PHẨM 1: CHẤU DIÊM-PHÙ-ĐỀ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong hang Câu-lỵ, rừng Kỳ thọ, vườn Cấp cô độc, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người.
Bấy giờ, số đông Tỳ-kheo, sau bữa ăn, tập trung trên giảng đường cùng bàn luận rằng:
“Chư Hiền! Thật chưa từng có, nay đây trời đất này do đâu mà tan
hoại? Do đâu mà hình thành? Quốc độ mà chúng sanh ở là như thế nào?”
Khi ấy, Thế Tôn ở chỗ thanh vắng, bằng thiên nhĩ nghe suốt, nghe các
Tỳ-kheo, sau bữa ăn, tập trung tại giảng đường, bàn luận như thế. Rồi
thì, Thế Tôn rời tĩnh thất, đi đến giảng đường và ngồi xuống. Tuy đã
biết nhưng Thế Tôn vẫn hỏi các Tỳ-kheo:
“Vừa rồi các thầy đang bàn luận về vấn đề gì?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Sau bữa ăn, chúng con tập trung tại pháp giảng đường bàn luận rằng:
Chư Hiền! Thật chưa từng có, nay đây trời đất này do đâu mà tan hoại? do
đâu mà hình thành? Quốc độ mà chúng sanh ở là như thế nào? Chúng con
tập trung tại giảng đường bàn luận vấn đề như thế.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Lành thay! Lành thay! Phàm người xuất gia nên hành hai pháp: một là
sự im lặng của Hiền thánh, hai là giảng luận pháp ngữ. Các thầy tập
trung tại giảng đường cũng nên hành sự im lặng của Hiền thánh hoặc giảng
luận Chánh pháp. Này các Tỳ-kheo! Các thầy muốn nghe Như Lai nói về
việc trời đất thành, hoại và quốc độ mà chúng sanh ở chăng?”
Khi ấy, các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng, bạch Thế Tôn! Nay thật là phải thời. Chúng con mong ước được nghe. Thế Tôn nói xong, chúng con sẽ phụng trì!”
Phật nói:
“Này các Tỳ-kheo! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Hãy suy nghĩ chính chắn. Ta sẽ nói cho các thầy nghe.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Như trong chỗ mà một mặt trời, mặt trăng vận hành khắp bốn thiên hạ,
tỏa ánh sáng chiếu; có một ngàn thế giới như vậy. Trong ngàn thế giới
có một ngàn mặt trời, mặt trăng; có một ngàn núi chúa Tu-di ; có bốn
ngàn thiên hạ, bốn ngàn đại thiên hạ, bốn ngàn biển, bốn ngàn biển lớn,
bốn ngàn rồng, bốn ngàn rồng lớn, bốn ngàn chim cánh vàng, bốn ngàn chim
cánh vàng lớn, bốn ngàn đường ác, bốn ngàn đường ác lớn, bốn ngàn vị
vua, bốn ngàn vị vua lớn, bảy ngàn cây lớn, tám ngàn địa ngục lớn, mười
ngàn núi lớn, ngàn Diêm-la vương, ngàn Tứ thiên vương, ngàn trời
Đao-lợi, ngàn trời DiệmDiệm-ma, ngàn trời Đâu-suất, ngàn trời Hóa tự
tại, ngàn trời Tha hóa tự tại, ngàn trời Phạm ; đó là tiểu thiên thế
giới. Như một tiểu thiên thế giới, ngàn tiểu thiên thế giới như thế là
một
trung thiên thế giới. Như một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên
thế giới như vậy là một tam thiên đại thiên thế giới. Phạm vi thế giới
thành hoại như thế là nơi chúng sanh cư trú, gọi là một cõi Phật.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Cõi đất này dày mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, biên giới vô hạn. Đất
nương trên nước. Nước sâu ba ngàn ba mươi do-tuần, biên giới vô hạn.
Nước ở trên gió; gió dày sáu ngàn bốn mươi do-tuần, biên giới vô hạn.
