Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật du hành đến nước Ma-kiệt, cùng chúng Đại Tỳ-kheo một
ngàn hai trăm năm mươi người , du hành nhân gian, đến Trúc lâm, nghỉĩ
đêm tại vương đường.
Lúc bấy giờ có vị Phạm chí tên là Thiện Niệm và đệ tử tên là
Phạm-ma-đạt ; hai thầy trò thường cùng đi theo sau Phật, mà Phạm chí
Thiện Niệm thì dùng vô số phương tiện hủy báng Phật, Pháp và Tỳ-kheo
Tăng, đệ tử Phạm-ma-đạt thì bằng vô số phương tiện tán thán Phật, Pháp
và Tỳ-kheo Tăng. Hai thầy trò mỗi người một tâm tư, mâu thuẫn chống trái
nhau. Vì sao vậy? Ầy là do xu hướng dị biệt, kiến giải dị biệt, thân
cận dị biệt.
Bấy giờ, số đông Tỳ-kheo sau khi khất thực về nhóm tại giảng đường bàn câu chuyện nhau như sau:
“Kỳ diệu thay, hy hữu thay, Thế Tôn có đại thần lực, đầy đủ oai đức,
biết hết mọi xu hướng của chúng sanh. Nhưng nay có hai thầy trò Thiện
Niệm cùng đi theo sau Phật và chúng Tăng, mà Phạm chí Thiện Niệm thì
dùng vô số phương tiện hủy báng Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Đệ tử
Phạm-ma-đạt thì bằng vô số phương tiện tán thán Phật, Pháp và Tỳ-kheo
Tăng. Hai thầy trò mỗi người một tâm tư, mâu thuẫn chống trái nhau vì do
xu hướng dị biệt, kiến giải dị biệt, thân cận dị biệt vậy.”
Bấy giờ, Thế Tôn đang ở trong tịnh thất, bằng thiên nhĩ thanh tịnh
quá hơn người thường, nghe các Tỳ-kheo đang luận bàn như thế, liền rời
khỏi tịnh thất đi đến giảng đường, ngồi trước đại chúng. Tuy đã biết
Ngài vẫn hỏi:
“Này các Tỳ-kheo! Do nhân duyên gì mà các ông nhóm lại đây và đang bàn luận câu chuyện gì?.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Chúng con sau khi khất thực về, tập họp ở giảng đường này và cùng
bàn luận như vầy: Kỳ diệu thay, hy hữu thay, Thế Tôn có đại thần lực,
đầy đủ oai đức, biết hết mọi xu hướng của chúng sanh. Nhưng nay có hai
thầy trò Thiện Niệm cùng đi theo sau Phật và chúng Tăng, mà Phạm chí
Thiện Niệm thì dùng vô số phương tiện hủy báng Phật, Pháp và Tỳ-kheo
Tăng. Đệ tử Phạm-ma-đạt thì bằng vô số phương tiện tán thán Phật, Pháp
và Tỳ-kheo Tăng. Hai thầy trò mỗi người một tâm tư, mâu thuẫn chống trái
nhau vì do xu hướng dị biệt, kiến giải dị biệt, thân cận dị biệt vậy.”
Thế Tôn bèn nói với các Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo, nếu có ai dùng phương tiện hủy báng Như Lai, hủy
báng Chánh pháp và chúng Tăng, các ngươi không nên ôm lòng phẫn nộ, có ý
nghĩ ác hại đối với người ấy. Vì sao vậy? Vì nếu có ai dùng phương tiện
hủy báng Như Lai, hủy báng Chánh pháp và chúng Tăng mà các ngươi ôm
lòng phẫn nộ, có ý nghĩ ác hại đối với người ấy thì tự các ngươi đã tự
hãm nịch rồi. Vì vậy các ngươi không nên ôm lòng oán giận hay có ý nghĩ
ác hại đối với người ấy.
“Này các Tỳ-kheo, nếu có ai khen ngợi Phật, Pháp và chúng Tăng, các
ngươi cũng vội chớ lấy điều đó làm vui mừng, hãnh diện. Vì sao vậy? Vì
nếu các ngươi sinh tâm vui mừng là đã bị hãm nịch rồi. Do đó các ngươi
không nên vui mừng. Tại sao thế? Vì đó chỉ là duyên cớ nhỏ nhặt về oai
nghi giới hạnh, mà hàng phàm phu ít học, không thấu rõ thâm nghĩa, chỉ
bằng vào sở kiến để tán thán một cách chân thật.
“Thế nào là duyên cớ nhỏ nhặt về oai nghi giới hạnh, mà hàng phàm phu
ít học, không thấu rõ thâm nghĩa, chỉ bằng vào sở kiến để tán thán một
cách chân thật?
“Người ấy tán thán rằng: Sa-môn Cù-đàm đã bỏ nghiệp sát, dứt nghiệp
sát, xả bỏ dao gậy, có tàm quý, có tâm thương xót hết thảy. Đó chỉ là
duyên cớ nhỏ nhặt về oai nghi giới hạnh mà hàng phàm phu ít học dựa lấy
để tán thán Như Lai.
“Lại tán thán rằng: Sa-môn Cù-đàm đã bỏ sự lấy của không cho, dứt trừ sự lấy của không cho, không có tâm trộm cắp.
“Sa-môn Cù-đàm đã dứt bỏ sự dâm dục, tịnh tu phạm hạnh, một mực giữ giới, không tập thói dâm dật, sở hành tinh khiết.
“Sa-môn Cù-đàm đã dứt bỏ nói dối, mà nói lời nói chí thành, nói điều chân thật, không dối gạt người đời.
“Sa-môn Cù-đàm đã dứt bỏ nói hai lưỡi, không đem lời người này đến
phá rối người kia, đem lời người kia đến phá rối người này, gặp kẻ tranh
tụng làm cho hòa hợp, kẻ đã hòa hợp làm cho vui thêm, nói ra lời gì
cũng cốt đem đến sự hòa hợp, thành thật đưa vào lòng người và nói phải
lúc.
“Sa-môn Cù-đàm đã dứt bỏ ác khẩu. Nếu có lời thô lỗ, thương tổn đến
người, tăng thêm mối hận, kéo dài mối thù; những lời như vậy đều không
nói. Thường nói lời hay, đẹp lòng người, ai cũng ưa, nghe không chán.
Chỉ nói những lời như vậy.
“Sa-môn Cù-đàm đã dứt bỏ nói thêu dệt, chỉ nói phải lúc, nói thành
thật, nói có lợi, nói đúng pháp đúng luật, nói để ngăn ngừa sai quấy.
