kẻ tà kiến,
thì trong dòng Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la cũng có lẫn lộn đủ hạng người
làm mười ác hạnh đó. Này Bà-tất-tra! Phàm làm điều bất thiện thì có quả
báo bất thiện, làm điều hắc ám thì có quả báo hắc ám. Nếu rằng quả báo
đó chỉ có với dòng Sát-lỵ, Cư sĩ, Thủ-đà-la chứ không có với dòng
Bà-la-môn, khi ấy người Bà-la-môn mới nên tự cho dòng Bà-la-môn ta là
tối cao bậc nhất, còn các dòng khác thấp hèn, dòng ta trắng trẻo, các
dòng khác đen điu; dòng Bà-la-môn ta xuất hiện từ Phạm thiên, từ miệng
Phạm thiên sinh ra, hiện tại thanh tịnh, về sau cũng thanh tịnh. Trái
lại nếu
rằng làm điều bất thiện thì có quả báo bất thiện, làm điều hắc ám thì có
quả báo hắc ám, quả báo đó bất cứ Bà-la-môn, Sát-lỵ, hay Thủ-đà-la đều
có như nhau, thời người Bà-la-môn không thể tự xưng chỉ dòng ta là thanh
tịnh tối cao bậc nhất.
“Này Bà-tất-tra! Nếu trong dòng Sát-lỵ, có kẻ không giết, không trộm,
không tà dâm, không nói dối, không hai lưỡi, không ác khẩu, không ỷ
ngữ, không xan tham, không tật đố, không tà kiến, thời trong dòng
Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la cũng đều có hạng người tu mười điều thiện
như thế. Phàm làm điều lành, tất có quả báo lành, làm điều thanh bạch
tất có quả báo thanh bạch. Nếu rằng quả báo đó chỉ có với dòng Bà-la-môn
mà không có với dòng Sát-lỵ, Cư sĩ, Thủ-đà-la khi ấy người dòng
Bà-la-môn mới nên tự xưng dòng mình thanh tịnh tối cao bậc nhất. Trái
lại, nếu cả bốn chủng tánh đều có quả báo đó, thời người Bà-la-môn không
thể tự xưng chỉ dòng ta là thanh tịnh tối cao bậc nhất.
“Này Bà-tất-tra! Nay hiện dòng Bà-la-môn có gả cưới, có sinh sản
không khác người đời, thế mà lại dối xưng ta là dòng Phạm thiên, từ
miệng Phạm thiên sinh ra, hiện tại được thanh tịnh, về sau cũng thanh
tịnh.
“Này Bà-tất-tra! Ngươi nên biết hiện nay chúng đệ tử của Ta, dòng dõi
không đồng, xuất xứ khác nhau, xuất gia tu hành ở trong giáo pháp Ta.
Nếu có gặp ai hỏi: Người thuộc dòng nào? thì nên trả lời họ: Tôi là
Sa-môn, con dòng họ Thích. Hoặc có thể tự xưng: Tôi dòng Bà-la-môn, tôi
đích từ miệng Phật sanh ra, từ Pháp hóa sinh ra, hiện tại được thanh
tịnh, về sau cũng thanh tịnh. Tại sao thế? Vì các danh xưng Đại Phạm tức
là đức hiệu Như Lai. Như Lai là con mắt của thế gian, là trí tuệ của
thế gian, là pháp của thế gian, là Phạm của thế gian, là Pháp luân của
thế gian, là Cam lồ của thế gian, là Pháp chủ của thế gian vậy.
“Này Bà-tất-tra, nếu trong dòng Sát-lỵ có người thành tín Phật, là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, mười hiệu đầy đủ.
“Thành tín Pháp, tin pháp của Như Lai, là thanh tịnh vi diệu, có thể
tu hành ngay hiện tại, được nói ra không hạn cuộc thời tiết, là pháp đưa
đến Niết-bàn, duy người trí mới thấu rõ, chẳng phải kẻ phàm phu ngu si
thấu rõ được .