“Này các Tỳ-kheo! Nước của biển lớn ấy sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần,
biên giới vô hạn. Núi chúa Tu-di, phần chìm xuống biển là tám vạn bốn
ngàn do-tuần; phần trên mặt nước cao tám vạn bốn ngàn do-tuần; chân núi
sát đất, phần lớn là phần đất cứng chắc. Núi ấy thẳng đứng, không có lồi
lõm, sanh các loại cây; cây tỏa ra các mùi hương, thơm khắp núi rừng,
là nơi mà phần nhiều các Hiền thánh, các trời đại thần diệu. Móng chân
núi toàn là cát vàng ròng. Bốn phía núi có bốn mô đất rắn doi ra, cao
bảy trăm do-tuần, nhiều màu đan xen, được tạo thành bởi bảy báu. Bốn mô
đất thoai thoải, uốn cong sát mặt biển.
“Núi chúa Tu-di có đường cấp bằng bảy báu; đường cấp ở dưới núi rộng
sáu mươi do-tuần; sát hai bên đường có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan
can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây; tường vàng thì cửa bạc, tường
bạc thì cửa vàng; tường thủy tinh thì cửa lưu ly, tường lưu ly thì cửa
thủy tinh; tường xích châu thì cửa mã não; tường mã não thì cửa xích
châu; tường xa cừ thì cửa các báu. Còn lan can thì cây ngang vàng thì
cây dọc bạc, cây ngang bạc thì cây dọc vàng; cây ngang thủy tinh thì cây
dọc lưu ly, cây ngang lưu ly thì cây dọc thủy tinh; cây ngang xích châu
thì cây dọc mã não, cây ngang mã não thì cây dọc xích châu; cây ngang
xa cừ thì cây dọc các báu. Trên lan can ấy, có lưới báu. Ở dưới lưới
vàng ấy có treo linh bạc. Dưới lưới bạc, treo linh vàng. Dưới lưới lưu
ly treo linh thủy tinh. Dưới lưới thủy tinh treo linh lưu ly. Dưới lưới
xích châu treo linh mã não. Dưới lưới mã não treo linh xích châu. Dưới
lưới xa cừ treo linh các báu. Còn cây vàng thì rễ vàng, nhánh vàng, lá,
hoa, quả bạc. Còn cây bạc thì rễ bạc, cành bạc, lá hoa quả vàng. Còn cây
thủy tinh thì rễ, nhánh thủy tinh; hoa, lá, lưu ly. Còn cây lưu ly thì
rễ, nhánh lưu ly; hoa, lá thủy tinh. Còn cây xích châu thì rễ, nhánh
xích châu; hoa, lá mã não. Còn cây mã não thì rễ nhánh mã não; hoa, lá
xích châu. Còn cây xa cừ thì rễ, nhánh xa cừ; hoa lá các báu.
“Về bảy lớp tường ấy, tường có bốn cửa; cửa có lan can. Trên bảy lớp
tường đều có lầu, gác, đài, quán; bao bọc chung quanh là vườn cảnh, ao
tắm, mọc các loài hoa lá báu. Cây báu sắp thành hàng. Hoa quả tốt tươi.
Gió hương tỏa bốn phía làm vui lòng người. Chim le le, nhạn, uyên ương,
các loại chim kỳ lạ, có hàng ngàn giống loại không kể xiết, cùng hòa âm
kêu hót. Lại nữa, đường cấp ở giữa núi chúa Tu-di rộng bốn mươi do-tuần,
sát hai bên đường có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới,
bảy lớp hàng cây báu... cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót,
cũng như đường cấp ở dưới núi. Còn đường cấp ở trên rộng hai mươi
do-tuần, sát hai bên đường có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp
lưới, bảy lớp hàng cây báu... cho đến vô số các loài chim, cùng nhau ca
hót, cũng như đường cấp ở giữa.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Đường cấp ở dưới có quỷ thần tên là Già-lâu-la Túc ở. Đường cấp ở
giữa có quỷ thần tên là Trì Man ở. Đường cấp ở trên có quỷ thần tên là
Hỷ Lạc ở. Bốn doi đất cao bốn vạn hai ngàn do-tuần. Ở đó có cung điện,
chỗ ở của Tứ thiên vương; có bảy hàng thành, bảy hàng lan can, bảy hàng
lưới, bảy hàng cây báu, các linh báu... cho đến vô số các loài chim cùng
nhau ca hót, cũng lại như thế.
“Trên đảnh núi Tu-di có cung trời Tam thập tam, có bảy vòng thành,
bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây báu... cho đến vô số các
loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế.