“Sa-môn Cù-đàm đã dứt bỏ uống rượu; không trang sức hương hoa ;;
không xem ca múa; không ngồi giường cao; không ăn phi thời; không cầm
vàng bạc; không chứa vợ con, tớ trai, tớ gái; không nuôi heo ngựa, voi,
dê, gà, chó và các thứ chim muông; không chứa binh voi, binh ngựa, binh
xe, binh bộ; không chứa ruộng nhà, gieo trồng ngũủ cốc; không nắm quyền
đánh đấm với người; không dùng cân đấu lường gạt; không mua bán, khoán
ước, giao kèo; không cho vay cầm đồ lấy lãi bất chánh. Cũng không âm
mưu, trước mặt khác sau lưng khác; phi thời không đi; để nuôi sống thân,
lường bụng mà ăn; đi đến chỗ nào thì y bát mang theo như chim không lìa
hai cánh. Nhưng đó cũng chỉ là nhân duyên nhỏ nhặt về sự trì giới mà
hàng phàm phu ít học nương lấy để tán thán Như Lai.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác dầu đã nhận của tín thí vẫn tìm cách
tích trữ; y phục, ẩm thực không hề biết chán. Sa-môn Cù-đàm không như
vậy.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí, nhưng vẫn
kinh doanh sinh kế, trồng cây, gieo giống. Còn Sa-môn Cù-đàm không có
việc đó.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí nhưng vẫn
tìm phương tiện mong cầu lợi dưỡng, chứa ngà voi tạp bảo, ghế giường cao
rộng, thảm thêu, đệm bông, chăn len các thứ thêu thùa. Sa-môn Cù-đàm
không có việc ấy.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí nhưng vẫn
tìm phương tiện để trang sức, dùng dầu mỡ xoa mình, nước thơm tắm gội,
bột thơm xông ướp, chải đầu thơm láng, hoặc mang tràng hoa đẹp, nhuộm
mắt xanh biếc, tô điểm mặt mày, xâu bông tai, soi gương, mang dép da
quý, mặc áo trắng mịn, che dù, cầm phất lộng, trang sức cờ hiệu, còn
Sa-môn Cù-đàm không có các việc đó.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác chuyện trò du hí, chơi cờ đánh bạc,
cờ tám đường, mười đường cho đến trăm ngàn đường, đủ các trò chơi.
Sa-môn Cù-đàm không như vậy.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí, nhưng vẫn
nói lời vô ích chướng ngại đạo, hoặc bàn việc vua chúa, quân mã, chiến
đấu, việc quân liêu đại thần, xe ngựa ra vào, dạo chơi vườn quán và luận
việc nữ nhân, nằm ngồi đi đứng, việc y phục, ăn uống, thân thích; lại
nói chuyện vào biển tìm châu báu. Sa-môn Cù-đàm không có các việc đó.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy đã nhận thức ăn của tín thí, bằng
vô số phương tiện, làm điều tà mạng, chuốt lời dua nịnh, gợi ý, chê
bai, lấy lợi cầu lợi. Sa-môn Cù-đàm không có các việc đó.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí, nhưng cùng
nhau tranh cãi, hoặc nơi vườn quán, hoặc ở ao tắm, trong nhà, thị phi
lẫn nhau, rằng: Ta biết kinh luật. ngươi không biết gì; ta đi đường
chánh, ngươi đi đường tà, đem trước để sau, lấy sau để trước; ta nhẫn
ngươi được, ngươi không nhẫn được; ngươi nói điều gì đều không chánh
đáng; nếu có nghi ngờ hãy đến hỏi ta, ta đáp cho cả. Sa-môn Cù-đàm không
có các việc đó.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy đã ăn của tín thí, nhưng tìm đủ
phương tiện làm thông sứ cho vua, đại thần, Bà-la-môn, cư sĩ; đi từ đây
đến kia, từ kia đến đây; đem tin qua lại, hoặc tự làm, hoặc dạy người
làm. Sa-môn Cù-đàm không có các việc đó.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy đã ăn của tín thí, nhưng lo luyện
tập chiến trận, đấu tranh, đao gậy cung tên, chọi gà, chó, heo, dê,
voi, ngựa, trâu, lạc đà. Hoặc đấu tài trai gái, hoặc luyện các thứ
tiếng, tiếng thổi, tiếng trống, tiếng ca, tiếng múa, luyện các trò kỹ
thuật, leo cột phướn, leo xuôi leo ngược. Sa-môn Cù-đàm không cóc các
việc đó.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của tín thí, nhưng hành pháp
chướng ngại đạo, nuôi sống bằng cách tà vạy, như xem tướng trai gái tốt
xấu lành dữ, xem tướng súc sinh, để cầu lợi dưỡng. Sa-môn Cù-đàm không
có các việc đó.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí, nhưng hành
pháp chướng ngại đạo, nuôi sống bằng cách tà vạy, như kêu gọi quỷ thần,
hoặc lại đuổi đi, các thứ ếm đảo, vô số phương đạo, làm người khiếp sợ;
có thể tụ, có thể tán; có thể làm cho khổ, có thể làm cho vui; có thể an
thai, trục thai; hoặc phù chú người ta hóa làm lừa, ngựa; có thể khiến
người điếc, đui, câm, ngọng; hiện các kỹ thuật; hoặc chắp tay hướng về
mặt trời, mặt trăng; hành các khổ hạnh để cầu lợi dưỡng. Sa-môn Cù-đàm
không có các việc đó.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí, nhưng hành
pháp chướng ngại đạo, nuôi sống bằng cách tà vạy; hoặc vì người mà chú
đảo bệnh tật, đọc ác thuật, tụng thiện chú; làm thuốc thang, châm chích,
trị liệu bệnh tật. Sa-môn Cù-đàm không có việc đó.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy ăn của người tín thí, nhưng hành pháp
chướng ngại đạo, sinh hoạt bằng tà mạng: hoặc chú nước lửa, hoặc chú quỷ
thần, hoặc chú Sát-lỵ, hoặc chú voi, hoặc chú chân tay, hoặc bùa chú an
nhà cửa; hoặc giải chú lửa cháy, chuột gặm; hoặc đọc sách đoán việc
sống chết; hoặc đọc sách giải mộng; hoặc xem tướng tay, tướng mặt; hoặc
đọc sách thiên văn; hoặc đọc sách hết thảy âm. Sa-môn Cù-đàm không có
những việc ấy.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí, hành pháp
chướng ngại đạo, sinh hoạt bằng tà mạng: xem tướng thiên thời, nói có
mưa hay không mưa, thóc quý hay thóc rẻ, nhiều bệnh hay ít bệnh, kinh sợ
hay an ổn; hoặc dự đoán động đất, sao chổi, nhật thực, nguyệt thực,
tinh tú thực, hay không thực, phương vị ở đâu ;; thảy đều ghi nhận cả.