“Thành tín Tăng, tánh thiện chất trực, đạo quả thành tựu, quyến thuộc
thành tựu, là đệ tử chân chính của Phật, thành tựu pháp và tùy pháp.
Nói là chúng, đó là nói chúng thành tựu giới, chúng thành tựu định,
chúng thành tựu tuệ, chúng giải thoát, chúng giải thoát tri kiến. Đó là
chúng Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn quả; chúng Tư-đà-hàm hướng, Tư-đà-hàm
quả; chúng A-na-hàm hướng, A-na-hàm quả; chúng A-la-hán hướng; chúng
A-la-hán quả. Gồm bốn đôi tám bậc. Đó là chúng đệ tử của Như Lai, rất
đáng kính, đáng tôn trọng, làm ruộng phước của thế gian; xứng đáng lãnh
thọ sự cúng dường người .
“Thành tín Giới, là giới luật Thánh hiền đầy đủ, không khuyết lậu,
không tì vết, cũng không dính nhơ, được người trí ngợi khen, đầy đủ đức
tính tốt lành và vắng lặng thì này Bà-tất-tra, người dòng Bà-la-môn, Cư
sĩ, Thủ-đà-la cũng có thể như thế. Thành tín Phật, tin Pháp, tin Tăng và
tin Thánh giới thành tựu.
“Này Bà-tất-tra, trong dòng Sát-lỵ cũng có người cúng dường, cung
kính, lễ bái A-la-hán. Dòng Bà-la-môn, Cư sĩ, Tthủ-đà-la cũng đều có
người cúng dường, cung kính, lễ bái A-la-hán như thế.
Này Bà-tất-tra, nay thân tộc Ta, dòng họ Thích, cũng tôn phụng vua
Ba-tư-nặc , tôn thờ lễ kính. Vua Ba-tư-nặc cũng lại đến cúng dường, kính
lễ Ta. Vua không nghĩ rằng: Vì Sa-môn Cù-đàm sinh từ dòng hào quý còn
ta sinh dòng hạ tiện. Sa-môn Cù-đàm sinh trong nhà đại tài phú, đại oai
đức còn ta sinh nhà hạ cùng bỉ lậu ty tiện. Cho nên ta phải đến cúng
dường Như Lai. Nhưng Ba-tư-nặc căn cứ trên pháp, quán sát pháp, biết rõ
chân ngụy, cho nên mới sanh lòng tịnh tín đến kính lễ cúng dường Như
Lai.
“Này Bà-tất-tra, nay Ta sẽ vì ngươi nói rõ nhân duyên của bốn chủng tánh ấy.
“Trời đất thủy chung, khi kiếp tận băng hoại, chúng sanh mệnh chung
đều sanh lên cõi trời Quang âm. Tự nhiên hóa sanh, ăn bằng tư niệm lực,
mình phát ánh sáng và có thần túc bay trong hư không.
“Về sau, cõi đất này thảy biến thành nước trùm ngập tất cả. Vào lúc
ấy không có mặt trời, mặt trăng, các sao, cũng không có kể ngày đêm,
năm, tháng, số tuổi. Duy có một vùng tối tăm bao la. Sau dần dần biển
nước đó lại biến thành cõi đất. Các vị trời Quang âm đến lúc hết phước,
mệnh chung, sinh xuống nơi này. Tuy sinh xuống đó, song vẫn ăn bằng tư
niệm, còn có thần túc bay đi, thân còn tỏa sáng. Chúng sống như thế một
thời gian lâu và ai cũng gọi nhau là chúng sanh, chúng sanh.
“Về sau nữa, từ trong cõi đất này có suối ngọt chảy ra giống như
đường mật. Chúng khi mới đến, thiên tánh còn khinh tháo giản dị, thấy
vậy nghĩ thầm: Đó là vật gì ta hãy nếm thử? Liền nhúng ngón tay vào suối
để nếm thử, nếm tới ba lần, cảm thấy ngon, chúng mới lấy tay bụm ăn
không chút e ngại và cứ mê say ăn như thế chẳng biết nhàm. Các chúng
sanh khác nhìn thấy bắt chước làm theo, nếm đến ba lần, cảm thấy ngon
rồi cũng tiếp tục ăn mãi, do đó, thân họ trở nên thô kệch, da thịt cứng
rắn, mất cả màu sắc đẹp đẽ nhà trời, thần túc không còn, phải đi trên
đất, ánh sáng nơi thân cũng mất, cả trời đất tối tăm.