“Vượt lên trời Tam thập tam một do-tuần, lại có cung trời Diệm-ma;
qua khỏi cung trời Diệm-ma một do-tuần, lại có cung trời Đâu-suất; qua
khỏi cung trời Đâu-suất một do-tuần, lại có cung trời Hóa tự tại; qua
khỏi cung trời Hóa tự tại một do-tuần, lại có cung trời Tha hóa tự tại;
qua khỏi trời Tha hóa tự tại một do-tuần, lại có cung trời Phạm-gia-di.
“Khoảng giữa trời Tha hóa tự tại và trời Phạm-gia-di có cung điện Ma
thiên, cao rộng sáu ngàn do-tuần, có bảy lớp tường cung, bảy lớp lan
can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây... cho đến vô số các loài chim cùng
nhau ca hót cũng lại như thế. Qua khỏi cung trời Phạm-gia-di một
do-tuần, lại có cung trời Quang âm ; qua khỏi cung trời Quang âm một
do-tuần lại có cung trời Biến tịnh ; qua khỏi cung trời Biến tịnh một
do-tuần, lại có cung trời Quả thật ; qua khỏi cung trời Quả thật một
do-tuần, lại có cung trời Vô tưởng ; qua khỏi cung trời Vô tưởng một
do-tuần, lại có cung trời Vô tạo ; qua khỏi cung trời Vô tạo một
do-tuần, lại có cung trời Vô nhiệt ; qua khỏi cung trời Vô nhiệt một
do-tuần, lại có cung trời Thiện hiện ; qua khỏi cung trời Thiện hiện một
do-tuần, lại có
cung trời Đại thiện hiện ; qua khỏi cung trời Đại thiện hiện một
do-tuần, lại có cung trời Sắc cứu cánh, qua khỏi trời Sắc cứu cánh, trên
có trời Không xứ trí, trời Thức xứ trí, trời Vô sở hữu xứ trí, trời Hữu
tưởng vô tưởng xứ trí, ngang đây gọi là giới hạn của chúng sanh, thế
giới chúng sanh, tất cả chúng sanh sanh, lão, bệnh, tử, thọ ấm, thọ hữu
ngang đây, không vượt qua.
Phật bảo các Tỳ-kheo: Phía Bắc núi Tu-di có một thiên hạ tên là
Uất-đan-viết . Lãnh thổ vuông vức, ngang rộng một vạn do-tuần; mặt người
cũng vuông, giống như hình đất.
“Phía Đông núi Tu-di có một thiên hạ tên là Phất-vu-đãi ; lãnh thổ
tròn trịa, ngang rộng chín ngàn do-tuần. Mặt người cũng tròn, giống như
hình đất.
“Phía Tây núi Tu-di có thiên hạ tên là Câu-da-ni, địa hình như nửa
mặt trăng, ngang rộng tám ngàn do-tuần; mặt người cũng vậy, giống như
hình đất.
“Phía Nam núi Tu-di có thiên hạ tên là Diêm-phù-đề, đất đai phía Nam
hẹp, phía Bắc rộng, ngang rộng bảy ngàn do-tuần, mặt người cũng vậy,
giống như hình đất.
“Mặt Bắc núi Tu-di có ánh sáng được tạo thành do bởi vàng chiếu sáng
phương Bắc. Mặt Đông núi Tu-di có ánh sáng tạo thành bởi bạc chiếu sáng
phương Đông. Mặt Tây núi Tu-di có ánh sáng tạo thành bởi thủy tinh chiếu
sáng phương Tây. Mặt Nam núi Tu-di có ánh sáng tạo thành bởi lưu ly
chiếu sáng phương Nam.
“Ở Uất-đan-viết có một đại thọ chúa tên gọi là Am-bà-la, vòng thân
bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi
do-tuần. Cõi Phất-vu-đãi có một đại thọ, tên là Gia-lam-phù, vòng thân
bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi
do-tuần. Cõi Câu-da-ni có một đại thọ, tên là Cân-đề, vòng thân bảy
do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần;
dưới cây ấy, có tảng thạch ngưu tràng, cao một do-tuần. Cõi Diêm-phù-đề
có một đại thọ tên là Diêm-phù, vòng thân bảy do-tuần, cao trăm
do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần. Điểu vương cánh vàng
và Long vương có cây tên là Câu-lợi-thiểm-bà-la, vòng thân bảy do-tuần,
cao trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần. A-tu-la
vương có cây
tên là Thiện-trú, vòng thân bảy do-tuần, cao trăm do-tuần, cành lá tỏa
ra bốn phía năm mươi do-tuần. Trời Đao-lợi có cây tên là Trú-độ , vòng
thân bảy do-tuần, cao trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi
do-tuần.
