[12] Chương I
Tương Ưng Nhân Duyên (a)
-ooOoo-
I. Phẩm Phật Ðà.
I. Thuyết Pháp -- (Tạp 12.16, Ðại
2,85a) (S.ii,1)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi
(Xá-vệ), tại Jetavana (Thắng Lâm), trong vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô
Ðộc).
2) Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
"Này các Tỷ-kheo". "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói:
-- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho
các Ông về lý Duyên khởi. Hãy lắng nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ
giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, thế nào là
lý Duyên khởi? Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức;
thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên
thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh
duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ
khổ uẩn này tập khởi. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là tập khởi.
4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh
một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do
thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt.
Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt.
Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do
thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh
diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn
bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn
diệt.
5) Thế Tôn nói như vậy. Các Tỷ-kheo
ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
II. Phân Biệt -- (Tạp 12.16, Ðại
2,85a) (S.ii,2)
1) Trú ở Sàvatthi (Xá-vệ).
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
và phân tích cho các Ông về lý Duyên khởi. Hãy lắng nghe và khéo suy
nghiệm, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, thế nào là
lý Duyên khởi? Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức;
thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên
thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh
duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn
bộ khổ uẩn này tập khởi.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
già, chết? Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại
chúng sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác, bị già, yếu, suy nhược,
răng rụng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ tàn lụi, các căn chín muồi. Ðây
gọi là già. Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ
loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác, sự từ bỏ, hủy hoại,
tiêu mất, tử vong, các uẩn hư hoại, thân thể vứt bỏ. Ðây gọi là
chết. Như vậy, đây là già, đây là chết. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là già, chết.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
sanh? Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh
này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác bị sanh, xuất sanh, giáng sanh, đản sanh,
sự xuất hiện các uẩn, sự thành tựu các xứ. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là sanh.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hữu? Này các Tỷ-kheo, có ba hữu này: Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là hữu.
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
thủ? Này các Tỷ-kheo, có bốn thủ này: dục thủ, kiến thủ, giới cấm
thủ, ngã luận thủ. Này các Tỷ- kheo, đây gọi là thủ.
8) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
ái? Này các Tỷ-kheo, có sáu ái này: sắc ái, thanh ái, hương ái,
vị ái, xúc ái, pháp ái. Này các Tỷ- kheo, đây gọi là ái.
9) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
thọ? Này các Tỷ-kheo, có sáu thọ này: thọ do nhãn xúc
sanh; thọ do nhĩ xúc sanh; thọ do tỷ xúc sanh; thọ do thiệt
xúc sanh; thọ do thân xúc sanh; thọ do ý xúc sanh. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là thọ.
10) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
xúc? Này các Tỷ-kheo, có sáu xúc này: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ
xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
xúc.
11) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
sáu xứ? Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là sáu xứ.
12) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
danh sắc? Thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý; đây gọi là danh. Bốn đại
chủng và sắc do bốn đại chủng tạo ra; đây gọi là sắc. Như vậy, đây là
danh, đây là sắc. Ðây gọi là danh sắc.
13) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
thức? Này các Tỷ-kheo, có sáu thức thân này: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là thức.
14) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hành? Này các Tỷ-kheo, có ba hành này: thân hành, khẩu hành, ý hành.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành.
15) Này các Tỷ-kheo, thế nào là vô
minh? Này các Tỷ-kheo, không rõ biết Khổ, không rõ biết Khổ tập,
không rõ biết Khổ diệt, không rõ biết Con đường đưa đến
Khổ diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vô minh.
16) Như vậy này các Tỷ-kheo, vô minh
duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu
xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên
hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được
khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Nhưng do sự ly tham,
đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn, nên hành diệt. Do hành diệt
nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt
nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên
thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ
diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt.
Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều diệt.
Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
III. Con Ðường... (S.ii,4)
1). .. Trú ở Sàvatthi... (như trên).
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết
giảng cho các Ông về tà đạo và chánh đạo. Hãy lắng nghe và khéo suy
nghiệm, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
tà đạo? Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức... (như
trên)... như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là tà đạo.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
chánh đạo? Do ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn nên hành
diệt. Do hành diệt nên thức diệt... (như trên)... Như vậy là toàn
bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh
đạo.
IV. Vipassì (Tỳ-bà-thi) (Tạp 15.2-3,
Ðại 2,101a) (S.ii,5)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn
Vipassì bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, trước khi Ngài giác ngộ, chưa chứng
Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, đã khởi lên tư tưởng sau đây: "Thật
sự thế giới này đang lâm nguy, bị sanh, bị già, bị chết, đoạn
diệt và tái sanh; và từ nơi đau khổ này, không biết xuất ly, thoát
khỏi già và chết; từ nơi đau khổ này, không biết khi nào biết
đến xuất ly, thoát khỏi già và chết".
3) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, già, chết có mặt? Do duyên gì,
già, chết sanh khởi?". Sau khi như lý tư duy, này các Tỷ-kheo,
Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do sanh
có mặt, già, chết có mặt. Do duyên sanh, già, chết sanh khởi".
4) Rồi Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau:
"Do cái gì có mặt, sanh có mặt? Do duyên gì, sanh sanh khởi?". Sau khi
như lý tư duy, này các Tỷ- kheo, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát
sinh minh kiến như sau: "Do hữu có mặt nên sanh có mặt. Do duyên hữu,
sanh sanh khởi".
5) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, hữu có mặt? Do duyên gì, hữu
sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát
Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do thủ có mặt,
nên hữu có mặt. Do duyên thủ, hữu sanh khởi".
6) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, thủ có mặt? Do duyên gì, thủ
sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát
Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do ái có mặt
nên thủ có mặt. Do duyên ái, thủ sanh khởi".
7) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, ái có mặt? Do duyên gì, ái sanh
khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì
nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do thọ có mặt nên
ái có mặt. Do duyên thọ, nên ái sanh khởi".
8) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, thọ có mặt? Do duyên gì,
thọ sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy,
Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ phát sinh minh kiến như sau: "Do xúc có
mặt nên thọ có mặt. Do duyên xúc, thọ sanh khởi".
9) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, xúc có mặt? Do duyên gì, xúc
sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát
Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do sáu xứ có
mặt nên xúc có mặt. Do duyên sáu xứ, xúc sanh khởi".
10) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, sáu xứ có mặt? Do duyên gì,
sáu xứ sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy,
Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do danh
sắc có mặt nên sáu xứ có mặt. Do duyên danh sắc, sáu xứ sanh khởi".
11) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, danh sắc có mặt? Do duyên gì,
danh sắc sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy,
Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do thức
có mặt nên danh sắc có mặt. Do duyên thức, danh sắc sanh khởi".
12) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, thức có mặt? Do duyên gì, thức
sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát
Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do hành có mặt
nên thức có mặt. Do duyên hành, thức sanh khởi".
13) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, hành có mặt? Do duyên gì, hành
sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát
Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do vô minh có
mặt nên hành có mặt. Do duyên vô minh, hành sanh khởi".
14) Như vậy, vô minh duyên hành; hành duyên
thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc
duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh;
sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được sanh khởi. Như vậy là
sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
15) "Tập khởi, tập khởi", này các
Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, với Bồ-tát
Vipassì, nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang
khởi lên.
16) Và này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên già, chết không có
mặt? Do cái gì diệt, già, chết diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo,
sau khi như lý tư duy, Bồ tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh
kiến như sau: "Do sanh không có mặt nên già, chết không có mặt. Do
sanh diệt nên già, chết diệt".
17) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên sanh không có mặt? Do cái
gì diệt nên sanh diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý
tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau:
"Do hữu không có mặt nên sanh không có mặt. Do hữu diệt nên sanh
diệt".
18) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên hữu không có mặt? Do cái
gì diệt nên hữu diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý
tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau:
"Do thủ không có mặt nên hữu không có mặt. Do thủ diệt nên hữu
diệt".
19) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên thủ không có mặt? Do cái
gì diệt nên thủ diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý
tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau:
"Do ái không có mặt nên thủ không có mặt. Do ái diệt nên thủ
diệt".
20) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên ái không có mặt? Do cái
gì diệt nên ái diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý
tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau:
"Do thọ không có mặt nên ái không có mặt. Do thọ diệt nên ái
diệt".
21) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên thọ không có mặt? Do
cái gì diệt nên thọ diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi
như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như
sau: "Do xúc không có mặt nên thọ không có mặt. Do xúc diệt nên
thọ diệt".
22) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên xúc không có mặt? Do cái
gì diệt nên xúc diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý
tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau:
"Do sáu xứ không có mặt nên xúc không có mặt. Do sáu xứ diệt, nên
xúc diệt".
23) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên sáu xứ không có mặt? Do
cái gì diệt nên sáu xứ diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi
như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như
sau: "Do danh sắc không có mặt nên sáu xứ không có mặt. Do danh sắc
diệt nên sáu xứ diệt".
24) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có mặt nên danh sắc không có mặt?
Do cái gì diệt nên danh sắc diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi
như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như
sau: "Do thức không có mặt nên danh sắc không có mặt. Do thức diệt
nên danh sắc diệt".
25) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có mặt nên thức không có mặt? Do
cái gì diệt nên thức diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như
lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau:
"Do hành không có mặt nên thức không có mặt. Do hành diệt nên thức
diệt".
26) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì
lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có mặt nên hành không có mặt? Do
cái gì diệt nên hành diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như
lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau:
"Do vô minh không có mặt nên hành không có mặt. Do vô minh diệt nên
hành diệt".
27) Như vậy, do vô minh diệt nên hành
diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc
diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc
diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái
diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do
hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ,
ưu, não, diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
28) "Ðoạn diệt, đoạn diệt",
này các Tỷ-kheo, trong các pháp từ trước chưa từng được nghe, đối với
Bồ-tát Vipassì, nhãn khởi nên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi
lên, quang khởi lên.