“Này Bà-tất-tra, nên biết pháp thường của trời đất, sau thời gian tối
tăm thì có thiên tượng: mặt trời, trăng, sao, xuất hiện ở không trung,
rồi từ đó bắt đầu có ngày đêm, tối sáng, năm tháng, số tuổi. Chúng sanh
lúc này chỉ sống nhờ ăn vị đất mà sống lâu trong thế gian. Người nào ham
ăn nhiều thì nhan sắc thô xấu, người nào ăn ít thì nhan sắc còn tươi
nhuận, do đó mới bắt đầu có sự tốt xấu, đoan chính. Người đoan chính thì
sinh tâm kiêu mạn khinh người xấu xí. Người xấu xí thì sinh tâm tật đố
ghét người đoan chính. Chúng sanh do đó thù nghịch với nhau.
“Bấy giờ suối ngọt tự nhiên cạn khô. Về sau, cõi đất tự nhiên lại
sinh ra chất béo của đất có đủ mùi vị thơm tho ăn được. Chúng sanh lại
lấy đất ấy mà ăn, sống lâu trong thế gian. Người nào ham ăn nhiều thì
nhan sắc mau xấu, người nào ăn ít thì nhan sắc còn tươi nhuận; người đẹp
đẽ sinh tâm kiêu mạn khinh người xấu xí; người xấu xí sinh tâm tật đố
ghét người đẹp đẽ. Chúng sanh vì thế cùng nhau tranh tụng mãi. Rồi thì,
chất béo của đất không còn sinh như trước. Về sau, đất này lại sinh thứ
chất béo của đất dày mà thô, tuy cũng thơm ngon ăn được nhưng không bằng
trước. Chúng sanh bấy giờ lại lấy đất này ăn mà sống lâu ở thế gian.
Người ham ăn nhiều thì nhan sắc mau xấu, người ăn ít thì nhan sắc còn
tươi nthuận. Người đoan chính, kẻ xấu xí cứ thị phi nhau rồi sinh điều
tranh tụng mãi. Từ đó chất đất tốt không sinh lại nữa. Về sau, đất này
lại sinh ra thứ lúa tự tnhhiên không có trấu, sắc vị đầy đủ, thơm tho ăn
được, chúng sanh lại lấy lúa gạo ăn, sống lâu ở thế gian; con trai con
gái nhìn nhau, dần dần móng tâm tình dục, mới tìm gần gũi nhau. Nhưng
chúng sanh khác thấy thế nói: Ngươi làm quấy, ngươi làm quấy và kẻ làm
quấy bị tẩn xuất khỏi nhóm người, sau ba tháng mới cho trở lại.
“Này Bà-tất-tra, những điều trước kia người ta cho là quấy, thì bây
giờ người ta cho là phải. Rồi chúng sanh kia tập quen với phi pháp, mặc
tình buông thả theo tình dục, không kể gì thời tiết. Rồi vì sự hổ thẹn
mới tạo lập phòng xá và từ đó thế gian khởi đầu có phòng xá. Đùa quen
với điều quấy, dâm dục ngày càng tăng lên, mới có bào thai sinh ra từ
bất tịnh và thế gian mới bắt đầu có bào thai vậy.