“Bên núi Tu-di có núi tên là Già-đà-la , cao bốn vạn hai ngàn
do-tuần, ngang dọc bốn vạn hai ngàn do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu
đan xen, do bảy báu tạo thành; núi này cách núi Tu-di tám vạn bốn ngàn
do-tuần, khoảng giữa mọc toàn hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa
Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lỵ, lau, tùng, trúc mọc trong đó, tỏa ra các
loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Khư-đà-la không xa, có núi tên
là Y-sa-đà-la, cao hai vạn một ngàn do-tuần, ngang dọc hai vạn một ngàn
do-tuần, hai bên rất rộng nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành; cách núi
Khư-đà-la bốn vạn hai ngàn do-tuần, khoảng giữa mọc toàn hoa Ưu-bát-la,
hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lỵ; lau, tùng, trúc mọc
trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Y-sa-đà-la
không
xa, có núi tên là Thọ-cự-đà-la, cao một vạn hai ngàn do-tuần, ngang dọc
một vạn hai ngàn do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen, bảy báu
tạo thành; cách núi Y-sa-đà-la hai vạn một ngàn do-tuần, khoảng giữa mọc
thuần bốn loài hoa tạp; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các
loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Thọ-cự-đà-la không xa, có núi
tên là Thiện kiến, cao sáu ngàn do-tuần, ngang dọc sáu ngàn do-tuần, hai
bên rất rộng, nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành, cách núi
Thọ-cự-đà-la một vạn hai ngàn do-tuần, khoảng giữa mọc toàn bốn loại tạp
hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi
hương xông khắp.
“Cách núi Thiện kiến không xa, có núi tên là Mã thực, cao ba ngàn
do-tuần, ngang dọc ba ngàn do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen,
bảy báu tạo thành; cách núi Thiện kiến sáu ngàn do-tuần, ở khoảng giữa
mọc toàn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các
loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Mã thực không xa, có núi tên là
Ni-dân-đà-la, cao một ngàn hai trăm do-tuần, ngang dọc một ngàn hai
trăm do-tuần, bảy báu tạo thành; cách núi Mã thực ba ngàn do-tuần, ở
khoảng giữa mọc toàn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong
đó, tỏa ra các loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Ni-dân-đà-la
không xa, có núi tên là Điều phục, cao sáu trăm do-tuần, ngang dọc sáu
trăm do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành;
cách
núi Ni-dân-đà-la một ngàn hai trăm do-tuần, khoảng giữa mọc toàn bốn
loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương,
mùi thơm lan khắp. Cách núi Điều phục không xa, có núi tên là Kim cang
vi, cao ba trăm do-tuần, ngang dọc ba trăm do-tuần; hai bên rất rộng,
nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành; cách núi Điều phục sáu trăm
do-tuần, khoảng giữa mọc toàn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc
trong đó, tỏa ra các loại hương mùi thơm lan khắp.
“Cách núi Đại kim cang không xa, có biển lớn, bờ phía Bắc của biển
lớn có cây đại thọ vương tên là Diêm-phù , vòng thân bảy do-tuần, cao
một trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần, khoảng đất
trống hai bên lại có khu rừng tên là Am-bà-la, ngang dọc năm mươi
do-tuần; lại có khu rừng tên là Diêm-bà, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại
có khu rừng tên là Sa-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng
tên là Đa-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là
Na-đa-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Nam, ngang
dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Nữ , ngang dọc năm mươi
do-tuần; lại có khu rừng tên là Tán-na, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại
có khu rừng tên là Chiên-đàn, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu
rừng tên là
Khư-châu-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là
Ba-nại-bà-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Tỳ-la,
ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Hương nại, ngang dọc
năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Lê, ngang dọc năm mươi do-tuần;
lại có khu rừng tên là An-thạch-lưu , ngang dọc năm mươi do-tuần; lại
có khu rừng tên là Cam, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên
là Ha-lê-lặc, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là
Tỳ-hê-lặc, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là A-ma-lặc,
ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là A-ma-lê, ngang dọc
năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Nại, ngang dọc năm mươi
do-tuần; lại có khu rừng tên là Cam-giá, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại
có khu rừng
tên là Vi, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Trúc,
ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Xá-la, ngang dọc năm
mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Xá-la-nghiệp, ngang dọc năm mươi
do-tuần; lại có khu rừng tên là Mộc qua, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại
có khu rừng tên Đại mộc qua, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu
rừng tên là Giải thoát hoa, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng
tên là Chiêm-bà, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là
Bà-la-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Tu-ma -na,
ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Bà-sư, ngang dọc năm
mươi do-tuần; lại có khu rừng tên Đa-la-lê, ngang dọc năm mươi do-tuần;
lại có khu rừng tên là Già-da, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu
rừng tên là Bồ-đào, ngang dọc năm mươi do-tuần.