Sa-môn Cù-đàm không có các việc ấy.
“Như các Sa-môn, Bà-la-môn khác tuy ăn của người tín thí, nhưng hành
pháp chướng ngại đạo, sinh hoạt bằng tà mạng: hoặc nói nước này sẽ
thắng, hoặc nói nước này chẳng bằng; xem tướng tốt xấu, bàn chuyện thịnh
suy. Sa-môn Cù-đàm không có việc ấy.
“Các Tỳ-kheo, đấy chỉ là nhân duyên trì giới nhỏ nhặt, mà phàm phu ít học kia dựa vào để khen Phật.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, duy
chỉ đệ tử Hiền thánh mới có thể tán thán Như Lai bằng pháp này. Thế nào
là pháp đại quang minh, mà đệ tử Hiền thánh tán thán Như Lai? Có các
Sa-môn, Bà-la-môn, y vào bổn kiếp bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến, mà tùy ý
lập thuyết với vô số trường hợp khác nhau. Tất cả được tóm thâu vào
trong sáu mươi hai62 kiến. Bổn kiếp bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến, với vô
số trường hợp khác nhau, tùy ý lập thuyết, không thể vượt ra ngoài sáu
mươi hai 62 kiến. Các Sa-môn, Bà-la-môn kia, do duyên gì, y vào bổn kiếp
bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến, mà tùy ý lập thuyết với vô số trường hợp
khác nhau; tất cả được tóm thâu vào trong sáu mươi hai 62 kiến; chỉ
chừng ấy, không hơn?
“Các Sa-môn, Bà-la-môn, y bổn kiếp bổn kiến, với vô số trường hợp
khác nhau, mỗi người tùy ý lập thuyết; tất cả được thâu tóm trong mười
tám 18 trường hợp. Các Sa-môn, Bà-la-môn ấy do duyên gì, y bổn kiếp bổn
kiến, với vô số trường hợp khác nhau, tùy ý lập thuyết, tất cả được thâu
tóm trong 18 mười tám trường hợp; chừng ấy không hơn?
“Những Sa-môn, Bà-la-môn nào y bổn kiến khởi thường trú luận, nói
rằng: Bản ngã và thế giới thường tồn. Tất cả thuyết này được thâu tóm
vào trong bốn trường hợp. Y bổn kiếp bổn kiến mà nói: Bản ngã và thế
giới thường tồn, tất cả được thâu tóm vào trong bốn trường hợp; chừng ấy
không hơn.
“Các Sa-môn, Bà-la-môn kia do duyên gì, y bổn kiếp bổn kiến, khởi
thường trú luận, nói rằng, bản ngã và thế giới thường tồn, tất cả được
thâu tóm trong bốn trường hợp, chừng ấy không hơn?
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn, bằng voô số phương tiện, nhập định ý tam
muộitam-muội, rồi bằng tam muộitam-muội tâm, nhớ lại hai mươi thành kiếp
và hoại kiếp. Vị ấy bèn nói như vầy: Bản ngã và thế gian thường tồn.
Đây là thật, ngoài ra là dối. Vì sao? Tôi bằng vô số phương tiện, nhập
định ý tam-muội, rồi bằng tam-muội tâm, nhớ lại hai mươi thành kiếp và
hoại kiếp. Trong đó, chúng sanh không tăng, không giảm, thường trụ,
không tán. Tôi vì thế mà biết, bản ngã và thế gian thường tồn. Đó là
trường hợp điểm thứ nhất. Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến
chủ trương bản ngã và thế giới thường trú, thuộc trong bốn quan điểm,
chừng ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn, bằng vô số phương tiện, nhập định ý
tam-muội, rồi bằng tam-muội tâm, nhớ lại bốn mươi thành kiếp và hoại
kiếp. Vị ấy bèn nói như vầy: Bản ngã và thế gian thường tồn. Đây là
thật, ngoài ra là dối. Vì sao? Tôi bằng vô số phương tiện, nhập định ý
tam muộitam-muội, rồi bằng tam muộitam-muội tâm, nhớ lại bốn mươi thành
kiếp và hoại kiếp. Trong đó, chúng sanh không tăng, không giảm, thường
tụ, không tán. Tôi vì thế mà biết, bản ngã và thế gian thường tồn. Đó là
trường hợp điểm thứ hai. Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến
chủ trương bản ngã và thế giới thường trú, thuộc trong bốn trường hợp,
chừng ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn, bằng vô số phương tiện, nhập định ý
tam-muội, rồi bằng tam-muội tâm, nhớ lại tám mươi thành kiếp và hoại
kiếp. Vị ấy bèn nói như vầy: Bản ngã và thế gian thường tồn. Đây là
thật, ngoài ra là dối. Vì sao? Tôi bằng vôố số phương tiện, nhập định ý
tam-muội, rồi bằng tam-muội tâm, nhớ lại tám mươi thành kiếp và hoại
kiếp. Trong đó, chúng sanh không tăng, không giảm, thường tụ, không tán.
Tôi vì thế mà biết, bản ngã và thế gian thường tồn. Đó là quan điểm thứ
hai. Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến chủ trương bản ngã
và thế giới thường trú, thuộc trong bốn trường hợp, chừng ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn, là người có trí tuệ nhạy bén, có năng lực
quán sát khéo và bằng trí tuệ nhạy bén ấy, phương tiện quán sát, nghĩa
là suy xét kỹ, rồi bằng những điều mà mình đã thấy và bằng tài biện
thuyết của mình, tuyên bố rằng: Bản ngã và thế gian thường tồn. Đó là
quan điểm thứ tư. Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó đối với bổn kiếp bổn kiến
chủ trương bản ngã và thế gian thường tồn, thuộc trong bốn trường hợp,
chừng ấy không hơn.
“Duy chỉ Như Lai biết rõ những cơ sở quan điểm này được nắm bắt như
vậy, được giữ chặt như vậy và cũng biết sẽ có báo ứng như vậy. Sở tri
của Như Lai vượt qua những thứ ấy. Tuy biết nhưng không bị dính mắc. Do
không bị dính mắc nên được tịch diệt ;; biết sự tập khởi của thọ; biết
sự diệt tận, vị ngọt, sự tai hại và sự xuất yếu của thọ, do bình đẳng
quán mà được vô dư giải thoát, vì vậy được gọi là Như Lai.
“Đó gọi là, còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi
diệu, để cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn
thật, bình đẳng.
“Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, để
cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn thật, bình
đẳng. Đó là pháp gì?