V. Sikhì (Thi-khí) (S.ii,9)
-- Này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn
Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... (như trên)...
VI. Vessabhu (Tỳ-xá-phù) (S.ii,9)
-- Rồi này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn
Vessabhu, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... (như trên)...
VII. Kakusandha (Câu-lưu-tôn) (S.ii,9)
-- Rồi này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn
Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... (như trên)...
VIII. Konàgamana (Câu-na-hàm). (S.ii,9)
-- Rồi này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn
Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... (như trên)...
IX. Kassapa (Ca-diếp) (S.ii,9)
-- Rồi này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn
Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... (như trên)...
X. Mahà Sakya Muni Gotama: Ðại
Thích-ca-mâu-ni Cù-đàm. (S.ii,10)
1) Tại Sàvatthi.
2) -- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Ta giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, tư tưởng sau
đây được khởi lên: "Thật sự thế giới này bị hãm trong khổ não,
bị sanh, bị già, bị chết, bị đoạn diệt và bị tái sanh; và từ nơi
đau khổ này, không biết sự xuất ly, thoát khỏi già, chết; từ nơi đau
khổ này, không biết khi nào được biết đến sự xuất ly già, chết".
3) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ
như sau: "Cái gì có mặt, già, chết có mặt? Do duyên gì, già, chết
sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, nhờ trí
tuệ, Ta phát sinh minh kiến như sau: "Do sanh có mặt nên già,
chết có mặt. Do duyên sanh nên già, chết sanh khởi".
4 - 13) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy
nghĩ như sau: "Cái gì có mặt, sanh mới có mặt...hữu...
thủ...ái...thọ...xúc...sáu xứ...danh sắc...thức... hành... Do duyên gì
hành sanh khởi?"
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý
tư duy về vấn đề này, nhờ trí tuệ, Ta phát sanh minh kiến như
sau: "Do vô minh có mặt nên hành có mặt. Do duyên vô minh nên hành sanh
khởi".
14) Như vậy vô minh duyên hành, hành duyên
thức...(như trên)...hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu,
não sanh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
15) "Tập khởi, tập khởi", này các
Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, chính nơi Ta,
nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên.
16) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ
như sau: "Cái gì không có mặt, già, chết không có mặt? Do cái gì
diệt, nên già, chết diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như
lý tư duy về vấn đề này, nhờ trí tuệ, Ta phát sanh minh
kiến như sau: "Do sanh không có mặt nên già, chết không có mặt. Do sanh diệt
nên già, chết diệt".
17) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ
như sau: "Cái gì không có mặt, sanh không có mặt. ..hữu. ..thủ. ..ái.
..thọ. ..xúc. ..sáu xứ...danh sắc. ..thức. ..hành... Do cái gì diệt,
hành diệt?"
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý
tư duy về vấn đề này, nhờ trí tuệ, Ta phát sanh minh kiến như
sau: "Do vô minh không có mặt nên hành không có mặt. Do duyên vô minh
diệt nên hành diệt".
27) Như vậy, vô minh diệt hành diệt;
hành diệt, thức diệt... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ
uẩn này.
28) "Ðoạn diệt, đoạn diệt",
này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, chính
nơi Ta nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang
khởi lên.
II. Phẩm Ðồ Ăn
XI. Các Loại Ðồ Ăn (Tạp
15,9 Thực Ðại 2, 101c) (S.ii,11)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ)
tại Jetavana (Thắng Lâm) trong vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc )
2) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại đồ
ăn này khiến cho các loại sanh vật hay các loại chúng sanh được tồn tại
hay khiến cho các loại sắp sanh thành được thọ sanh. Thế nào là
bốn? Một là đoàn thực hoặc thô hoặc tế, hai là xúc thực, ba là tư
niệm thực, bốn là thức thực. Này các Tỷ-kheo, bốn loại đồ ăn này
khiến cho các loại sanh vật hay khiến cho các loại chúng sanh được tồn
tại hay khiến cho các loại sắp sanh thành được thọ sanh.
3) Và này các Tỷ-kheo, bốn loại đồ ăn
này do cái gì làm nhân, do cái gì tập khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì
làm cho hiện hữu? Bốn loại đồ ăn này do ái làm nhân, do ái tập khởi, do
ái tác sanh, do ái làm hiện hữu.
4) Ái này, này các Tỷ-kheo, do cái gì
làm nhân, do cái gì tập khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho hiện
hữu? Ái do thọ làm nhân, do thọ tập khởi, do thọ tác sanh, do
thọ làm cho hiện hữu.
5) Thọ này, này các Tỷ-kheo, do cái
gì làm nhân, do cái gì tập khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho
hiện hữu? Thọ do xúc làm nhân, do xúc tập khởi, do xúc tác sanh, do
xúc làm cho hiện hữu.
6) Xúc này, này các Tỷ-kheo, do cái gì
làm nhân, do cái gì tập khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho hiện
hữu? Xúc do sáu xứ làm nhân, do sáu xứ tập khởi, do sáu xứ tác sanh, do sáu
xứ làm cho hiện hữu.
7) Sáu xứ này, này các Tỷ-kheo, do cái
gì làm nhân, do cái gì tập khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho
hiện hữu? Sáu xứ do danh sắc làm nhân, do danh sắc tập khởi, do danh sắc
tác sanh, do danh sắc làm cho hiện hữu.
8) Danh sắc này, này các Tỷ-kheo, do cái
gì làm nhân, do cái gì tập khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho
hiện hữu? Danh sắc do thức làm nhân, do thức tập khởi, do thức tác sanh, do
thức làm cho hiện hữu.
9) Thức này, này các Tỷ-kheo, do cái gì
làm nhân, do cái gì tập khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho hiện
hữu? Thức do hành làm nhân, do hành tập khởi, do hành tác sanh, do hành làm
cho hiện hữu.
10) Những hành này, này các Tỷ-kheo, do
cái gì làm nhân, do cái gì tập khởi, do cái gì tác sanh, do cái gì làm cho
hiện hữu? Các hành này do vô minh làm nhân, do vô minh tập khởi, do vô minh
tác sanh, do vô minh làm cho hiện hữu.
11) Như vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh
duyên hành, hành duyên thức...(như trên )...như vậy là toàn bộ khổ uẩn này
tập khởi.
12) Nhưng do sự ly tham, đoạn diệt vô
minh một cách hoàn toàn, các hành diệt. Do các hành diệt nên thức
diệt...(như trên)...như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
XII. Moliya Phagguna (Tạp 15,10.
Ðại 2,102) (S.ii,12).
1)...Trú Tại Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại đồ
ăn này khiến cho các loại sanh vật hay các loại chúng sanh được tồn tại
hay khiến cho các loại sắp sanh thành được thọ sanh. Thế nào là
bốn? Một là đoàn thực hoặc thô hoặc tế, hai là xúc thực, ba là tư
niệm thực, bốn là thức thực. Này các Tỷ-kheo, bốn loại đồ ăn này
khiến cho các loại sanh vật hay khiến cho các loại chúng sanh được tồn
tại hay khiến cho các loại sắp sanh thành được thọ sanh.
3) Khi được nói vậy, Tôn giả Moliya-Phagguna
bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, ai ăn thức thực?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không
nói: "Có ai ăn". Nếu Ta nói: "Có kẻ ăn", thời câu hỏi:
"Có ai ăn" là câu hỏi thích hợp. Nhưng Ta không nói như vậy. Và vì
Ta không nói như vậy, nếu có ai hỏi Ta: "Bạch Thế Tôn, thức thực
là cho ai?", thời câu hỏi ấy thích hợp. Ở đây, câu trả lời thích
hợp là như sau: "Thức thực là duyên cho sự sanh thành, cho sự tái sanh
trong tương lai. Khi cái ấy hiện hữu, có mặt thời sáu xứ có mặt. Do
duyên sáu xứ, xúc có mặt".
4) -- Bạch Thế Tôn, ai cảm xúc?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không
nói: "Có kẻ cảm xúc". Nếu Ta nói: "Có kẻ cảm xúc",
thời câu hỏi: "Ai cảm xúc" là câu hỏi thích hợp. Nhưng Ta không nói
như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu có ai hỏi Ta: "Bạch Thế
Tôn, do duyên gì, xúc sanh khởi?", thời câu hỏi ấy thích hợp. Ở đây
câu trả lời thích hợp là như sau: "Do duyên sáu xứ, xúc sanh khởi. Do
duyên xúc, thọ sanh khởi".
5) -- Bạch Thế Tôn, ai cảm thọ?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không
nói: "Có người cảm thọ". Nếu ta có nói: "Có người cảm
thọ", thời câu hỏi: "Ai cảm thọ?" là câu hỏi thích hợp.
Nhưng Ta không nói như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu có ai hỏi
Ta: "Bạch Thế Tôn, do duyên gì, thọ sanh khởi?", thời câu hỏi
ấy thích hợp. Ở đây câu trả lời thích hợp là như sau: "Do duyên
xúc, thọ sanh khởi. Do duyên thọ, ái sanh khởi".
6) -- Bạch Thế Tôn, ai khát ái?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không
nói: "Có kẻ khát ái". Nếu Ta nói: "Có kẻ khát ái",
thời câu hỏi: "Ai khát ái" là câu hỏi thích hợp. Nhưng Ta không nói
như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu có ai hỏi Ta: "Bạch Thế
Tôn, do duyên gì, ái sanh khởi", thời câu hỏi ấy thích hợp. Ở đây,
câu trả lời thích hợp là như sau: "Do duyên thọ, ái sanh khởi. Do
duyên ái, thủ sanh khởi".
7) --Bạch Thế Tôn, ai chấp thủ?
Thế Tôn đáp:
-- Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không
nói: "Có kẻ chấp thủ". Nếu Ta nói: "Có kẻ chấp thủ",
thời câu hỏi: "Ai chấp thủ" là câu hỏi thích hợp. Nhưng Ta không
nói như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu có ai hỏi Ta: "Bạch
Thế Tôn, do duyên gì, thủ sanh khởi", thời câu hỏi ấy thích hợp.