“Qua khỏi đó thì đất trống. Trong khoảng đất trống ấy lại có ao hoa,
ngang dọc năm mươi do-tuần. Lại có ao hoa Bát-đầu-ma, ao hoa
Câu-vật-đầu, ao hoa Phân-đà-lỵ; rắn độc đầy trong đó. Mỗi ao ngang dọc
năm mươi do-tuần.
“Qua khỏi đó, đất trống. Trong khoảng đất trống ấy có biển lớn tên là
Uất-thiền-na. Dưới biển này có con đường của Chuyển luân thánh vương,
rộng mười hai do-tuần; sát hai bên đường có bảy lớp tường, bảy lớp lan
can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây. Các trang hoàng chung quanh đều do
bảy báu tạo thành. Khi Chuyển luân thánh vương Chuyển luân thánh vương
ra đời trên cõi Diêm-phù-đề thì nước tự nhiên rút đi, đường ấy hiện ra.
“Cách biển không xa, có núi tên là Kim bích. Trong núi có tám vạn cái
hang. Tám vạn tượng vương sống ở trong hang ấy. Thân chúng thuần trắng;
đầu có nhiều màu; miệng có sáu ngà, giữa các răng có trám vàng.
“Qua khỏi núi Kim bích rồi, có núi tên là Tuyết sơn, ngang dọc năm
trăm do-tuần, sâu năm trăm do-tuần, phía Đông và Tây nhập vào biển. Ở
giữa núi Tuyết có núi báu, cao hai mươi do-tuần.
“Doi đất núi Tuyết trồi lên một trăm do-tuần, trên đảnh núi ấy có ao
A-nậu-đạt, ngang dọc năm mươi do-tuần; nước ao trong mát, lóng sạch
không cáu bẩn; có bảy bậc bờ thềm, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng,
bảy lớp hàng cây, nhiều loại màu sắc khác lạ, do bảy báu tạo thành. Lan
can thì trụ vàng, tay nắm bạc; trụ bạc, tay nắm vàng; trụ lưu ly, tay
nắm thủy tinh; trụ thủy tinh, tay nắm lưu ly; trụ xích châu, tay nắm mã
não; trụ mã não, tay nắm xích châu; trụ xa cừ, tay nắm bằng các báu.
Lưới vàng, linh bạc; lưới bạc, linh vàng; lưới lưu ly, linh thủy tinh;
lưới thủy tinh, linh lưu ly; lưới xa cừ, linh bằng bảy báu. Cây Đa-la
vàng, gốc vàng, nhánh vàng, lá bạc, quả bạc; cây Đa-la bạc, gốc bạc,
nhánh bạc, lá vàng, quả vàng; cây thủy tinh, gốc, nhánh thủy tinh, hoa,
quả
lưu ly; cây xích châu, gốc, nhánh xích châu, lá mã não, hoa, quả mã não;
cây xa cừ, gốc, nhánh xa cừ, hoa, quả bằng các báu. Bên cạnh ao
A-nậu-đạt có vườn cảnh, ao tắm, các hoa tích tụ, các loại cây lá hoa quả
đều tốt tươi; các loại hương thơm, lan tỏa bốn phương, các loài chim lạ
cùng cất tiếng hót họa nhau buồn bã. Dưới đáy ao A-nậu-đạt cát vàng đầy
ắp, bốn phía ao đều có thềm bậc; bậc vàng, thềm bạc, bậc bạc, thềm
vàng; bậc lưu ly, thềm thủy tinh, bậc thủy tinh, thềm lưu ly; bậc xích
châu, thềm mã não, bậc mã não, thềm xích châu; bậc xa cừ, thềm bằng các
báu, bao bọc chung quanh đều có lan can, có bốn loài hoa: xanh, vàng,
đỏ, trắng nhiều màu đan xen; hoa như bánh xe, rễ như ổ trục xe; rễ hoa
ra nhựa màu trắng như sữa, vị ngọt như mật. Phía Đông ao A-nậu-đạt có
sông
Hằng-già, từ miệng trâu chảy ra, dẫn theo năm trăm con sông, chảy vào
biển Đông. Phía Nam ao A-nậu-đạt, có sông Tân-đầu, từ miệng sư tử chảy
ra, dẫn theo năm trăm dòng sông chảy vào biển Nam. Phía Tây ao A-nậu-đạt
có sông Bà-xoa, từ miệng ngựa chảy ra, dẫn theo năm trăm dòng sông nhập
vào biển Tây. Phía Bắc ao A-nậu đạt có sông Tư-đà, từ miệng voi chảy
ra, dẫn theo năm trăm dòng sông chảy vào biển Bắc. Trong cung A-nậu-đạt
có nhà năm cột, Long vương A-nậu-đạt thường ở trong đó.”