“Chúng sanh lúc ấy ăn loại lúa gạo tự nhiên; lấy xong nó lại sinh ra,
vô cùng vô tận. Sau trong chúng sanh đó có kẻ lười nhác thầm nghĩ rằng:
Cứ sáng ăn sáng lấy, chiều ăn chiều lấy thì nhọc nhằn. Chi bằng lấy
luôn cất đủ ăn một ngày. Nó liền lấy cất để ăn đủ một ngày. Sau đó có
bạn gọi nó đi lấy lúa, nó đáp: Tôi đã lấy đủ để ăn một ngày rồi. Bạn
muốn lấy thì cứ tùy ý. Người ấy bèn suy nghĩ: Anh này khôn ngoan, chứa
lương thực trước. Ta nay cũng muốn tích trữ lương thực đủ cho ba ngày.
Nó bèn trữ lương thực dư cho ba ngày. Khi có chúng sanh khác đến rủ đi
lấy gạo, nó đáp: Ta đã cất trước đủ ăn ba ngày rồi. Ngươi muốn lâấy cứ
tự ý đi mà lấy mấy tùy ý. Người đó lại nghĩ rằng: Gã kia khôn ngoan, đã
biết cất lương thực trước đủ ăn ba ngày. Vậy ta hãy bắt chước nó, cất đủ
năm ngày. Nó đi lấy cất ăn đủ năm ngày.
“Chúng sanh sau khi cạnh tranh nhau tích trữ, thóc lúa trở nên hoang
dại, bắt đầu có vỏ trấu. Cắt rồi không tự nhiên sinh lại như trước nữa.
Chúng sanh thấy thế trong lòng không vui, mới có sự ưu lo suy nghĩ: Ta
lúc đầu mới sinh ra, chỉ sống bằng tư niệm, thân ta có ánh sáng và thần
túc bay đi. Sau đó đất này tuôn ra suối ngọt, chảy ra giống như đường
mật thơm ngon ăn được. Chúng ta cùng ăn, tiếp tục ăn mãi. Ai ăn nhiều
thì nhan sắc thô xấu, người ăn ít thì sắc còn tươi nhuận. Do thức ăn này
mà nhan sắc chúng ta trở nên khác nhau. Chúng ta do vậy ai nấy ôm lòng
thị phi, ganh ghét lẫn nhau. Bấy giờ suối ngọt tự nhiên cạn khô. Về sau,
cõi đất tự nhiên lại sinh ra chất béo của đất có mùi vị thơm tho ăn
được. Chúng ta lại lấy đất ấy mà ăn. Ai ăn nhiều thì nhan sắc thô
xấu, người ăn ít thì sắc còn tươi nhuận. Chúng ta do vậy ai nấy ôm lòng
thị phi, ganh ghét lẫn nhau. Rồi thì, chất béo của đất không còn sinh
như trước mà lại sinh thứ chất thô kệch, tuy cũng thơm ngon ăn được.
Chúng ta lại lấy mà ăn. Ai ăn nhiều thì nhan sắc thô xấu, nghười ăn ít
thì sắc còn tươi vui. Chúng sanh do vậy ai nấy ôm lòng thị phi, ganh
ghét lẫn nhau. Rồi thì, chất béo của đất không còn sinh như trước, mà
lại sinh ra thứ lúa tự nhiên không có trấu. Chúng ta lại lấy mà ăn để
sống lâu ở đời. Rồi những kẻ biếng nhác tranh nhau tích trữ, nên lúa gạo
trở nên hoang dại, bắt đầu có vỏ trấu, cắt rồi không sinh lại. Bây giờ
phải làm sao đây?
“Rồi chúng bảo nhau: Chúng ta hãy phân chia đất và cắm mốc. Chúng chia đất và cắm mốc.
“Này Bà-tất-tra, do nhân duyên ấy mới phát sinh danh từ ruộng đất.
“Bấy giờ chúng sanh đó chia cắt ruộng đất, ai lập bờ cõi nấy, nên dần
dần sinh ra tâm lén lút trộm cắp thóc lúa của nhau. Những chúng sanh
khác trông thấy bảo: Ngươi làm quấy, ngươi làm quấy. Ngươi đã có ruộng
đất mà còn lấy trộm của người ta. Từ nay về sau không được làm thế nữa.