Ở đây, câu trả lời thích hợp là như sau: "Do duyên ái, thủ sanh
khởi. Do duyên thủ, hữu sanh khởi". Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập
khởi.
8) Nhưng này Phagguna, do ly tham, đoạn
diệt một cách hoàn toàn sáu xứ nên xúc diệt. Do xúc diệt,
nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên
thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh
diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt.
Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
XIII. Sa Môn, Bà La Môn (Tạp 14.10-11.
Ðại 2,99a) (S.ii,14)
1) Trú ở Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào không biết rõ già, chết, không biết rõ già,
chết tập khởi, không biết rõ già, chết đoạn diệt, không
biết rõ con đường đưa đến già, chết đoạn diệt; không
biết rõ sanh... hữu... thủ... ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc...
thức... không biết rõ các hành, không biết rõ các hành tập khởi,
không biết rõ các hành đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa
đến các hành đoạn diệt; các vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy không được
chấp nhận là Sa-môn giữa các Sa-môn, hay là Bà-la-môn giữa các Bà-la-môn.
Và những bậc Tôn giả ấy, ngay trong đời sống hiện tại cũng không có
thể với thắng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú mục đích
Sa-môn hạnh và mục đích Bà-la-môn hạnh.
3) Và này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay
là Bà-la-môn nào biết rõ già, chết, biết rõ già, chết tập
khởi, biết rõ già, chết đoạn diệt, biết rõ con đường đưa
đến già, chết đoạn diệt... biết rõ sanh... hữu... thủ... ái...
thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc... thức... biết rõ các hành, biết
rõ các hành tập khởi, biết rõ các hành đoạn diệt, biết rõ con
đường đưa đến các hành đoạn diệt; các Sa-môn hay Bà-la-môn ấy
được chấp nhận là Sa-môn giữa các Sa-môn, hay là Bà-la-môn giữa các
Bà-la-môn. Và những bậc Tôn giả ấy, ngay trong đời sống hiện tại có
thể với thắng trí tự mình giác ngộ, chứng đạt và an trú mục đích
Sa-môn và mục đích Bà-la-môn hạnh.
XIV. Sa Môn, Bà La Môn (S.ii,15)
1). .. Trú ở Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay
là Bà-la-môn nào không biết rõ những pháp này, không biết rõ những
pháp này tập khởi, không biết rõ những pháp này đoạn diệt, không
biết rõ con đường đưa đến những pháp này đoạn diệt.
3) Những pháp gì họ không được
biết rõ? Những pháp gì họ không được biết rõ tập khởi? Những
pháp gì họ không được biết rõ đoạn diệt? Những pháp gì họ
không được biết rõ con đường đưa đến đoạn diệt?
4) Họ không biết rõ già, chết.
Họ không biết rõ già, chết tập khởi. Họ không biết rõ già, chết đoạn diệt. Họ
không biết rõ con đường đưa đến già, chết đoạn diệt. Họ không biết rõ sanh...
hữu... thủ... ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc... thức...Họ
không biết rõ các hành. Họ không biết rõ các hành tập khởi. Họ không biết rõ
các hành đoạn diệt. Họ không biết rõ con đường đưa đến các hành đoạn diệt.
Họ không biết rõ những pháp này. Họ không biết
rõ những pháp này tập khởi. Họ không biết rõ pháp này đoạn diệt. Họ không
biết rõ con đường đưa đến những pháp này đoạn diệt.
5) Này các Tỷ-kheo, các Sa-môn hay
Bà-la-môn ấy không được chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, hay
Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn. Những bậc Tôn giả ấy, ngay trong đời
sống hiện tại, cũng không có thể với thắng trí tự mình chứng ngộ,
chứng đạt và an trú mục đích Sa-môn hạnh và mục đích Bà-la-môn hạnh.
6) Và này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào biết rõ được những pháp này, biết rõ được những
pháp này tập khởi, biết rõ được những pháp này đoạn diệt, biết
rõ được con đường đưa đến những pháp này đoạn diệt.
7) Họ biết rõ pháp gì? Họ
biết rõ những pháp gì tập khởi? Họ biết rõ những pháp gì đoạn
diệt? Họ biết rõ con đường đưa đến những pháp gì đoạn
diệt?
8) Họ biết rõ già, chết. Họ
biết rõ già, chết tập khởi. Họ biết rõ già, chết đoạn
diệt. Họ biết rõ con đường đưa đến già, chết đoạn
diệt... sanh... hữu... thủ... ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc...
thức... Họ biết rõ các hành. Họ biết rõ các hành tập khởi.
Họ biết rõ các hành đoạn diệt. Họ biết rõ con đường
đưa đến các hành đoạn diệt. Họ biết rõ những pháp này.
Họ biết rõ những pháp này tập khởi. Họ biết rõ những pháp
này đoạn diệt. Họ biết rõ con đường đưa đến của những
pháp này đoạn diệt.
9) Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay
Bà-la-môn ấy được chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, hay là
Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn. Và những bậc Tôn giả ấy, ngay trong đời
sống hiện tại, với thắng trí, tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú
mục đích Sa-môn hạnh và mục đích Bà-la-môn hạnh.
XV. Kaccàyanagotta: (Ca-chiên-diên Thị)
(Tạp 12.19 Ðại 2,85c) (S.ii,16)
1) Trú ở Sàvatthi (Xá-vệ)...
2) Rồi Tôn giả Kaccàyanagotta đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Kaccàyanagotta bạch Thế Tôn:
-- "Chánh kiến, chánh kiến",
bạch Thế Tôn được nói đến như vậy. Bạch Thế Tôn, cho đến
như thế nào là chánh kiến?
4) -- Này Kaccàyana, thế giới này phần
lớn y chỉ vào hai cực đoan này: có và không có.
5) Này Kaccàyana, ai với chánh trí tuệ
thấy như chơn thế giới tập khởi, vị ấy không chấp nhận thế giới là
không có. Này Kaccàyana, ai với chánh trí tuệ thấy như chơn thế giới
đoạn diệt, vị ấy không chấp nhận thế giới là có.
6) Này Kaccàyana, chấp thủ phương tiện
và bị thiên kiến trói buộc, phần lớn thế giới này là vậy. Và ai với
tâm không trú trước, không chấp thủ phương tiện ấy, không chấp thủ thiên
chấp tùy miên ấy, không có chấp trước, không trú trước, vị ấy không có
nghĩ: "Ðây là tự ngã của tôi". Khi khổ sanh thời xem là sanh, khi
khổ diệt thời xem là diệt; vị ấy không có nghi ngờ, không có phân
vân, không duyên vào ai khác, trí ở đây là của vị ấy. Cho đến như
vậy, này Kaccàyana, là chánh tri kiến.
7) "Tất cả là có", này Kaccàyana,
là một cực đoan. "Tất cả là không có" là cực đoan thứ hai.
Xa lìa hai cực đoan ấy, này Kaccàyana, Như
Lai thuyết pháp theo trung đạo.
8) Vô minh duyên hành; hành duyên thức...
(như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Nhưng do ly tham,
đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn, nên các hành diệt. Do các hành
diệt nên thức diệt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này
đoạn diệt.
XVI. Vị Thuyết Pháp (Tạp 14.23-4.
Thuyết Pháp, Ðại 2,100c) (S.ii,18)
1) Tại Sàvatthi.
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn:
-- "Thuyết pháp, thuyết
pháp", bạch Thế Tôn, như vậy được nói đến.
4) -- Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp
về yếm ly, ly tham, đoạn diệt già và chết, như vậy là đủ
để được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp.
5) Nếu Tỷ-kheo thực hành về
yếm ly, ly tham, đoạn diệt già, chết, như vậy là đủ để được
gọi là Tỷ-kheo thực hành các pháp và tùy pháp.
6) Nếu Tỷ-kheo giải thoát, không còn
chấp thủ mọi yếm ly, ly tham, đoạn diệt già, chết, như vậy là
đủ để được gọi là Tỷ-kheo đã đạt được Niết-bàn ngay
trong đời sống hiện tại.
7) Nếu Tỷ-kheo thuyết pháp về
sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt sanh... hữu... thủ... ái... thọ...
xúc... sáu xứ... danh sắc... thức... hành... (như trên)... Nếu Tỷ-kheo
thuyết pháp về yếm ly, ly tham, đoạn diệt vô minh, như vậy là
đủ để được gọi là Tỷ-kheo thuyết pháp.
8) Nếu Tỷ-kheo thực hành về
yếm ly, ly tham, đoạn diệt vô minh, như vậy là đủ để được
gọi là Tỷ-kheo thực hành các pháp và tùy pháp.
9) Nếu Tỷ-kheo giải thoát, không còn
chấp thủ mọi yếm ly, ly tham, đoạn diệt vô minh, như vậy là đủ
để được gọi là Tỷ-kheo đã đạt được Niết-bàn ngay trong
đời sống hiện tại.
XVII. Loã Thể (Tạp 12.20, Ðại 2,86a
Ðại 14,768) (S.ii,18)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương
Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y,
cầm y bát, đi vào Ràjagaha để khất thực.
3) Lõa thể Kassapa thấy Thế Tôn từ xa
đi đến. Sau khi thấy, lõa thể Kassapa đi đến Thế Tôn; sau khi
đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời
chào đón hỏi thăm thân hữu, liền đứng một bên.
4) Ðứng một bên, lõa thể Kassapa bạch
Thế Tôn:
-- Chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama về
một vấn đề. Nếu Tôn giả Gotama cho phép, chúng tôi sẽ hỏi câu hỏi.
-- Này Kassapa, nay không phải thời để
hỏi. Chúng ta đã vào trong làng.