“Một số Sa-môn, Bà-la-môn y bổn kiếp bổn kiến đề lên luận thuyết rằng
Bản ngã và thế gian, một nửa thường và một nửa vô thường. Các Sa-môn,
Bà-la-môn nào nhân đó đối với bổn kiếp bổn kiến chủ trương bản ngã và
thế gian một nửa thường và một nửa vô thường, đều thuộc trong bốn trường
hợp này; chừng ấy không hơn.
“Hoặc có một thời gian, kiếp này bắt đầu thành tựu. Một số chúng sanh
khác phước hết, mạng dứt, hành dứt, từ trời Quang âm mạng chung sanh
vào Phạm thiên trống không, tức thì đối với nơi ấy sanh tâm yêu thích,
lại ước nguyện có các chúng sanh khác cùng sanh đến chỗ này. Chúng sanh
này sau khi sanh tâm yêu thích và có ước nguyện như vậy rồi, lại có các
chúng sanh khác mà mạng, hành và phước đều hết, chết ở trời Quang âm
sanh đến Phạm thiên trống không. Chúng sanh này bèn nghĩ: Ở đây, ta là
Phạm, Đại phạm. Ta tự nhiên hiện hữu, không có ai tạo ra ta. Ta biết hết
thảy nghĩa điển. Ta tự tại trong một ngàn thế giới, là tôn quý bậc
nhất, có khả năng biến hóa, vi diệu bậc nhất. Là cha của chúng sanh,
riêng mình ta hiện hữu trước nhất. Chúng sanh sanh ra sau này đều do ta
hóa thành. Chúng sanh sanh đến sau kia lại có ý nghĩ như vầy: Vị kia là
Đại phạm. Vị kia có khả năng tự tạo, không có ai là người sáng tạo ra vị
ấy. Ngài biết rõ hết nghĩa điển; tự tại trong một ngàn thế giới, tôn
quý bậc nhất, có khả năng biến hóa, vi diệu bậc nhất. Là cha của chúng
sanh, riêng vị ấy hiện hữu trước nhất. Chúng ta hiện hữu sau. Chúng sanh
chúng ta đều do vị ấy hóa thành. Chúng sanh ở Phạm thiên kia khi mạng
và hành đã hết bèn sanh đến thế gian; tuổi lớn dần, cạo bỏ râu tóc, mặc
ba pháp y, xuất gia tu đạo, nhập định ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, tự
mình biết được đời trước, bèn nói như vầy: Đại phạm kia có khả năng tự
tạo; không do ai tạo ra. Ngài biết hết nghĩa điển, tự tại trong một ngàn
thế giới, là tôn quý bậc nhất, có khả năng biến hóa, vi diệu bậc
nhất. Là cha của chúng sanh, thường trú bất biến. Nhưng các chúng sanh
do Phạm thiên kia sáng tạo như chúng ta, chúng ta thì vô thường biến
dịch, không tồn tại lâu dài. Vì vậy biết rằng bản ngã và thế gian nửa
thường và nửa vô thường. Đây là thật, ngoài ra là dối. Đó là trường hợp
thứ nhất. Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến đề khởi luận
thuyết nửa thường nửa vô thường, thuộc trong bốn trường hợp, chừng ấy
không hơn.
“Hoặc có chúng sanh thích vui đùa, biếng nhác, mãi mãi vui đùa lấy
làm thỏa thích. Kia khi vui đùa thỏa thích, thân thể mệt mỏi, bèn thất
ýy. Do thất ý mà mạng chung, sanh đến thế gian; tuổi lớn dần, cạo bỏ râu
tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, nhập định ý tam muộitam-muội, từ
tam muộitam-muội tâm, tự mình biết được đời trước, bèn nói như vầy: Các
chúng sanh còn lại kia do không vui đùa thỏa thích nhiều nên thường trú ở
chỗ kia. Ta do vui đùa thỏa thích nhiều nên phải chịu vô thường, là
pháp biến dịch. Vì vậy, ta biết rằng: bản ngã và thế gian nửa thường nửa
vô thường. Đây là thật, ngoài ra là dối. Đó là trường hợp thứ hai;
Sa-môn Bà-la-môn nhân đó đối với bổn kiếp bổn kiến đề khởi luận thuyết
rằng bản ngã và thế giới nửa thường nửa vô thường; thuộc trong bốn
trường hợp. Chừng ấy không hơn.
“Hoặc có chúng sanh sau khi nhìn ngó nhau, liền thất ý. Do thất ý mà
mạng chung, sanh đến thế gian; tuổi lớn dần, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp
y, xuất gia tu đạo, nhập định ý tam-muội, tùy tam-muội tâm, tự mình
biết được đời trước, bèn nói như vầy: Các chúng sanh còn lại kia do
không nhìn ngó nhau nên không thất ý. Vì vậy, chúng thường trú bất biến.
Chúng ta vì nhiều lần nhìn ngó nhau; sau khi nhìn ngó nhau nhiều lần
liền thất ý, khiến cho phải vô thường, là pháp biến dịch. Ta vì vậy biết
rằng bản ngã và thế gian nửủa thường nửa vô thường. Đây là thật, ngoài
ra là dối. Đó là trường hợp thứ ba, các Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó y bổn
kiếp bổn kiến đề xuất luận thuyết rằng bản ngã và thế giới nửa thường
nửa vô thường; thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn, là người có trí tuệ nhạy bén, có năng lực
quán sát khéo và bằng trí tuệ quán sát nhạy bén ấy và bằng trí biện
thuyết của mình, tuyên bố rằng: Bản ngã và thế gian nửa thường nửa vô
thường. Đó là quan điểm thứ tư, Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó y bổn kiếp bổn
kiến chủ trương bản ngã và thế gian thường tồn, thuộc trong bốn trường
hợp. Chừng ấy không hơn.
“Duy chỉ Như Lai biết rõ những cơ sở quan điểm này được nắm bắt như
vậy, được giữ chặt như vậy và cũng biết sẽ có báo ứng như vậy. Sở tri
của Như Lai vượt qua những thứ ấy. Tuy biết nhưng không bị dính mắc. Do
không bị dính mắc nên được tịch diệt; biết sự tập khởi của thọ; biết sự
diệt tận, vị ngọt, sự tai hại và sự xuất yếu của thọ, do bình đẳng quán
mà được vô dư giải thoát, vì vậy được gọi là Như Lai.
“Đó gọi là, còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi
diệu, để cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn
thật, bình đẳng.
“Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, để
cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn thật, bình
đẳng. Đó là pháp gì?