Phật nói:
“Vì sao gọi là A-nậu-đạt? A-nậu-đạt nghĩa là gì? Các Long vương ở
Diêm-phù-đề này có đủ ba hoạn nạn, chỉ có A-nậu-đạt không có ba hoạn
nạn. Những gì là ba? Một là, toàn thể Long vương ở Diêm-phù-đề đều bị
gió nóng, cát nóng chạm vào thân, thiêu đốt da thịt và thiêu đốt xương
tủy làm cho khổ não; chỉ có Long vương A-nậu-đạt không có hoạn này. Hai
là, toàn thể long cung ở Diêm-phù-đề bị gió dữ thổi mạnh, thổi vào trong
cung, làm mất y báu phục sức, thân rồng lộ ra, làm cho khổ não; chỉ có
Long vương A-nậu-đạt không có hoạn nạn như thế. Ba là toàn thể Long
vương ở Diêm-phù-đề, khi ở trong cung vui chơi đều bị chim lớn cánh vàng
bay vào cung dắt đi, hoặc mới nghĩ cách muốn bắt rồng để ăn thịt; các
rồng sợ hãi, thường ôm lòng lo sầu; chỉ có Long vương A-nậu-đạt không bị
hoạn này; nếu chim cánh vàng khởi niệm muốn ở thì liền mạng chung, cho
nên gọi là A-nậu-đạt.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Bên phải núi Tuyết có thành tên là Tỳ-xá-ly, phía Bắc của thành ấy
có bảy núi đen. Phía Bắc của bảy núi đen có núi Hương, núi ấy thường có
tiếng âm nhạc, ca xướng, kỹ nhạc. Núi có hai hang, một hang tên là Trú,
hang thứ hai tên là Thiện trụ, do bảy báu trời tạo thành, mềm mại thơm
sạch, giống như áo trời. Diệu âm Càn-thát-bà vương cùng năm trăm
Càn-thát-bà ở trong hang Trú đó. Phía Bắc hang Thiện trú có cây đại thọ
vương Ta-la, tên là Thiện trụ, có bốn ngàn thọ vương vây quanh bốn phía.
Dưới Thiện trụ thọ vương có tượng vương, cũng tên là Thiện trụ, ở dưới
cây này, thân thể toàn trắng, bảy chỗ đầy đặn, có thể bay đi; đầu nó màu
đỏ, lông có nhiều màu; sáu ngà đều thon, giữa được trám vàng, có tám
ngàn voi vây quanh tùy tùng. Dưới tám ngàn thọ vương ấy, có tám ngàn
voi, cũng lại như thế.
“Phía Bắc thọ vương Thiện trụ có ao tắm lớn, tên là Ma-đà-diên ;
ngang dọc năm mươi do-tuần; có tám ngàn ao tắm bao bọc chung quanh, nước
ao trong mát, không có cáu bẩn, được bao quanh các bờ lũy đắp bằng bảy
báu. Ao có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây đều do bảy
báu tạo thành: tay nắm vàng thì trụ bạc, tay nắm bạc thì trụ vàng; tay
nắm thủy tinh thì trụ lưu ly, tay nắm lưu ly thì trụ thủy tinh; tay nắm
xích châu thì trụ mã não, tay nắm mã não thì trụ xích châu; tay nắm xa
cừ thì trụ bằng các báu; dưới lưới vàng treo linh bạc, dưới lưới bạc
treo linh vàng; lưới thủy tinh treo linh lưu ly, lưới lưu ly treo linh
thủy tinh; lưới xích châu treo linh mã não, lưới mã não treo linh xích
châu; lưới xa cừ treo linh các báu. Cây vàng thì rễ vàng, nhánh vàng, lá
hoa quả bạc; cây bạc thì rễ bạc, nhánh bạc, lá hoa quả vàng; cây thủy
tinh thì rễ, nhánh thủy tinh, hoa quả lưu ly; cây lưu ly thì rễ, nhánh
lưu ly, hoa quả thủy tinh; cây xích châu thì rễ, nhánh xích châu, hoa
quả mã não; cây mã não thì rễ, nhánh mã não, hoa quả xích châu; cây xa
cừ thì rễ nhánh xa cừ, hoa, quả các báu.