5) Lần thứ hai, lõa thể Kassapa bạch
Thế Tôn:
-- Chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama về
một vấn đề. Nếu Tôn giả Gotama cho phép, chúng tôi sẽ hỏi câu hỏi.
-- Này Kassapa, nay không phải thời để
hỏi. Chúng ta đã vào trong làng.
6) Lần thứ ba, lõa thể Kassapa... (như
trên)... Chúng ta đã vào trong làng.
Khi được nói vậy, lõa thể Kassapa bạch
Thế Tôn:
-- Nhưng không phải chúng tôi muốn hỏi Tôn
giả Gotama nhiều chuyện.
-- Vậy hãy hỏi đi, này Kassapa, như Ông
muốn.
7) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do tự
mình làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Kassapa.
8) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do
người khác làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Kassapa.
9) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do
mình làm ra và do người khác làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Kassapa.
10) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ
không do tự mình làm ra, không do người khác làm ra, khổ do tự nhiên sanh?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Kassapa.
11) -- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ
không có?
-- Này Kassapa, không phải khổ không có. Khổ
có, này Kassapa.
12) -- Như vậy, Tôn giả Gotama không
biết, không thấy khổ.
-- Này Kassapa, không phải Ta không biết,
không thấy khổ. Này Kassapa, Ta biết khổ, này Kassapa, Ta thấy khổ.
13) -- Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, khổ
có phải tự mình làm ra", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này
Kassapa". Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, khổ có phải do người khác làm
ra?", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này Kassapa". Ðược hỏi:
"Tôn giả Gotama, khổ có phải do tự mình làm ra và do người khác làm
ra?", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này Kassapa". Ðược hỏi:
"Tôn giả Gotama, có phải khổ không do tự mình làm ra và không do người
khác làm ra, khổ do tự nhiên sanh?", Ngài trả lời: "Không phải vậy,
này Kassapa". Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, có phải khổ không
có?", Ngài trả lời: "Không phải khổ không có. Khổ có, này
Kassapa". Ðược hỏi: "Như vậy Tôn giả Gotama, không biết, không
thấy khổ?", Ngài trả lời: "Này Kassapa, không phải Ta không biết,
không thấy khổ. Này Kassapa, Ta biết khổ, này Kassapa, Ta thấy khổ".
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nói lên cho con về khổ, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết cho con về khổ.
14) -- Một người làm và chính người làm
ấy cảm thọ (kết quả). Này Kassapa, như Ông gọi ban đầu "khổ
do tự mình làm ra", như vậy có nghĩa là thường kiến.
Một người khác làm và một người khác cảm
thọ. Này Kassapa, như vậy đối với người bị cảm thọ, được xảy ra
như: "Khổ do người khác làm ra", như vậy có nghĩa là đoạn
kiến.
15) Này Kassapa, từ bỏ hai cực đoan ấy, Như
Lai thuyết pháp theo con đường trung đạo. Vô minh duyên hành, hành duyên
thức... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Nhưng do ly tham và đoạn
diệt hoàn toàn vô minh, các hành diệt. Do các hành diệt nên thức
diệt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
16) Khi được nghe nói vậy, lõa thể
Kassapa bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn!
Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng
đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ
đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai
có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn
dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Và nay con xin quy y
Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, con xin xuất
gia với Thế Tôn, con xin thọ đại giới.
17) -- Này Kassapa, ai trước kia là ngoại
đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này, phải
sống bốn tháng biệt trú; sau khi sống bốn tháng biệt trú, nếu
chúng Tăng đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị
Tỷ-kheo. Nhưng Ta nhận thấy cá tánh con người sai biệt nhau.
18) -- Bạch Thế Tôn, nếu những người
xưa kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và
Luật này, phải sống bốn tháng biệt trú; sau khi sống bốn tháng biệt
trú, chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới,
thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau khi sống biệt trú bốn năm
nếu chúng Tăng đồng ý, mong chúng Tăng cho con xuất gia, cho con thọ
đại giới để thành vị Tỷ-kheo.
19) Và lõa thể Kassapa được xuất gia
với Thế Tôn và được thọ đại giới.
20) Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả
Kassapa ở một mình, an tịnh, không phóng dật, sống nhiệt tâm, tinh cần. Và
không bao lâu vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương
gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến; đó
là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh ngay trong đời sống hiện tại, tự mình
với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị này chứng tri: "Sanh
đã tận. Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lại
trạng thái này nữa".
21) Và Tôn giả Kassapa trở thành một vị
A-la-hán nữa.
XVIII. Timbaruka (Tạp 12.21 Ðại 2, 86b)
(S.ii,22)
1) Trú ở Sàvatthi...
2) Rồi du sĩ Timbaruka đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu,
liền ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, du sĩ Timbaruka bạch
Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ tự
mình làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Timbaruka.
4) -- Thưa Tôn giả Gotama, vậy có phải lạc
khổ do người khác làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Timbaruka.
5) -- Thưa Tôn giả Gotama, vậy có phải lạc
khổ do tự mình làm ra và do người khác làm ra?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Timbaruka.
6) -- Thưa Tôn giả Gotama, lạc khổ không do
tự mình làm ra, không do người khác làm ra; vậy có phải lạc khổ do tự nhiên
sanh?
Thế Tôn đáp:
-- Không phải vậy, này Timbaruka.
7) -- Thưa Tôn giả Gotama, vậy có phải không
có lạc khổ?
8) -- Này Timbaruka, không phải không có lạc
khổ. Này Timbaruka, có lạc khổ.
-- Nếu vậy, Tôn giả Gotama không
biết, không thấy lạc khổ.
9) -- Này Timbaruka, không phải Ta không
biết, không thấy lạc khổ. Này Timbaruka, Ta biết lạc khổ. Này Timbaruka,
Ta thấy lạc khổ.
10) -- Ðược hỏi: "Thưa Tôn giả Gotama,
có phải lạc khổ do tự mình làm ra?", Ngài trả lời: "Không phải vậy,
này Timbaruka". Ðược hỏi: " Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ do
người khác làm ra?", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này
Timbaruka". Ðược hỏi: "Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ do tự
mình làm ra và do người khác làm ra?", Ngài đáp: "Không phải vậy,
này Timbaruka". Ðược hỏi: "Thưa Tôn giả Gotama, không phải do tự
mình làm ra, không do người khác làm ra, có phải lạc khổ do tự nhiên
sanh?", Ngài đáp: "Không phải vậy, này Timbaruka". Ðược hỏi:
"Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ không có?", Ngài đáp:
"Này Timbaruka, không phải không có lạc khổ, này Timbaruka, có lạc
khổ". Ðược hỏi: "Như vậy Tôn giả Gotama không biết, không thấy
lạc khổ?", Ngài đáp: "Này Timbaruka, không phải Ta không biết,
không thấy lạc khổ. Này Timbaruka, Ta biết lạc khổ. Này Timbaruka, Ta thấy
lạc khổ". Vậy Tôn giả Gotama hãy nói lên cho con về lạc khổ. Vậy Tôn
giả Gotama hãy thuyết cho con về lạc khổ.
11) -- Sự cảm thọ và người cảm thọ
là cùng một người. Này Timbaruka, như Ông nói ban đầu: "Lạc khổ do tự
mình làm ra", Ta nói không phải vậy.
12) Cảm thọ và người cảm thọ là
khác nhau, này Timbaruka, như vậy đối với người bị cảm thọ, "lạc
khổ do người khác làm ra", Ta nói không phải vậy.
13) Này Timbaruka, từ bỏ hai cực đoan ấy,
Như Lai thuyết pháp theo con đường trung đạo.
Vô minh duyên hành, hành duyên thức... (như
trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Do ly tham, đoạn diệt
hoàn toàn vô minh, nên các hành diệt. Do các hành diệt nên thức
diệt... (như trên)... như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
14) Khi được nói vậy, du sĩ Timbaruka bạch
Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn...
(như trên)... Và nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng
Tỷ-kheo Tăng. Xin Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho
đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
XIX. Bậc Hiền So Sánh Với Kẻ Ngu (Tạp
12.12, Ðại 2, 83c) (S.ii,23)
1). .. Trú Tại Sàvatthi.
2) -- Ðối với kẻ ngu, này các Tỷ-kheo,
bị vô minh che đậy, bị tham ái hệ phược, thân này được khởi lên như
sau: Chỉ có thân này và danh sắc ở ngoài. Như vậy là bộ hai này. Duyên bộ
hai này có xúc, có sáu xứ. Do cảm xúc bởi chúng, hoặc một trong hai, người
ngu cảm thọ lạc khổ.
3) Ðối với bậc Hiền, này các
Tỷ-kheo, bị vô minh che đậy, bị tham ái hệ phược, thân này được
khởi lên như sau: Chỉ có thân này và danh sắc ở ngoài. Như vậy là bộ hai
này. Duyên bộ hai này có xúc, có sáu xứ. Do cảm xúc bởi chúng, hoặc một
trong hai, người Hiền cảm thọ lạc khổ.
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, có gì
phân biệt, có gì sai khác, có gì dị biệt giữa bậc Hiền và kẻ
ngu?
5) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng con,
các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy
Thế Tôn làm chỗ y chỉ. Bạch Thế Tôn, lành thay, nếu Thế
Tôn nói lên cho chúng con ý nghĩa lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn
giảng, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
6) -- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và
khéo suy nghiệm, Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn.
7) Thế Tôn nói như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, bị vô minh che đậy
và bị tham ái hệ phược, thân này của người ngu được sanh khởi. Vô minh
ấy, người ngu không đoạn tận. Tham ái ấy, người ngu không tận trừ. Vì sao?
Này các Tỷ-kheo, người ngu sống Phạm hạnh không phải vì chơn chánh đoạn
trừ khổ đau. Do vậy người ngu, khi thân hoại mạng chung, đi đến một thân
khác. Do đi đến một thân khác, người ấy không giải thoát khỏi sanh,
già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng: "Người ấy không thoát
khỏi đau khổ".