“Một số Sa-môn, Bà-la-môn y bổn kiếp bổn kiến đề lên luận thuyết rằng
Bản ngã và thế gian là hữu biên và vô biên. Các Sa-môn, Bà-la-môn nào
nhân đó y bổn kiếp bổn kiến chủ trương bản ngã và thế gian hữu biên và
vô biên, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn, bằng vô số phương tiện, nhập định ý
tam-muội. Với tam-muội tâm, khởi lên vô biên tưởng, vị ấy nói rằng: Thế
gian là hữu biên. Đây là thật, ngoài ra là dối. Vì sao? Ta bằng vô số
phương tiện nhập định ý tam-muội. Với tam-muội tâm, quán sát thấy rằng
thế gian có biên tế. Vì vậy biết rằng thế gian là hữu biên. Đây là thật,
ngoài ra là dối. Đó là trường hợp thứ nhất, Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó y
bổn kiếp bổn kiến đề xướng luận thuyết rằng bản ngã và thế giới hữu
biên, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn, bằng vô số phương tiện, nhập định ý
tam-muội. Với tam-muội tâm, khởi lên vô biên tưởng, vị ấy nói rằng: Thế
gian là vô biên. Đây là thật, ngoài ra là dối. Vì sao? Ta bằng vô số
phương tiện nhập định ý tam-muội. Với tam-muội tâm, quán sát thấy rằng
thế gian không có biên tế. Vì vậy biết rằng thế gian là hữu biên. Đây là
thật, ngoài ra là dối. Đó là trường hợp thứ hai, Sa-môn, Bà-la-môn nhân
đó y bổn kiếp bổn kiến đề xướng luận thuyết rằng bản ngã và thế giới vô
bie bi`ên, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn, bằng vô số phương tiện, nhập định ý tam
muộitam-muội. Với tam muộitam-muội tâm, quán sát thế gian, thấy rằng
phương trên có biên, bốn phương không có biên, vị ấy nói rằng: Thế gian
vừa hữu biên vừa vô biên. Đây là thật, ngoài ra là dối. Vì sao? Ta bằng
vô số phương tiện nhập định ý tam-muội. Với tam-muội tâm, quán sát thấy
phương trên có biên`ên, còn bốn phương không có biên.i`ên. Vì vậy biết
rằng thế gian vừa hữu biên vừa vô biên. Đây là thật, ngoài ra là dối. Đó
là trường hợp thứ ba, Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến đề
xướng luận thuyết rằng bản ngã và thế giới vô biên, thuộc trong bốn
trường hợp. Chừng ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn, là người có trí tuệ nhạy bén, có năng lực
quán sát khéo, rồi bằng trí tuệ quán sát nhạy bén và bằng trí biện
thuyết của mình, tuyên bố rằng: Bản ngã và thế gian không phải hữu biên,
không phải vô biên. Đó là trường hợp thứ tư, Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó y
bổn kiếp bổn kiến chủ trương bản ngã và thế gian hữu biên hay vô biên,
thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy không hơn.
“Duy chỉ Như Lai biết rõ những cơ sở quan điểm này được nắm bắt như
vậy, được giữ chặt như vậy và cũng biết sẽ có báo ứng như vậy. Sở tri
của Như Lai vượt qua những thứ ấy. Tuy biết nhưng không bị dính mắc. Do
không bị dính mắc nên được tịch diệt; biết sự tập khởi của thọ; biết sự
diệt tận, vị ngọt, sự tai hại và sự xuất yếu của thọ, do bình đẳng quán
mà được vô dư giải thoát, vì vậy được gọi là Như Lai.
“Đó gọi là, còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi
diệu, để cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn
thật, bình đẳng.
“Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, để
cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn thật, bình
đẳng. Đó là pháp gì?
“Có các Sa-môn, Bà-la-môn, y bổn kiếp bổn kiến, được hỏi khác nhưng
trả lời khác. Những vị ấy mỗi khi có người hỏi điều này hay điều khác,
được hỏi khác, trả lời khác, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy không
hơn. Các Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó y bổn kiếp bổn kiến, hỏi khác đáp
khác, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn có luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy:
Tôi không thấy, không biết, thiện ác có quả báo chăng? không có quả báo
chăng? Vì tôi không thấy, không biết nên nói như vầy: Thiện ác có quả
báo chăng? không có quả báo chăng? Thế gian có những Sa-môn, Bà-la-môn
quảng bác, đa văn, thông minh, trí tuệ, thường ưa nhàn tĩnh, cơ biện
tinh vi, được người đời tôn trọng, có thể bằng trí tuệ phân tích khéo
léo các quan điểm. Giả sử họ hỏi tôi những nghĩa lý sâu sắc, tôi không
thể đáp. Vì thẹn với vị ấy; vì sợ vị ấy, tôi phải dựa vào sự trả lời ấy
làm chỗ quy y, làm hòn đảo, làm mái nhà, làm cứu cánh đạo. Giả sử kia có
hỏi, tôi sẽ đáp như vầy: Việc này như thế. Việc này là thật. Việc này
khác. Việc này không khác. Việc này không phải khác, không phải không
khác. Đó là trường hợp thứ nhất, Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó hỏi khác đáp
khác, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn có luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy:
Tôi không thấy, không biết có thế giới khác chăng? Không có thế giới
khác chăng? Trong đời có các Sa-môn, Bà-la-môn, bằng thiên nhãn trí, tha
tâm trí, có thể thấy những việc xa xôi. Những việc ấy tuy gần người
khác nhưng người khác không thấy. Những người như vậy có thể biết có thế
giới khác hay không có thế giới khác. Tôi không biết, không thấy có thế
giới khác hay không có thế giới khác. Nếu tôi nói, thì đó là nói dối.
Vì ghét nói dối, sợ nói dối. Vì vậy, để làm chỗ quy y, làm hòn đảo, làm
mái nhà, làm cứu cánh đạo, giả sử kia có hỏi, tôi sẽ đáp như vầy: Việc
này như vậy. Việc này là thật. Việc này khác. Việc này không khác. Việc
này không phải khác, không phải không phải không khác. Đó là trường
hợp thứ hai, Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó hỏi khác đáp khác, thuộc trong
bốn trường hợp. Chừng ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn có quan điểm như vầy, có luận thuyết như
vầy: Tôi không thấy, không biết thiện là gì, bất thiện là gì. Nếu tôi
không thấy, không biết mà nói như vầy: đây là thiện, đây là bất thiện,
thì do đây tôi sanh ái, từ ái sanh sân nhuế. Có ái, có nhuế, thì có thọ
sanh. Tôi vì muốn diệt trừ thọ nên xuất gia tu hành. Kia do ghét thọ,
kinh sợ thọ. Vì để làm chỗ quy y, làm hòn đảo, làm mái nhà, làm cứu cánh
đạo, nên giả sử kia có hỏi, tôi sẽ trả lời như vầy: Việc này như vậy.