Nhưng chúng sanh kia vẫn lấy cắp mãi. Các chúng sanh khác lại đã quở
trách, nhưng nó không thôi, bèn lấy tay đánh và tố cáo với mọi người
rằng: Người này đã có ruộng lúa mà còn lấy trộm của người khác. Gã này
lại bảo: Người này đánh tôi. Mọi người thấy hai bên cãi nhau mãi, thì ưu
sầu không vui, nói nhau một cách áo não: Chúng sanh đi dần đến chỗ ác,
nên thế gian mới có xảy ra sự bất thiện đó. Điều xấu ác, bất tịnh đó
chính là nguyên nhân của sanh, già, đau, chết và phiền não khổ báo trong
ba đường ác. Bởi có ruộng đất riêng nên mới sinh kiện cáo, vậy tốt hơn
chúng ta nên lập lên một người làm chủ để xử trị. Hễ ai đáng bảo hộ thì
bảo hộ, ai đáng khiển trách thì khiển trách. Mỗi người chúng ta đều giảm
phần gạo để cung cấp cho người ấy để lo xét xử kiện cáo. Họ mới lựa
trong đám tôn lên một người có hình vóc to lớn, nhan mạo đoan chánh, có
oai đức và bảo rằng: Ngươi nay hãy vì bọn ta mà lên làm ông chủ bình
đẳng . Hễ thấy ai đáng bảo hộ thì bảo hộ, ai đáng khiển trách thì khiển
trách, ai đáng đuổi thì đuổi. Bọn ta sẽ góp gạo cung cấp cho.
“Người kia nhận lời lên làm chủ, trông coi xử đoán kiện cáo. Mọi người cùng góp gạo cung cấp.
“Người kia thường lấy lời hay đẹp ủy lạo mọi người và mọi người đều
hoan hỷ tôn xưng rằng: Lành thay Đại vương! Lành thay Đại vương! Từ đó
thế gian mới bắt đầu có danh từ vua. Lấy chánh pháp trị dân, nên gọi là
Sát-lỵ và thế gian bắt đầu có tên “Sát-lỵ”.
“Thời gian sau trong chúng độc nhất có một người suy nghĩ như vầy:
Nhà là đại hoạn, nhà là gai độc, ta thà bỏ nhà đi ở riêng trên rừng núi
để nhàn tịnh tu hành thì hơn. Người ấỵ lliền bỏ nhà vào rừng, trầm lặng
tư duy, đến giờ ăn thì mang bình bát vào làng khất thực. Mọi người trông
thấy đều vui vẻ cúng dường, tán thán: Lành thay, người này có thể bỏ
nhà lên ở núi, trầm lặng tu đạo, xa lìa mọi điều xấu ác. Từ đó trong thế
gian mới bắt đầu có tên Bà-la-môn .
“Nhưng trong đám Bà-la-môn có kẻ không ưa ở chỗ nhàn tịnh tọa thiền
tư duy, mà chỉ ưa vào nhân gian chuyên nghề tụng đọc và tự nói: “Ta là
người không tọa thiền”. Người đời nhân đó gọi là “Bất thiền Bà-la-môn"
và cũng vì hay đi vào nhân gian nên lại có tên là “Nhân gian Bà-la-môn”.
Bắt đầu từ đó trong thế gian có dòng Bà-la-môn hiện ra.
“Lại trong đám chúng sanh kia, có người ưa kinh doanh sự nghiệp, chất
chứa tài bảo, nhân đó người ta kêu hạng này là hạng Cư sĩ. Trong đám
chúng sanh kia có người có nhiều cơ xảo kiến tạo, nên thế gian mới có
thêm một hạng nữa gọi là Thủ-đà-la công xảo.
“Này Bà-tất-tra! Nay thế gian có đủ tên bốn chủng tánh và thêm hạng
thứ năm là chúng Sa-môn. Như thế là vì có khi trong chúng Sát-lỵ, có
người tự thấy nhàm chán pháp của mình, bèn cắt bỏ râu tóc, mặc pháp y tu
đạo. Do đó, tên Sa-môn bắt đầu có từ đó. Trong chúng Bà-la-môn, Cư sĩ,
Thủ-đà-la, có khi có người tự thấy nhàm chán pháp của mình, bèn cắt bỏ
râu tóc, mặc pháp y tu đạo. Do đó, tên Sa-môn bắt đầu có từ đó.