8) Và này các Tỷ-kheo, bị vô minh che
đậy, bị tham ái hệ phược, thân người Hiền trí được sanh khởi. Vô
minh ấy, người Hiền trí đoạn tận. Tham ái ấy, người Hiền trí tận
trừ. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, người Hiền trí sống Phạm hạnh, vì chơn
chánh đoạn trừ khổ đau. Do vậy, người Hiền trí, khi thân hoại mạng
chung, không đi đến một thân khác. Do không đi đến một thân khác,
vị ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói
rằng: "Vị ấy thoát khỏi đau khổ".
9) Này các Tỷ-kheo, đây là sự phân
biệt, đây là sự sai khác, đây là sự dị biệt giữa bậc Hiền trí
và người ngu.
XX. Duyên (Tạp 12.14, Ðại 2, 84b)
(S.ii,25)
1) Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho
các Ông lý duyên khởi và các pháp duyên sanh. Hãy lắng nghe và khéo suy
nghiệm, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
lý duyên khởi? Do duyên sanh, này các Tỷ-kheo, già, chết khởi lên.
Dầu các Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện, an trú là giới tánh
ấy, pháp trú tánh ấy, pháp quyết định tánh ấy, y duyên tánh ấy. Như Lai
hoàn toàn chứng ngộ, hoàn toàn chứng đạt định lý ấy. Sau khi hoàn toàn
chứng ngộ, hoàn toàn chứng đạt, Như Lai tuyên bố, tuyên thuyết, tường
thuyết, khai hiển, khai thị, phân biệt, minh hiển, minh thị.
4) Do duyên sanh, này các Tỷ-kheo, nên có
già, chết. Do duyên hữu, này các Tỷ-kheo, nên có sanh. Do duyên thủ,
này các Tỷ-kheo, nên có hữu. Do duyên ái, này các Tỷ-kheo, nên có
thủ. Do duyên thọ, này các Tỷ-kheo, nên có ái. Do duyên xúc, này các
Tỷ-kheo, nên có thọ. Do duyên sáu xứ, này các Tỷ-kheo, nên có
xúc. Do duyên danh sắc, này các Tỷ-kheo, nên có sáu xứ. Do duyên thức,
này các Tỷ-kheo, nên có danh sắc. Do duyên các hành, này các Tỷ-kheo,
nên có thức. Do duyên vô minh, này các Tỷ-kheo, nên có hành. Dầu cho Như
Lai có xuất hiện hay không xuất hiện, an trú là giới tánh ấy, pháp
trú tánh ấy, pháp quyết định tánh ấy, y duyên tánh ấy. Như Lai hoàn
toàn chứng ngộ, hoàn toàn chứng đạt tánh ấy. Sau khi hoàn toàn chứng ngộ,
hoàn toàn chứng đạt, Như Lai tuyên bố, tuyên thuyết, tường thuyết,
khai hiển, khai thị, phân biệt, minh hiển, minh thị.
5) Do duyên vô minh, này các Tỷ-kheo, có
các hành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là như tánh, bất hư vọng
tánh, bất dị như tánh, y duyên tánh ấy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
lý duyên khởi.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
duyên sanh pháp? Già, chết, này các Tỷ-kheo, là vô thường, hữu vi,
duyên sanh, biến hoại tánh, biến diệt tánh, ly tham tánh, đoạn
diệt tánh.
7) Sanh, này các Tỷ-kheo, là vô thường,
hữu vi, duyên sanh, biến hoại tánh, biến diệt tánh, ly tham tánh,
đoạn diệt tánh.
8) Hữu, này các Tỷ-kheo, là vô thường,
hữu vi, duyên sanh, biến hoại tánh, biến diệt tánh, ly tham tánh,
đoạn diệt tánh.
9) -- 16) Thủ, này các Tỷ-kheo... ái, này
các Tỷ-kheo... Thọ, này các Tỷ-kheo... Xúc, này các Tỷ-kheo...
Sáu xứ, này các Tỷ-kheo... Danh sắc, này các Tỷ-kheo... Thức, này các
Tỷ-kheo... Các hành, này các Tỷ-kheo...
17) Vô minh, này các Tỷ-kheo, là vô
thường hữu vi, duyên sanh, biến hoại tánh, biến diệt tánh, ly tham
tánh, đoạn diệt tánh. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, được gọi
là duyên sanh pháp.
18) Do vì, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử khéo thấy như chơn với chánh trí tuệ lý duyên khởi này
và các pháp duyên sanh này, nên chắc chắn vị ấy không chạy theo quá khứ
(với những câu hỏi): "Ta có mặt trong quá khứ? Ta không có mặt không quá
khứ? Ta là gì trong quá khứ? Ta có mặt như thế nào trong quá khứ? Hay
trước ta đã là gì, và nay trong quá khứ ta là gì?"
19) Hay không chạy theo tương lai (với những
câu hỏi): "Ta có mặt trong tương lai? Ta không có mặt trong tương lai? Ta
sẽ làm gì trong tương lai? Ta có mặt như thế nào trong tương lai? Hay
trước ta là gì, và nay trong tương lai ta sẽ là gì?"
20) Hay nay các vị ấy sẽ khởi lên những nghi
ngờ về tự mình trong hiện tại như sau: "Ta hiện có mặt? Ta
hiện không có mặt? Ta hiện là gì? Ta hiện có mặt như thế
nào?" Sự kiện như vậy không xảy ra.
21) Vì sao? Vì rằng vị Thánh đệ tử,
này các Tỷ-kheo, đã khéo thấy như chơn với chánh trí tuệ, định
lý duyên khởi này với các pháp duyên sanh này.
III. Phẩm Mười Lực
I. Mười Lực (Tăng 46,3, Ðại
2,776a) (S.ii,27)
1). .. Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Như Lai đầy đủ
mười lực, đầy đủ bốn vô sở úy, tự nhận vị trí Ngưu vương, rống
tiếng rống con sư tử giữa hội chúng, chuyển Pháp luân và nói rằng:
"Ðây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc đoạn diệt. Ðây
là thọ, đây là thọ tập khởi, đây là thọ đoạn diệt. Ðây
là tưởng, đây là tưởng tập khởi, đây là tưởng đoạn diệt. Ðây là
hành, đây là hành tập khởi, đây là hành đoạn diệt. Ðây là thức,
đây là thức tập khởi, đây là thức đoạn diệt".
Như vậy do cái này có mặt, cái kia có mặt.
Do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt.
Do cái này diệt, cái kia diệt.
3) Nghĩa là vô minh duyên hành, hành duyên
thức... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
4) Do ly tham, đoạn diệt hoàn toàn vô
minh nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt... (như trên)... Như
vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
II. Mười Lực (Tạp 14.6 Thập Lực, Ðại
2,98a) (S.ii,28)
1). .. Trú Tại Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Như Lai đầy đủ
mười lực, bốn vô sở úy... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này
đoạn diệt.
3-4). ..
5) Như vậy, này các Tỷ-kheo, Pháp được
Ta khéo thuyết, hiển thị, khai thị, hiển lộ, các buộc ràng được
cắt đoạn.
6) Như vậy, này các Tỷ-kheo, với Pháp
được Ta khéo thuyết, hiển thị, khai thị, hiển lộ, các buộc ràng
được cắt đoạn, thật là đủ cho Thiện nam tử do lòng tin xuất gia có
thể bắt đầu tinh tấn (hành trì và nguyện). Như vậy, này các
Tỷ-kheo, với Pháp được Ta khéo thuyết, hiển thị, hiển lộ các
buộc ràng được cắt đoạn. Chắc chắn dầu chỉ còn lại da, gân và xương
trên thân, dầu thịt, máu trở thành khô cạn, mong rằng tinh tấn lực, sẽ
được kiên trì để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ trượng phu
lực, nhờ trượng phu tinh tấn, nhờ trượng phu cần dõng.
7) Khổ thay, này các Tỷ-kheo, là người
sống biếng nhác, dính đầy các pháp ác, bất thiện và mục đích lớn
bị suy giảm! An lạc thay, này các Tỷ-kheo, là người sống tinh cần, tinh
tấn, viễn ly các ác, bất thiện pháp, và mục đích lớn được viên mãn!
8) Này các Tỷ-kheo, không phải với cái
hạ liệt có thể đạt được cái cao thượng. Này các Tỷ-kheo, phải
với cái cao thượng mới đạt được cái cao thượng. Ðáng được tán thán,
này các Tỷ-kheo, là Phạm hạnh này với sự có mặt của bậc Ðạo Sư. Do
vậy, này các Tỷ-kheo, hãy tinh tấn lên để chứng đạt những gì chưa
chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ
những gì chưa chứng ngộ.
9) Có vậy, sự xuất gia này của chúng ta sẽ
không phải trống không, có kết quả, có thành tích (Sa udrayà). Và những
vật dụng chúng ta thọ dụng như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
thuốc trị bệnh, dầu cho những thứ này là khiêm tốn (vokàrà), đối với
chúng ta sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn.
10) Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông
cần phải học tập. Này các Tỷ-kheo, thấy được tự lợi là vừa đủ
để tinh tấn không phóng dật. Hay này các Tỷ-kheo, khi thấy lợi tha là
vừa đủ để tinh tấn, không phóng dật. Hay này các Tỷ-kheo, thấy lợi
cả hai, là vừa đủ để tinh tấn, không phóng dật.
III. Duyên (S.ii,29)
1)... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, đối với người
biết, này các Tỷ-kheo, đối với người thấy, Ta nói các lậu hoặc
được đoạn diệt, không phải đối với người không biết, không phải
đối với người không thấy.
3) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào
đối với người biết, đối với người thấy, các lậu hoặc được đoạn
diệt? Ðây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc đoạn diệt.
Ðây là thọ... Ðây là tưởng... Ðây là hành... Ðây là thức, đây là
thức tập khởi, đây là thức đoạn diệt. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
đối với người biết, như vậy đối với người thấy, các lậu hoặc được
đoạn diệt.