Việc này là thật. Việc này khác. Việc này không khác. Việc này không
phải khác, không phải không khác. Đó là trường hợp thứ ba, Sa-môn,
Bà-la-môn nhân đó hỏi khác đáp khác, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng
ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn ngu si ám độn, khi có người hỏi, thì tùy
theo người hỏi mà trả lời rằng: Việc này như vậy. Việc này là thật. Việc
này khác. Việc này không khác. Việc này không phải khác, không phải
không khác. Đó là trường hợp thứ tư, Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó hỏi khác
đáp khác, thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn, y bổn kiếp bổn kiến, hỏi khác đáp khác, tất cả thuộc trong bốn trường hợp. Chừng ấy không hơn.
“Duy chỉ Phật mới có thể biết rõ những cơ sở quan điểm này được nắm
bắt như vậy, được giữ chặt như vậy và cũng biết sẽ có báo ứng như vậy.
Sở tri của Như Lai vượt qua những thứ ấy. Tuy biết nhưng không bị dính
mắc. Do không bị dính mắc nên được tịch diệt; biết sự tập khởi của thọ;
biết sự diệt tận, vị ngọt, sự tai hại và sự xuất yếu của thọ, do bình
đẳng quán mà được vô dư giải thoát, vì vậy được gọi là Như Lai.
“Đó gọi là, còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi
diệu, để cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn
thật, bình đẳng.
“Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu, để
cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai một cách chơn thật, bình
đẳng. Đó là pháp gì?
“Có các Sa-môn, Bà-la-môn, y bổn kiếp bổn kiến, chủ trương rằng không
có nguyên nhân mà xuất hiện có thế gian này. Chủ trương ấy thuộc hai
trường hợp. Y bổn kiếp bổn kiến, chủ trương vô nhân mà xuất hiện có thế
gian này, thuộc trong hai trường hợp. Chừng ấy không hơn.
“Sa-môn, Bà-la-môn kia nhân sự kiện gì, y bổn kiếp bổn kiến, chủ
trương vô nhân mà có, thuộc trong hai trường hợp, chừng ấy không hơn?
“Có hạng chúng sanh vô tưởng, vô tri. Khi chúng sanh kia sanh khởi
tưởng, tức thì mạng chung, sanh đến thế gian này; rồi dần dần khôn lớn,
cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, nhập định ý tam-muội.
Bằng tam-muội tâm mà biết được gốc đời trước của mình, vị ấy bèn nói như
vầy: Tôi vốn không có. Nay bỗng nhiên có. Thế gian này vốn không, nay
có. Đây là thật, ngoài ra là dối. Đó là trường hợp thứ nhất, các Sa-môn,
Bà-la-môn nhân đó, y bổn kiếp bổn kiến, chủ trương không nhân mà có,
thuộc trong hai trường hợp, chừng ấy không hơn.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn có trí tuệ nhạy bén, có khả năng quán sát
khéo léo. Vị ấy bằng trí tuệ quán sát nhạy bén, bằng trí tuệ biện luận
của mình, nói như vầy: Thế gian này hiện hữu không do nhân. Đây là thật,
ngoài ra là dối. Đó là trường hợp thứ hai, các Sa-môn, Bà-la-môn nhân
đó, y bổn kiếp bổn kiến, chủ trương không nhân mà hiện hữu, mà có thế
gian này, thuộc trong hai trường hợp, chừng ấy không hơn.
“Duy chỉ Phật mới có thể biết. (như trên).
“Các Sa-môn, Bà-la-môn, y bổn kiếp bổn kiến, với vô số trường hợp
khác nhau, mỗi người tùy ý lập thuyết; tất cả được thâu tóm trong mười
tám trường hợp. Bổn kiếp bổn kiến, với vô số trường hợp, tùy ý lập
thuyết, thuộc trong mười tám18 trường hợp, chừng ấy không hơn. Duy chỉ
Phật mới có thể biết. (như trên).
“Lại có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp vi diệu, thâm sâu. Đó là
pháp gì? Có các Sa-môn, Bà-la-môn, y mạt kiếp mạt kiến, với vô số trường
hợp, tùy ý lập thuyết, gồm bốn mươi bốn44 trường hợp, chừng ấy không
hơn.
“Các Sa-môn, Bà-la-môn kia, nhân sự kiện gì, y mạt kiếp mạt kiến, với
vô số trường hợp, tùy lý lập thuyết, thuộc trong bốn mươi bốn 44 trường
hợp, chừng ấy không hơn?
“Có các Sa-môn, Bà-la-môn, y mạt kiếp mạt kiến, sanh hữu tưởng luận,
nói rằng thế gian có tưởng, tất cả thuộc trong mười sáu16 trường hợp. Y
mạt kiếp mạt kiến, sanh hữu tưởng luận, nói rằng thế gian có tưởng,
thuộc trong mười sáu 16 trường hợp, chừng ấy không hơn.
“Các Sa-môn, Bà-la-môn kia, nhân sự kiện gì, y mạt kiếp mạt kiến,
sanh tưởng luận, nói rằng thế gian có tưởng, thuộc trong mười sáu 16
trường hợp, chừng ấy không hơn?
“Có các Sa-môn, Bà-la-môn có luận thuyết như vầy, có quan điểm như
vầy: Ta, sau kết thúc này, sanh có tưởng có sắc. Đây là thật, ngoài ra
là dối.72 Đó là trường hợp thứ nhất, các Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó, y
bổn kiếp bổn kiến, sanh tưởng luận, nói thế gian có tưởng, thuộc trong
mười sáu 16 luận chấp, chừng ấy không hơn.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh vô sắc có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh vừa có sắc vừa không sắc, có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh không phải có sắc không phải vô sắc, có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh có biên, có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh không biên, có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh vừa có biên vừa không biên, có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh không phải có biên cũng không phải không biên, có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh mà thuần lạc, có tưởng . Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Bản ngã, sau kết thúc này, sanh mà thuần khổ, có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Bản ngã, sau kết thúc này, sanh vừa có khổ vừa có lạc, có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh không phải khổ, không phải lạc, có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh có một tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh có đa biệt tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh có ít tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh có vô lượng tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Đó là mười sáu 16 trường hợp, các Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó, y mạt
kiếp mạt kiến, sanh tưởng luận, nói thế gian có tưởng, thuộc trong mười
sáu 16 trường hợp, chừng ấy không hơn.
“Duy chỉ Phật mới có thể biết, cũng như vậy.. (như trên).