“Này Bà-tất-tra! Người dòng Sát-lỵ mà thân làm bất thiện, miệng nói
bất thiện, ý nghĩ bất thiện, khi thân hoại mạng chung phải thọ ác báo.
Dòng người Bà-la-môn, dòng Cư sĩ, dòng Thủ-đà-la mà thân làm bất thiện,
miệng nói bất thiện, ý nghĩ bất thiện, khi thân hoại mệnh chung họ cũng
phải thọ ác báo như thế.
“Này Bà-tất-tra! Nếu người dòng Sát-lỵ mà thân làm lành, miệng nói
lành, ý nghĩ lành, khi thân hoại mệnh chung được hưởng thiện báo, thì
người dòng Bà-la-môn, dòng Cư sĩ, dòng Thủ-đà-la mà thân làm lành, miệng
nói lành, ý nghĩ lành, khi thân hoại mệnh chung cũng được hưởng thiện
báo như thế.
“Này Bà- tất- tTra! Nếu người dòng Sát-lỵ mà làm cả hai điều thiện ác
về nơi thân, miệng, ý, khi thân hoại mệnh chung phải gặt lấy quả báo
vừa khổ vừa vui, thì người dòng Bà-la-môn, dòng Cư sĩ, dòng Thủ-đà-la mà
làm cả hai điều thiện ác về nơi thân, miệng, ý, đến khi thân hoại mệnh
chung, cũng phải thọ lấy quả báo vừa khổ vừa vui như thế.
“Này Bà-tất-tra! Trong dòng Sát-lỵ có kẻ cắt tóc cạo râu, mặc y tu
đạo, tu bảy pháp giác ý, không bao lâu là được thành đạo. Vì sao? Con
nhà tộc tánh ấy mặc pháp y xuất gia, tu các phạm hạnh cao thượng, thì
chính ngay trong hiện tại tự thân tác chứng, sanh tử đã dứt, phạm hạnh
đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh. Trong dòng
Bà-la-môn, dòng Cư sĩ, dòng Thủ-đà-la mà có kẻ cắt bỏ râu tóc, mặc pháp y
tu đạo, tu bảy pháp giác ý, không lâu cũng sẽ được thành đạo như thế.
Vì sao? Con nhà tộc tánh ấy xuất gia, mặc pháp y, tu các phạm hạnh vô
thượng, chính ngay trong hiện tại tự thân tác chứng, sanh tử đã dứt,
phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh.
“Này Bà-tất-tra! Cả bốn chủng tánh đó, đều có thể xuất sinh bậc
La-hán thành tựu viên mãn trí minh và đức hạnh, là bậc đứng nhất ở trong
năm chủng tánh ấy.
“Này Bà-tất-tra! Phạm thiên có bài kệ rằng:
- Trong đời, Sát-lỵ nhất.
- Bỏ chủng tánh xuất gia,
- Thành bậc đủ Minh Hạnh,
- Bậc nhất trong thế gian.
“Này Bà-tất-tra! Phạm thiên nói như thế là đúng chớ không phải không
đúng, khéo thọ chứ không phải không khéo thọ. Lúc đó Ta liền ấn khả lời
nói ấy của Phạm thiên. Vì nay Ta, là Như Lai, Chí Chân, cũng nói nghĩa
như thế đó:
- Trong đời, Sát-lỵ nhất.
- Bỏ chủng tánh xuất gia,
- Thành Bậc đủ Minh Hạnh đủ,
- Bậc nhất trong thế gian.
Bấy giờ, sau khi nghe Ðức Thế Tôn nói pháp, Bà-tất-tra, Bà-la-đọa
liền được tâm giải thoát vô lậu. Nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng
hành.
-ooOoo-