4) Này các Tỷ-kheo, trong đoạn diệt
ấy, trí về đoạn diệt, Ta nói rằng trí ấy có duyên, không phải không
có duyên.
5) Và này các Tỷ-kheo, duyên của trí
về đoạn diệt là gì? Giải thoát là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo,
Ta nói rằng giải thoát có duyên, không phải không có duyên.
6) Và này các Tỷ-kheo, duyên của giải
thoát là gì? Ly tham là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng ly tham
có duyên, không phải không có duyên.
7) Và này các Tỷ-kheo, duyên của ly tham
là gì? Yếm ly là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng yếm ly
có duyên, không phải không có duyên.
8) Và này các Tỷ-kheo, duyên của yếm
ly là gì? Tri kiến như chân là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói
rằng tri kiến như chân có duyên, không phải không có duyên.
9) Và này các Tỷ-kheo, duyên của tri
kiến như chân là gì? Ðịnh là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói
rằng định có duyên, không phải không có duyên.
10) Và này các Tỷ-kheo, duyên của định
là gì? Lạc là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng lạc có duyên,
không phải không có duyên.
11) Này các Tỷ-kheo, duyên của lạc là
gì? Khinh an là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng khinh an có
duyên, không phải không có duyên.
12) Và này các Tỷ-kheo, duyên của khinh
an là gì? Hỷ là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hỷ có
duyên, không phải không có duyên.
13) Và này các Tỷ-kheo, duyên của hỷ
là gì? Hân hoan là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hân hoan có
duyên, không phải không có duyên.
14) Và này các Tỷ-kheo, duyên của hân
hoan là gì? Lòng tin là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng lòng
tin có duyên, không phải không có duyên.
15) Và này các Tỷ-kheo, duyên của lòng
tin là gì? Khổ là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng khổ có
duyên, không phải không có duyên.
16) Và này các Tỷ-kheo, duyên của khổ
là gì? Sanh là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng sanh có duyên,
không phải không có duyên.
17) Và này các Tỷ-kheo, duyên của sanh
là gì? Hữu là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hữu có duyên,
không phải không có duyên.
18) Và này các Tỷ-kheo, duyên của hữu
là gì? Thủ là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng thủ có duyên,
không phải không có duyên.
19) Và này các Tỷ-kheo, duyên của thủ
là gì? Ái là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng ái có duyên,
không phải không có duyên.
20-25) Và này các Tỷ-kheo, duyên của ái
là gì? Thọ là câu trả lời... (như trên)...
Xúc là câu trả lời...
Sáu xứ là câu trả lời...
Danh sắc là câu trả lời...
Thức là câu trả lời...
Hành là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo,
Ta nói rằng hành có duyên, không phải không có duyên.
26) Và này các Tỷ-kheo, duyên của hành
là gì? Vô minh là câu trả lời.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh duyên
hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ
duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu;
hữu duyên sanh; sanh duyên khổ; khổ duyên tín; tín duyên hân hoan; hân hoan
duyên hỷ; hỷ duyên khinh an; khinh an duyên lạc; lạc duyên định; định
duyên tri kiến như chân; tri kiến như chân duyên yếm ly; yếm ly
duyên ly tham; ly tham duyên giải thoát; giải thoát duyên trí về đoạn
diệt.
27) Ví như, này các Tỷ-kheo, trên đỉnh
núi trời mưa nặng hột và nước chảy theo triền thấp, tràn đầy hang núi,
khe núi, thung lũng. Khi các hang núi, khe núi, thung lũng được tràn đầy,
thời ao nhỏ được tràn đầy; ao nhỏ được tràn đầy thời ao lớn được tràn
đầy; ao lớn tràn đầy thời sông nhỏ được tràn đầy; sông nhỏ được tràn
đầy thời sông lớn được tràn đầy; sông lớn được tràn đầy thời biển
lớn, đại dương được tràn đầy.
28) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh
duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu
xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên
hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên khổ; khổ duyên tín; tín duyên hân hoan; hân
hoan duyên hỷ; hỷ duyên khinh an; khinh an duyên lạc; lạc duyên định;
định duyên tri kiến như chân; tri kiến như chân duyên yếm ly;
yếm ly duyên ly tham; ly tham duyên giải thoát; giải thoát duyên trí về
đoạn diệt.
IV. Ngoại Ðạo (S.ii,32)
1)... Trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại
Veluvana (Trúc Lâm).
2) Tôn giả Sàriputta vào buổi sáng đắp y,
cầm y bát, đi vào Vương Xá để khất thực.
3) Rồi Tôn giả Sàriputta suy nghĩ: "Thật
là quá sớm để vào Vương Xá khất thực. Ta hãy đi đến vườn của
các du sĩ ngoại đạo".
4) Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến vườn
của các du sĩ ngoại đạo; sau khi đến, nói lên với những du sĩ ngoại
đạo ấy những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón
hỏi thăm thân hữu, Tôn giả liền ngồi xuống một bên.
Các du sĩ ngoại đạo ấy nói với Tôn giả
Sàriputta đang ngồi xuống một bên:
5) -- Này Hiền giả Sàriputta, có một số
Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm.
Này Hiền giả Sàriputta, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về
nghiệp, tuyên bố khổ do người khác làm. Này Hiền giả Sàriputta, có
một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự
mình làm và do người khác làm. Này Hiền giả Sàriputta, có một số
Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự
mình làm, không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh.
6) Ở đây, này Hiền giả Sàriputta,
Sa-môn Gotama thuyết như thế nào, tuyên bố như thế nào? Và chúng
tôi trả lời như thế nào để đáp đúng lời Sa-môn Gotama tuyên bố;
chúng tôi không xuyên tạc Sa-môn Gotama không đúng sự thực. Pháp chúng tôi
trả lời là thuận pháp; và một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn
cũng không tìm được lý do để chỉ trích.
7) Chư Hiền giả, Thế Tôn đã nói
khổ do duyên mà sanh. Do duyên gì? Do duyên xúc. Nói như vậy là đáp đúng
lời Thế Tôn tuyên bố, không xuyên tạc Thế Tôn không đúng sự thật,
pháp được trả lời là thuận pháp, và một vị đồng pháp nào có muốn
cật vấn cũng không tìm được lý do để chỉ trích.
8) Ở đây, này chư Hiền, những
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình
làm; khổ ấy chính do duyên xúc. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương
về nghiệp, tuyên bố khổ do người khác làm; khổ ấy chính do duyên
xúc. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ
do tự mình làm và do người khác làm; khổ ấy chính do duyên xúc... Những
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự
mình làm, không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh; khổ ấy chính do
duyên xúc.
9) Ở đây, này chư Hiền, những
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình
làm. Họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự
kiện như vậy không xảy ra. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về
nghiệp, tuyên bố khổ do người khác làm. Họ chắc chắn có thể tự
cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra. Và
những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự
mình làm và do người khác làm. Họ chắc chắn có thể tự cảm thọ
không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra. Và những Sa-môn,
Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự mình
làm và không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh. Họ chắc chắn có
thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy
ra.
10) Tôn giả Ananda nghe câu chuyện giữa
Tôn giả Sàriputta với các du sĩ ngoại đạo ấy.
11) Rồi Tôn giả Ananda, đi khất thực ở
Vương Xá xong, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, đi
đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda đem tất cả câu chuyện xảy ra
giữa Tôn giả Sàriputta và các du sĩ ngoại đạo trình bày lên Thế Tôn.
12) -- Lành thay, lành thay, này Ananda!
Sàriputta trả lời như vậy là trả lời một cách chơn chánh. Này Ananda, Ta nói
rằng khổ do duyên mà sanh. Do duyên gì? Do duyên xúc. Nói như vậy là đáp
đúng lời Ta tuyên bố, không xuyên tạc Ta không đúng sự thật, và một
vị đồng pháp nào có muốn cật vấn, cũng không tìm được lý do để
chỉ trích.
13) Ở đây, này Ananda, những Sa-môn,
Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm,
khổ ấy chính do duyên xúc. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào... (như trên)... Những
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự
mình làm, và không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh; khổ ấy chính do
duyên xúc.
14) Ở đây, nàyAnanda, những Sa-môn,
Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm, họ
chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc, sự kiện như
vậy không xảy ra. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào... (như trên)... Những Sa-môn,
Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự mình
làm, không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh, họ chắc chắn có
thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy
ra.
15) Này Ananda, một thời Ta trú ở Vương Xá,
tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
16) Rồi này Ananda, vào buổi sáng Ta đắp y,
cầm y bát đi vào Vương Xá để khất thực.
17) Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau:
"Thật là quá sớm đi vào Vương Xá để khất thực. Vậy Ta hãy đi
đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo".
18) Rồi này Ananda, Ta đi đến khu vườn
các du sĩ ngoại đạo; sau khi đến Ta nói lên với những du sĩ ngoại đạo
ấy những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi
thăm thân hữu, Ta ngồi xuống một bên.
Các du sĩ ngoại đạo ấy nói với Ta đang
ngồi một bên:
19) "-- Này Hiền giả Gotama, có một
số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình
làm. Này Hiền giả Gotama, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
về nghiệp, tuyên bố khổ do người khác làm. Này Hiền giả Gotama,
lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ
do tự mình làm và do người khác làm. Nay Hiền giả Gotama, lại có một số
Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự
mình làm và không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh.
20) Ở đây, Tôn giả Gotama thuyết như
thế nào? Chúng tôi trả lời như thế nào để đáp đúng lời Tôn
giả Gotama tuyên bố; chúng tôi không xuyên tạc Tôn giả Gotama không đúng sự
thật; pháp chúng tôi trả lời là thuận pháp và một vị đồng pháp nào
muốn cật vấn cũng không tìm được lý do để chỉ trích?"