“Lại có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp vi diệu, thâm sâu. Đó là
pháp gì? Có các Sa-môn, Bà-la-môn, y mạt kiếp mạt kiến, sanh vô tưởng
luận, nói thế gian không có tưởng. Tất cả thuộc vào trong tám trường
hợp. Y mạt kiếp mạt kiến, sanh vô tưởng luận, thuộc trong tám trường hợp
này, chừng ấy không hơn.
“Các Sa-môn, Bà-la-môn kia, nhân sự kiện gì, y mạt kiếp mạt kiến,
sanh vô tưởng luận, nói thế gian không có tưởng, thuộc trong tám trường
hợp, chừng ấy không hơn?
“Có các Sa-môn, Bà-la-môn, luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy:
Ta, sau kết thúc này, sanh có sắc không có tưởng. Đây là thật, ngoài ra
là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh không sắc, không tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh vừa có sắc vừa không sắc, không có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, không phải có sắc cũng không
phải không có sắc, không có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh có biên, không có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh không có biên, không có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh vừa có biên vừa không có biên, không có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có người nói: Ta, sau kết thúc này, sanh không phải có biên không
phải không có biên, không có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Đó là tám trường hợp. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó, y mạt kiếp
mạt kiến, sanh vô tưởng luận, nói thế gian không có tưởng; tất cả thuộc
trong tám trường hợp, chừng ấy không hơn.
“Duy chỉ Phật mới có thể biết, cũng vậy (như trên).
“Lại có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp vi diệu, sâu xa. Đó là
pháp gì? Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn, y mạt kiếp mạt kiến, sanh phi tưởng
phi phi tưởng luận, nói thế gian không phải có tưởng không phải không có
tưởng. Tất cả thuộc trong tám trường hợp. Y mạt kiếp mạt kiến, chủ
trương phi tưởng phi phi tưởng luận, thuộc trong tám trường hợp, chừng
ấy không hơn.
“Sa-môn, Bà-la-môn kia, nhân sự kiện gì, y mạt kiếp mạt kiến, chủ
trương phi tưởng phi phi tưởng luận, thuộc trong tám trường hợp, chừng
ấy không hơn?
“Có Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: Ta, sau
kết thúc này, sanh có sắc, không phải có tưởng không phải không có
tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: Ta, sau
kết thúc này, sanh không sắc, không phải có tưởng không phải không có
tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: Ta, sau
kết thúc này, sanh vừa có sắc vừa không sắc, không phải có tưởng không
phải không có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: Ta, sau
kết thúc này, sanh không phải có sắc không phải không sắc, không phải
có tưởng không phải không có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: Ta, sau
kết thúc này, sanh có biên, không phải có tưởng không phải không có
tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: Ta, sau
kết thúc này, sanh không có biên, không phải có tưởng không phải không
có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: Ta, sau
kết thúc này, sanh vừa có biên vừa không có biên, không phải có tưởng
không phải không có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Có Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: Ta, sau
kết thúc này, sanh không phải có biên không phải không có biên, không
phải có tưởng không phải không có tưởng. Đây là thật, ngoài ra là dối.
“Đó là tám trường hợp. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào nhân đó, y mạt kiếp
mạt kiến, sanh phi hữu tưởng phi vô tưởng, nói thế gian không phải có
tưởng không phải không có tưởng, thảy đều thuộc trong tám trường hợp,
chừng ấy không hơn.
“Duy chỉ Phật mới có thể biết, cũng vậy. như trên.
“Lại có pháp khác, là ánh sáng của pháp vi diệu, sâu xa. Pháp đó là
gì? Có các Sa-môn, Bà-la-môn, y mạt kiếp mạt kiến, khởi lên đoạn diệt
luận, nói rằng chúng sanh hoàn toàn đoạn diệt; tất cả thuộc trong bảy
trường hợp. Y mạt kiếp mạt kiến, khởi đoạn diệt luận, nói rằng chúng
sanh hoàn toàn đoạn diệt, thuộc trong bảy trường hợp, chừng ấy không
hơn.
“Sa-môn, Bà-la-môn kia, nhân sự kiện gì, y mạt kiếp mạt kiến, khởi
đoạn diệt luận, nói chúng sanh hoàn toàn đoạn diệt, thuộc trong bảy
trường hợp, chừng ấy không hơn?
“Có Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: Ta, với
thân bốn đại, sáu nhập, do cha mẹ sanh, được nuôi nấng bằng sữa; trưởng
thành nhờ áo cơm, nhờ vuốt ve, bồng ẳm; nhưng là vô thường, chắc chắn
đi đến chỗ hủy diệt. Cho đến mức ấy, được gọi là đoạn diệt. Đó là trường
hợp thứ nhất.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn nói như vầy: Cái ta đây không thể gọi là
đoạn diệt. Cái ta dục giới thiên mới đoạn diệt hoàn toàn; cho đến mức ấy
mới là đoạn diệt. Đó là trường hợp thứ hai.
“Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn nói như vầy: Đấy không phải là đoạn diệt.
Ta sắc giới hóa thân, các căn đầy đủ, đoạn diệt hoàn toàn; chừng mức ấy
mới gọi là đoạn diệt.
“Hoặc có người nói: Đấy không phải là đoạn diệt. Ta vô sắc giới không xứ mới đoạn diệt.
“Hoặc có người nói: Đấy không phải là đoạn diệt. Ta vô sắc thức xứ mới đoạn diệt.
“Hoặc có người nói: Đấy không phải đoạn diệt. Ta vô sắc bất dụng xứ đoạn diệt.
“Hoặc có người nói: Đấy không phải là đoạn diệt. Ta vô sắc hữu tưởng vô tưởng xứ đoạn diệt. Đó là đoạn diệt thứ bảy.
“Đó là bảy trường hợp, các Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó, y mạt kiếp mạt
kiến, nói các loại chúng sanh đoạn diệt hoàn toàn, thuộc trong bảy
trường hợp, chừng ấy không hơn.
“Duy chỉ Phật mới có thể biết, cũng vậy. (như trên).
“Lại có pháp, là ánh sáng của đại pháp vi diệu, sâu xa. Đó là pháp
gì? Có Sa-môn, Bà-la-môn, y mạt kiếp mạt kiến, đề xuất hiện tại Niết-bàn
luận, nói rằng chúng sanh trong hiện tại có Niết-bàn; thảy đều thuộc
trong năm trường hợp. Y mạt kiếp mạt kiến, chủ trương hiện tại Niết-bàn
luận, thuộc trong năm kiến, chừng ấy không hơn.
“Sa-môn, Bà-la-môn kia, nhân sự kiện gì, y mạt kiếp mạt kiến, nói
rằng chúng sanh trong hiện tại có Niết-bàn, thuộc trong năm trường hợp,
chừng ấy không hơn?