“Lại nữa, dưới đáy ao ấy, cát vàng rải khắp, bọc chung quanh ao có
đường thềm cấp bằng bảy báu; thềm vàng cấp bạc, thềm bạc cấp vàng; thềm
thủy tinh cấp lưu ly, thềm lưu ly cấp thủy tinh; thềm xích châu, cấp mã
não, thềm mã não, cấp xích châu; thềm xa cừ, cấp các báu. Sát hai bên
thềm có lan can báu. Lại trong ao ấy, sanh bốn loài hoa: xanh, vàng, đỏ,
trắng nhiều màu đan xen; hoa như bánh xe, rễ như ổ trục xe. Rễ hoa ra
nhựa màu trắng như sữa, vị ngọt như mật. Vòng quanh bốn phía ao có vườn
cảnh, rừng, ao tắm, mọc đủ các loại hoa; cây cối xanh tươi, hoa quả dồi
dào, vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng giống như trước. Tượng
vương Thiện trụ khi nghĩ muốn dạo chơi vào ao tắm thì liền nghĩ đến tám
ngàn voi khác. Khi ấy tám ngàn voi lại tự nghĩ: “Tượng vương Thiện
trụ đang nghĩ đến chúng ta, chúng ta nên đến chỗ tượng vương”. Bầy voi
liền đi đến đứng trước tượng vương.
“Bấy giờ, tám ngàn voi theo tượng vương Thiện trụ đến ao Ma-đà-diên.
Trong bầy voi ấy, có con cầm lọng che tượng vương, có con cầm quạt báu
quạt tượng vương; trong đó có con tấu xướng kỹ nhạc đi trước mở đường.
Tượng vương Thiện trụ vào ao tắm rửa, tấu xướng kỹ nhạc, cùng nhau vui
chơi; có con rửa vòi cho tượng vương, có con rửa miệng, gội đầu; rửa
ngà, rửa tai, rửa bụng, kỳ lưng, rửa đuôi, rửa chân; trong đó có con nhổ
gốc hoa rửa sạch dâng voi ăn, có con lấy bốn loại hoa rải trên voi.
“Tượng vương Thiện trụ tắm rửa, ăn uống, cùng nhau vui chơi xong,
liền lên bờ, đi đến đứng ở cây Thiện trụ. Tám ngàn con voi, sau đó, mới
vào ao tắm rửa, ăn uống, cùng nhau vui chơi, xong rồi trở ra, đến chỗ
tượng vương.
“Khi ấy, tượng vương cùng tám ngàn voi tùy tùng sau trước, đến chỗ
thọ vương Thiện trụ; trong đó có con cầm lọng che tượng vương; có con
cầm quạt quạt tượng vương; trong đó có con tấu xướng kỹ nhạc đi trước mở
đường. Khi tượng vương Thiện trụ đến chỗ thọ vương rồi, ngồi nằm đi
đứng tùy ý, tám ngàn voi khác ở dưới các cây, tự do ngồi nằm đi đứng tùy
ý. Trong rừng cây ấy, có cây chu vi tám tầm, có cây chu vi chín tầm,
cho đến mười tầm, mười lăm tầm, chỉ có thọ vương Ta-la của voi chúa
Thiện trụ chu vi mười sáu tầm. Khi cành lá của tám ngàn cây Ta-la rơi
rụng thì có luồng gió mát thổi bay xa ra ngoài khu rừng. Lại khi tám
ngàn voi đại tiểu tiện thì các quỷ Dạ-xoa hốt bỏ ngoài rừng.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Tượng vương Thiện trụ có đại thần lực, công đức như thế; tuy là loài súc sanh mà hưởng phước như vậy.”
-ooOoo-