21) Khi được nói vậy, này Ananda, Ta nói
với các du sĩ ngoại đạo ấy:
"-- Này chư Hiền, Ta đã nói khổ do
duyên mà sanh. Do duyên gì? Do duyên xúc. Nói như vậy là đáp đúng lời Ta
tuyên bố, không xuyên tạc Ta không đúng sự thật; pháp được trả lời là
thuận pháp; và một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn cũng không tìm
được lý do để chỉ trích".
22) Ở đây, chư Hiền giả, có những
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình
làm; khổ ấy chính do duyên xúc. Có những Sa-môn, Bà-la-môn nào... (như
trên)... Có những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên
bố khổ không do tự mình làm và không do người khác làm, khổ do tự nhiên
sanh; khổ ấy chính do duyên xúc.
23) Ở đây, chư Hiền giả, những
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp tuyên bố khổ do tự mình
làm; họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc, sự
kiện như vậy không xảy ra. Những Sa-môn, Bà-la-môn... (như trên)... Những
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp tuyên bố khổ không do tự
mình làm, không do người khác làm ra, khổ do tự nhiên sanh. Họ chắc chắn
có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy không
xảy ra.
24) -- Thật vi diệu thay, bạch
Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Làm sao tất cả nghĩa được nói chỉ
trong một câu. Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa này được nói rộng ra, nghĩa
này sẽ sâu thẳm và có vẻ được xem là sâu thẳm.
25) -- Vậy này Ananda, Ông hãy trình bày
nghĩa ấy ở đây.
26) -- Bạch Thế Tôn,
nếu họ hỏi
con: "Này Hiền giả Ananda, già, chết lấy gì làm nhân, lấy gì tập
khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?" Ðược hỏi vậy, bạch Thế
Tôn, con sẽ trả lời như sau: "Già, chết, thưa các Tôn giả,
lấy sanh làm nhân, lấy sanh tập khởi, lấy sanh tác sanh, lấy sanh
làm hiện
hữu". Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
27) Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con:
"Này Hiền giả Ananda, sanh lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì
tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?". Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn,
con sẽ trả lời: "Sanh, thưa các Tôn giả, lấy hữu làm nhân, lấy hữu tập
khởi, lấy hữu tác sanh, lấy hữu làm hiện hữu". Ðược hỏi vậy, bạch Thế
Tôn, con trả lời như vậy.
28) Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con:
"Này Hiền giả Ananda, hữu lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì
tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?". Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn,
con sẽ trả lời như sau: "Hữu, thưa các Tôn giả, lấy thủ làm nhân, lấy
thủ tập khởi, lấy thủ tác sanh, lấy thủ làm hiện hữu". Ðược hỏi
vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
29-31) Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi
con: "Này Hiền giả Ananda, thủ lấy gì làm nhân... ái lấy gì làm
nhân... thọ lấy gì làm nhân... (như trên)..". Bạch Thế Tôn,
nếu họ hỏi con: "Này Hiền giả Ananda, xúc lấy gì làm nhân,
lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?". Ðược
hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như sau: "Xúc, thưa các
Hiền giả, lấy sáu xứ làm nhân, lấy sáu xứ tập khởi, lấy sáu xứ tác
sanh, lấy sáu xứ làm hiện hữu. Thưa các Hiền giả, do sự ly tham, đoạn
diệt hoàn toàn các xúc xứ, xúc được đoạn diệt. Do xúc diệt,
thọ diệt; do thọ diệt, ái diệt; do ái diệt, thủ
diệt; do thủ diệt, hữu diệt; do hữu diệt, sanh diệt; do sanh
diệt, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn
diệt của toàn bộ khổ uẩn này". Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con
trả lời như vậy.
V- Bhùmija (Tạp 14.1 Phù di, Ðại 2.95b)
(S.ii,37)
1)...Trú ở Sàvatthi.
2) Rồi Tôn giả Bhùmija, vào buổi chiều,
từ chỗ độc cư Thiền tịnh đứng đậy, đi đến Tôn giả Sàriputta;
sau khi đến nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm;
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Bhùmija thưa Tôn giả Sàriputta:
3) -- Hiền giả Sàruputta, có những
Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do tự mình
làm. Hiền giả Sàruputta, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương
về nghiệp, tuyên bố khổ lạc do người khác làm. Hiền giả Sariputta,
lại có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ
lạc do tự mình làm và do người khác làm. Hiền giả Sàriputta, lại có
những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ lạc không
do tự mình làm, không do người khác làm, khổ lạc do tự nhiên sanh.
4) Ở đây, này Hiền giả Sàriputta,
Thế Tôn thuyết như thế nào, tuyên bố như thế nào? Và chúng
tôi trả lời như thế nào để đáp đúng lời Thế Tôn tuyên bố;
chúng tôi không xuyên tạc Thế Tôn không đúng sự thật; pháp chúng tôi
trả lời là thuận pháp; và một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn
không tìm được lý do để chỉ trích?
5) -- Này Hiền giả, Thế Tôn đã nói
lạc khổ do duyên mà sanh. Do duyên gì? Do duyên xúc. Nói như vậy là đáp
đúng lời Thế Tôn tuyên bố, không xuyên tạc Thế Tôn không đúng sự
thật; pháp được trả lời là thuận pháp, và một vị đồng pháp nào có
muốn cật vấn cũng không tìm được lý do để chỉ trích.
6) Ở đây, này Hiền giả, các vị
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố lạc khổ do tự
mình làm; lạc khổ ấy chính do duyên xúc. Các vị Sa-môn, Bà-la-môn nào...
(như trên)... Các Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên
bố là lạc khổ không do tự mình làm, không do người khác làm, lạc khổ do tự
nhiên sanh; lạc khổ ấy chính do duyên xúc.
7) Ở đây, này Hiền giả, các Sa-môn,
Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố lạc khổ do tự mình
làm, họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự
kiện như vậy không xảy ra. Các Sa-môn, Bà-la-môn nào...(như trên)... Các
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố lạc khổ không
do tự mình làm, không do người khác làm, lạc khổ do tự nhiên sanh, họ
chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như
vậy không xảy ra.
8) Tôn giả Ananda được nghe chuyện này
giữa Tôn giả Sàriputta với Tôn giả Bhùmija.
9) Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda đem tất
cả câu chuyện xảy ra như thế nào giữa Tôn giả Sàriputta với Tôn giả
Bhùmija bạch lên Thế Tôn.
10) -- Lành thay, lành thay! Này Ananda,
Sàriputta trả lời như vậy là trả lời một cách chơn chánh. Này Ananda, Ta nói
rằng khổ là do duyên mà sanh. Do duyên gì? Do duyên xúc. Nói như vậy là đáp
đúng lời Ta tuyên bố, không xuyên tạc Ta không đúng sự thật; pháp được
trả lời là thuận pháp và một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn cũng không có thể tìm
được lý do để chỉ trích.
11) Ở đây, này Ananda, những Sa-môn,
Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố lạc khổ do tự mình
làm, lạc khổ ấy chính do duyên xúc. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào... (như
trên)... Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố
lạc khổ không do tự mình làm, không do người khác làm, khổ lạc do tự nhiên
sanh; khổ lạc ấy chính do duyên xúc.
12) Ở đây, này Ananda, những Sa-môn,
Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố lạc khổ do tự mình
làm, họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự
kiện ấy không xảy ra. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào... (như trên)... Những
Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố lạc khổ không
do tự mình làm, không do người khác làm, lạc khổ do tự nhiên sanh, họ
chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện ấy
không xảy ra.
13) Này Ananda, chỗ nào có thân, do nhân
thân tư niệm, thời nội thân khởi lên lạc khổ. Chỗ nào có lời nói,
này Ananda, do nhân khẩu tư niệm, thời nội thân khởi lên lạc khổ. Chỗ
nào có ý, này Ananda, do nhân ý tư niệm, thời nội thân khởi lên
lạc khổ.
14) Do duyên vô minh, hoặc tự chúng ta, này
Ananda, làm các thân hành; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ. Hoặc
những người khác, này Ananda, làm các thân hành; do duyên ấy, nội thân khởi
lên lạc khổ. Hoặc với ý thức rõ ràng, này Ananda, làm các thân hành; do
duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ. Hoặc không với ý thức rõ ràng,
này Ananda, làm các thân hành; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ.
15) Hoặc tự chúng ta, này Ananda, làm các
khẩu hành; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ. Hoặc những người khác,
này Ananda, làm các khẩu hành; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ.
16) Hoặc với ý thức rõ ràng, này
Ananda... (như trên)... Hoặc không với ý thức rõ ràng, này Ananda, làm các
khẩu hành; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ.
17) Hoặc tự mình, này Ananda, làm các ý
hành; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ. Hoặc những người khác, này
Ananda, làm các ý hành; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ.
18) Hoặc với ý thức rõ ràng, này
Ananda... (như trên)... Hoặc không với ý thức rõ ràng, này Ananda làm các
ý hành; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ.
19) Này Ananda, trong sáu pháp này, đều
bị vô minh chi phối. Này Ananda, với ly tham, đoạn diệt hoàn toàn vô minh,
thân ấy không có; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ. Khẩu ấy không
có; do duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ. Ý ấy không có; do duyên ấy,
nội thân khởi lên lạc khổ. Chúng không phải là đồng ruộng, chúng không
phải là căn cứ, chúng không phải là xứ, chúng không phải là luận sự; do
duyên ấy, nội thân khởi lên lạc khổ.
VI. Upavàna (Ưu-ba-ma-na) (S.ii,41)
1). .. Trú ở Sàvatthi.
2) Rồi Tôn giả Upavàna đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Tôn giả Upavàna bạch Thế Tôn:
3) -- Bạch Thế Tôn, có những Sa-môn,
Bà-la-môn tuyên bố khổ do tự mình làm. Bạch Thế Tôn lại có những
Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố khổ do người khác làm. Bạch Thế Tôn, lại có
những Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố khổ do tự mình làm và do người khác làm.