“Có Sa-môn, Bà-la-môn, quan điểm như vầy, luận thuyết như vầy: Ta
trong hiện tại phóng túng theo năm dục, ấy là ta đạt Niết-bàn trong hiện
tại. Đó là trường hợp thứ nhất.
“Lại có Sa-môn, Bà-la-môn nói như vầy: Đó là hiện tại Niết-bàn, chớ
không phải là không đúng. Nhưng còn có Niết-bàn vi diệu bậc nhất mà
ngươi không biết; chỉ ta biết mà thôi. Như ta ly dục, ly ác bất thiện
pháp, có giác có quán, hỷ lạc do định sanh, nhập Sơ thiền. Đây mới là
hiện tại Niết-bàn. Đó là trường hợp thứ hai.
“Lại có Sa-môn, Bà-la-môn nói như vầy: Đó là hiện tại Niết-bàn, chớ
không phải là không đúng. Nhưng có Niết-bàn hiện tại vi diệu bậc nhất mà
ngươi không biết; chỉ mình ta biết mà thôi. Như ta diệt giác quán, nội
tâm tịch tĩnh, nhất tâm, không giác quán, hỷ lạc do định sanh, nhập đệ
Nhị thiền. Chừng ấy mới gọi là hiện tại Niết-bàn. Đó là trường hợp thứ
ba.
“Lại có Sa-môn, Bà-la-môn nói như vầy: Đó là hiện tại Niết-bàn, chớ
không phải là không đúng. Nhưng có Niết-bàn hiện tại vi diệu bậc nhất mà
ngươi không biết; chỉ mình ta biết mà thôi. Như ta lìa hỷ, an trú xả và
niệm, nhất tâm, thân cảm thọ lạc, điều mà Thánh nói, an trú lạc và xả,
nhập đệ Tam thiền. Chừng ấy mới là hiện tại Niết-bàn. Đó là trường hợp
thứ tư.
“Lại có Sa-môn, Bà-la-môn nói như vầy: Đó là hiện tại Niết-bàn, không
phải là không đúng. Nhưng còn hiện tại Niết-bàn vi diệu bậc nhất mà
ngươi không biết. Chỉ mình ta biết thôi. Như ta lạc diệt, khổ diệt, ưu
hỷ đã trừ trước, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh, nhập đệ Tứ
thiền. Ầy mới gọi là hiện tại Niết-bàn. Đó là trường hợp thứ năm. Nếu
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương hiện tại Niết-bàn luận, thuộc trong năm
trường hợp, chừng ấy không hơn.
“Duy Phật mới có thể biết, cũng vậy. (như trên).
“Các Sa-môn, Bà-la-môn, y mạt kiếp mạt kiến, với vô số trường hợp,
tùy ý lập thuyết, thuộc trong bốn mươi bốn44 trường hợp, chừng ấy không
hơn.
“Duy Phật mới có thể biết các cơ sở quan điểm này, cũng như vậy (như trên).
“Các Sa-môn, Bà-la-môn, y bổn kiếp bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến, với
vô số trường hợp, tùy ý lập thuyết, tất cả thuộc trong sáu mươi hai62
trường hợp. Y bổn kiếp bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến, với vô số trường
hợp, tùy ý lập thuyết, tất cả thuộc trong sáu mươi hai 62 trường hợp,
chừng ấy không hơn.
“Duy chỉ Như Lai mới biết các cơ sở quan điểm ấy, cũng vậy (như trên).
(như trên).
“Các Sa-môn, Bà-la-môn, y bổn kiếp bổn kiến, chủ trương thường trú
luận, nói: Bản ngã và thế giới là thường. Sa-môn, Bà-la-môn kia ở nơi đó
phát sanh trí, nghĩa là, tín dị biệt, dục dị biệt, học hỏi dị biệt,
duyên dị biệt, giác dị biệt, kiến dị biệt, định dị biệt, nhẫn dị biệt.
Nhân đấy mà sanh trí và kia do hiện hữu phổ biến mà được gọi là thọ,...,
cho đến, hiện tại Niết-bàn, cũng lại như vậy.
“Các Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương thường trú luận, nói: Thế gian là
thường, các vị ấy nhân bởi duyên là thọ mà khởi ái; sanh khởi ái mà tự
mình không hay biết, bị nhiễm trước bởi ái, bị khuất phục bởi ái,...,
cho đến hiện tại Niết-bàn; cũng lại như vậy.
“Các Sa-môn, Bà-la-môn, y bổn kiếp bổn kiến, chủ trương thường trú
luận, nói Thế gian là thường, các vị ấy do bởi duyên là xúc. Nếu lìa xúc
duyên thì không thể lập luận,..., cho đến hiện tại Niết-bàn, cũng lại
như vậy.
“Các Sa-môn, Bà-la-môn, y bổn kiếp bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến, mỗi
người tùy theo sở kiến mà nói; tất cả đều gồm trong sáu mươi hai 62
kiến. Mỗi người tùy ý thuyết; thảy đều y trên đó, ở trong đó, chừng ấy
không hơn. Cũng như người chài khéo, bằng tấm lưới dày mắt giăng trên ao
nhỏ, nên biết, hết thảy các loài thủy tộc trong ao đều lọt vào lưới,
không chỗ tránh thoát, chừng ấy không hơn. Cũng vậy, các Sa-môn,
Bà-la-môn, y bổn kiếp bổn kiến, mạt kiếp mạt kiến, với nhiều thuyết khác
nhau, tất cả thuộc vào sáu mươi hai 62 kiến, chừng ấy không hơn.
“Nếu Tỳ-kheo, đối với sự tập khởi của sáu xúc, sự diệt tận, vị ngọt,
tai họa và sự xuất ly, mà biết rõ như thật, Tỳ-kheo ấy là người tối
thắng, vượt ngoài các kiến ấy. Như Lai tự biết, sự sanh đã dứt, sở dĩ có
thân là để phước độ chư Thiên, nhân loại. Nếu Như Lai không có thân,
người đời không chỗ nương cậy. Cũng như cây Đa-la bị chặt ngọn không còn
sống trở lại nữa. Phật cũng vậy, đã đoạn sanh tử, vĩnh viễn không còn
tái sanh.”
Khi Phật nói pháp này, đại thiên thế giới ba lần chuyển mình với sáu
cách rung động. Lúc ấy, A-nan đứng sau Phật đang cầm quạt hầu Phật, liền
trịch áo bày vai phải, quỳùy gối chắp tay bạch Phật rằng:
“Pháp này rất sâu xa, nên gọi tên là gì? Nên phụng trì như thế nào?
Phật bảo A-nan:
“Nên đặt kinh này là Nghĩa động, Pháp động, Kiến động, Ma động, Phạm động “.”
Bấy giờ A-nan sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-