Bạch Thế Tôn, lại có những Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố khổ không do tự
mình làm, không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh.
4) Ở đây, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
thuyết như thế nào, tuyên bố như thế nào? Và chúng con trả lời
như thế nào để đáp đúng lời Thế Tôn tuyên bố; chúng con không
xuyên tạc Thế Tôn không đúng sự thực; pháp chúng con trả lời là thuận
pháp và một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn cũng không tìm được lý
do để chỉ trích?.
5) -- Này Upavàna, Ta đã nói khổ do duyên
mà sanh. Do duyên gì? Do duyên xúc. Nói như vậy là đáp đúng lời Ta tuyên
bố, không xuyên tạc Ta không đúng sự thực; pháp được trả lời là thuận
pháp và một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn cũng không tìm được lý
do để chỉ trích.
6) Ở đây, này Upavàna, những Sa-môn,
Bà-la-môn tuyên bố khổ do tự mình làm ra; khổ ấy chính do duyên xúc. Những
Sa-môn, Bà-la-môn nào... (như trên)... Những Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố khổ
không do mình làm ra, không do người khác làm ra, khổ do tự nhiên sanh; khổ
ấy chính do duyên xúc.
7) Ở đây, này Upavàna, những Sa-môn,
Bà-la-môn tuyên bố khổ do tự mình làm, họ chắc chắn có thể tự cảm
thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra. Những
Sa-môn, Bà-la-môn... (như trên)... Những Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố khổ không
do tự mình làm, không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh. Họ chắc
chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy
không xảy ra.
VII. Duyên (S.ii,42)
1)... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên
hành, hành duyên thức... (như trên)... Như vậy là tập khởi của toàn bộ khổ
uẩn này.
3) Này các Tỷ-kheo, thế nào là già,
chết? Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng
sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác, bị già yếu, suy nhược, hủ
bại, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ đồi bại, các căn chín muồi; đây
gọi là già. Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ
loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác, bị hủy diệt, hủy
hoại, tiêu mất, tử vong, các uẩn tàn lụn, thân thể hoại diệt, vứt
bỏ; đây gọi là chết. Như vậy, đây là già, đây là chết. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là già, chết.
4) Do sanh khởi, già, chết khởi. Do sanh
diệt, già, chết diệt. Ðây là Thánh đạo tám ngành đưa đến
già, chết đoạn diệt tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
sanh?...
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hữu?...
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
thủ?...
8) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
ái?...
9) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
thọ?...
10) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
xúc?...
11) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
sáu xứ?...
12) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
danh sắc?...
13) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
thức?... (xem như trên, chương Một, phẩm Một, II. 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13)
14) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hành? Này các Tỷ-kheo, có ba hành này: thân hành, khẩu hành, ý hành.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành.
Do vô minh khởi, hành khởi. Do vô minh
diệt, hành diệt. Ðây là Thánh đạo tám ngành đưa đến sự đoạn
diệt các hành. Tức là chánh tri kiến... chánh định.
15) Này các Tỷ-kheo, do vị Thánh đệ
tử biết duyên như vậy, duyên tập khởi như vậy, duyên đoạn diệt như
vậy; biết rõ con đường đưa đến đoạn diệt như vậy, này các
Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử ấy được gọi là đạt tri kiến, đạt
kiến, đã đạt đến diệu pháp này, thấy được diệu pháp này,
đã đầy đủ hữu học trí, đã đầy đủ hữu học minh, đã nhập được
pháp lưu, là bậc Thánh minh đạt tuệ, đã đứng gõ vào cửa bất tử.
VIII. Vị Tỷ Kheo (Tạp 14.14, Lão
Tử, Ðại 2,99c) (S.ii.43)
1). .. Trú ở Sàvatthi.
2) Tại đây...
3) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo hiểu rõ già, chết, hiểu rõ già, chết tập khởi,
hiểu rõ già, chết đoạn diệt, hiểu rõ con đường đưa đến
già, chết đoạn diệt...(như trên)...
4)... Hiểu rõ sanh...
5)... Hiểu rõ hữu...
6)... Hiểu rõ thủ...
7)... Hiểu rõ ái...
8)... Hiểu rõ thọ...
9)... Hiểu rõ xúc...
10)... Hiểu rõ sáu xứ...
11)... Hiểu rõ danh sắc...
12)... Hiểu rõ thức...
13)... Hiểu rõ hành, hiểu rõ hành
tập khởi, hiểu rõ hành đoạn diệt.
14) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
già, chết? Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại
chúng sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác, bị già yếu, suy nhược,
răng rụng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ đồi bại, các căn chín muồi; đây
gọi là già. Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ
loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác, bị hủy diệt, hủy
hoại, tiêu mất, tử vong, các uẩn tàn lụn, thân thể hoại diệt, vứt
bỏ; đây gọi là chết. Như vậy đây là già, đây là chết. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là già, chết.
15) Do sanh khởi, già, chết khởi. Do sanh
diệt, già, chết diệt. Ðây là Thánh đạo tám ngành đưa đến
già, chết đoạn diệt, tức là chánh tri kiến... chánh định.
16-24) Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là sanh... (như trên)... Này các Tỷ-kheo, thế nào là hữu... Này các
Tỷ-kheo, thế nào là thủ... Này các Tỷ-kheo, thế nào là ái...
là thọ... là xúc... là sáu xứ... là danh sắc... là thức?...
25) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hành? Có ba hành này, này các Tỷ-kheo: thân hành, khẩu hành, ý hành.
Ba hành này, này các Tỷ-kheo, được gọi là hành.
Do vô minh khởi nên hành khởi. Do vô minh
diệt nên hành diệt. Ðây chính là Thánh đạo tám ngành đưa đến
hành đoạn diệt. Tức là chánh tri kiến...(như trên)...chánh định.
26) Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo
biết rõ già, chết như vậy, biết rõ già, chết tập khởi như vậy,
biết rõ già, chết đoạn diệt như vậy, biết rõ con đường đưa
đến già, chết đoạn diệt như vậy.
27-36) Do biết rõ sanh như vậy... hữu...
thủ...ái...thọ...xúc...sáu xứ...danh sắc... thức... Do biết rõ hành
như vậy, biết rõ hành tập khởi như vậy, biết rõ hành đoạn diệt
như vậy, do biết rõ con đường đưa đến hành đoạn diệt như vậy.
37) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy
được gọi là đạt tri kiến, đạt kiến, đã đi đến diệu
pháp này, thấy được diệu pháp này, đã đầy đủ hữu học trí, đã
đầy đủ hữu học minh, đã nhập được pháp lưu, là bậc Thánh minh đạt
tuệ, đã đứng gõ vào cửa bất tử.
IX. Sa Môn, Bà La Môn (Tạp 14,12-3,
Sa-môn, Bà-la-môn, Ðại 2,99b) (S.ii,42)
1)...Trú ở Sàvatthi.
2-12) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo,
những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không hiểu rõ già, chết, không hiểu
rõ già, chết tập khởi, không hiểu rõ già, chết đoạn diệt,
không hiểu rõ con đường đưa đến già, chết đoạn diệt, không hiểu rõ
sanh...(như trên)... Hữu...thủ...ái...thọ...xúc...sáu xứ...danh
sắc...thức... không hiểu rõ hành, không hiểu rõ hành tập khởi, không hiểu rõ
hành đoạn diệt, không hiểu rõ con đường đưa đến hành đoạn diệt.
13) Những Sa-môn hay Bà-la-môn ấy không
được chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, hay Bà-la-môn giữa các hàng
Bà-la-môn. Và những Tôn giả ấy cũng không có thể ngay trong đời sống
hiện tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú mục
đích Sa-môn hạnh hay mục đích Bà-la-môn hạnh.
14-24) Và này các Tỷ-kheo, những Sa-môn
hay Bà-la-môn nào hiểu rõ già, chết, hiểu rõ già, chết tập
khởi, hiểu rõ già, chết đoạn diệt, hiểu rõ con đường đưa
đến già, chết đoạn diệt, hiểu rõ sanh... hữu... thủ... ái... thọ... xúc...
sáu xứ... danh sắc... thức... hiểu rõ hành, hiểu rõ hành tập khởi, hiểu rõ
hành đoạn diệt, hiểu rõ con đường đưa đến hành đoạn diệt.
25) Những Sa-môn hay Bà-la-môn ấy được
chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, hay Bà-la-môn giữa các hàng
Bà-la-môn. Và những Tôn giả ấy ngay trong đời sống hiện tại, tự mình
chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích Sa-môn hạnh hay mục
đích Bà-la-môn hạnh.
X. Sa Môn , Bà La Môn (như trên)
(S.ii,46)
1)... Trú ở Sàvatthi.
2) Ở đây...
3) -- Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào không biết già, chết, không biết già, chết tập
khởi, không biết già, chết đoạn diệt, không biết con đường
đưa đến già, chết đoạn diệt; họ chắc chắn vượt qua già, chết và an trú; sự kiện như vậy không xảy ra.
4-12) Không biết sanh... hữu... thủ...
ái... thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc... thức...
13) Không biết hành, không biết hành
tập khởi, không biết hành đoạn diệt, không biết con đường đưa
đến hành đoạn diệt, họ chắc chắn vượt qua các hành và an trú;
sự kiện như vậy không xảy ra.
14) Và này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào biết già, chết, biết già, chết tập khởi, biết
già, chết đoạn diệt, biết con đường đưa đến già, chết
đoạn diệt; họ chắc chắn vượt qua già, chết và an trú, sự kiện
như vậy có xảy ra.
15-23) Biết sanh... hữu... thủ... ái...
thọ... xúc... sáu xứ... danh sắc... thức... biết hành, biết hành
tập khởi, biết hành đoạn diệt; biết con đường đưa đến hành đoạn diệt; họ chắc chắn vượt qua các hành
và an trú; sự kiện như vậy có xảy ra.