[35] Chương I
Tương Ưng Sáu Xứ (a)
-ooOoo-
Phần Một - Năm Mươi
Kinh Thứ Nhất
I. Phẩm Vô Thường
1.I. Vô Thường (1) Nội (S. iv.1)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana,
vườn ông Anàthapindika.
2) Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
"-- Này các Tỷ-kheo" -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
-- Mắt, này các Tỷ-kheo, là vô thường. Cái gì vô
thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật
quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
4) Tai là vô thường...
5) Mũi là vô thường...
6) Lưỡi là vô thường...
7) Thân là vô thường...
8) Ý là vô thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì
khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ
là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này
không phải tự ngã của tôi".
9) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh
đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với tai, nhàm chán đối
với mũi, nhàm chán đối với lưỡi, nhàm chán đối với thân, nhàm chán đối
với ý. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự
giải thoát, khởi lên trí biết rằng: "Ta đã giải thoát". Vị ấy
biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm
đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
2.II. Khổ (1) Nội (S.iv,1)
1-2) ...
3) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là khổ. Cái gì khổ là
vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là:
"Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không
phải tự ngã của tôi".
4-7) Tai là khổ... Mũi là khổ... Lưỡi là khổ... Thân
là khổ....
8) Ý là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã
cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải
của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi".
9) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo... "... không còn
trở lại trạng thái này nữa".
3.III. Vô Ngã (1) Nội (S.iv,2)
1-2) ...
3) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Cái gì vô
ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không
phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi".
4-7) Tai là vô ngã... Mũi là vô ngã... Lưỡi là vô
ngã... Thân là vô ngã...
8) Ý là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật
quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
9) Thấy vậy... "... không còn trở lui trạng thái
này nữa".
4.IV. Vô Thường (2) Ngoại (S.iv,2)
1-2) ...
3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô thường. Cái gì
vô thường là khổ. Cái khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật
quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
4-7) Các tiếng... Các hương... Các vị... Các xúc...
8) Các pháp là vô thường. Cái gì vô thường là khổ.
Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí
tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi,
cái này không phải tự ngã của tôi".
9) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh
đệ tử nhàm chán đối với các sắc, nhàm chán đối với các tiếng,
nhàm chán đối với các hương, nhàm chán đối với các vị, nhàm chán đối
với các xúc, nhàm chán đối với các pháp. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly
tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên trí biết rằng:
"Ta đã giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này
nữa".
5.V. Khổ (2) Ngoại (S.iv.3)
1-2) ...
3) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo, là khổ. Cái gì khổ
là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là:
"Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không
phải tự ngã của tôi".
4-7) Các tiếng... Các hương... Các vị... Các xúc...
8) Các pháp là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô
ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không
phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi".
9) Thấy vậy... "... không còn trở lui trạng thái
nầy nữa".
6.VI. Vô Ngã (2) Ngoại (S.iv.3)
1-2) ...
3) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Cái gì
vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không
phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi".
4-7) Các tiếng... Các hương... Các vị... Các
xúc....
8) Các pháp là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như
thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái
này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
9) Thấy vậy... "... không còn trở lui trạng thái
này nữa".
7.VII. Vô Thường (3) Nội (S.iv.4)
1-2) ...
3) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là vô thường, kể
cả quá khứ và vị lai, còn nói gì (mắt) hiện tại. Thấy vậy, này các
Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không tiếc nuối đối với mắt quá
khứ, không còn hoan hỷ đối với mắt tương lai, đối với mắt hiện
tại; đã thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt.
4-7) Tai là vô thường... Mũi là vô thường... Lưỡi là
vô thường... Thân là vô thường....
8) Ý là vô thường, kể cả quá khứ và vị lai, còn
nói gì đến (ý) hiện tại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða
văn Thánh đệ tử, không tiếc nuối đối với ý quá khứ, không có
hoan hỷ đối với ý tương lai, đối với ý hiện tại; đã thực
hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt.
8.VIII. Khổ (3) Nội (S.iv,4)
1-2) ...
3-7) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là khổ, kể cả quá
khứ và vị lai, còn nói gì đến (mắt) hiện tại. Thấy vậy, này các
Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử, không tiếc nuối đối với mắt
quá khứ, không hoan hỷ đối với mắt tương lai, đối với mắt hiện
tại; đã thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt...
Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
8) Ý là khổ, kể cả ý quá khứ và vị lai, còn
nói gì đến (ý) hiện tại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða
văn Thánh đệ tử không tiếc nuối đối với ý quá khứ, không có
hoan hỷ đối với ý tương lai, đối với ý hiện tại; đã thực
hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt.
9.IX. Vô Ngã (3) Nội (S.iv,4)
1-2) ...
3) -- Mắt, này các Tỷ-kheo, là vô ngã, kể cả
quá khứ và vị lai, còn nói gì đến (mắt) hiện tại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo,
vị Ða văn Thánh đệ tử không có tiếc nuối đối với mắt quá khứ, không có hoan
hỷ đối với mắt vị lai, đối với mắt hiện
tại; đã thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt.
4-7) Tai... Mũi... Lưỡi... Thân....
8) Ý là vô ngã, kể cả quá khứ và vị lai, còn nói
gì đến (ý) hiện tại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn
Thánh đệ tử không tiếc nuối đối với ý quá khứ, không hoan
hỷ đối với ý vị lai, đối với ý hiện tại; đã thực hành sự
nhàm chán, ly tham, đoạn diệt.
10.X. Vô Thường (4) Ngoại (S.iv,5)
1-2) ...
3) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo, là vô thường,
kể cả quá khứ và vị lai, còn nói gì đến (sắc) hiện tại. Thấy
vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không tiếc nuối
đối với các sắc quá khứ, không hoan hỷ đối với sắc vị lai, đối với
các sắc hiện tại; đã thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt.
4-7) Các tiếng... Các hương... Các vị... Các
xúc....
8) Các pháp, này các Tỷ-kheo, là vô thường, kể
cả (các pháp) quá khứ và vị lai, còn nói gì (các pháp) hiện tại. Thấy
vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không tiếc nuối
đối với các pháp quá khứ, không hoan hỷ đối với các pháp vị lai, đối
với các pháp hiện tại; đã thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn
diệt.
11.XI. Khổ (4) Ngoại (S.iv,5)
1-2) ...
3) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo, là khổ, kể cả
(các sắc) quá khứ và vị lai, còn nói gì (các sắc) hiện tại. Thấy vậy,
này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không tiếc nuối đối với
các sắc quá khứ, không hoan hỷ đối với các sắc tương lai, đối với
các sắc hiện tại; đã thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn diệt.
4-7) Các tiếng... Các hương... Các vị... Các
xúc....
8) Các pháp, này các Tỷ-kheo, là khổ, kể cả
(các pháp) quá khứ và vị lai, còn nói gì đến (các pháp) hiện tại.
Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không tiếc
nuối đối với các pháp quá khứ, không hoan hỷ đối với các pháp vị lai,
đối với các pháp hiện tại; đã thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn
diệt.
12.XII. Vô Ngã (4) Ngoại (S.iv,6)
1-2) ...
3) -- Các sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã, kể
cả (các sắc) quá khứ và vị lai, còn nói gì đến (các sắc) hiện tại.
Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không tiếc
nuối đối với các sắc quá khứ, không hoan hỷ đối với sắc vị lai, đối
với các sắc hiện tại; đã thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn
diệt.
4-7) Các tiếng... Các hương... Các vị... Các
xúc....
8) Các pháp, này các Tỷ-kheo, là vô ngã, kể cả
(các pháp) quá khứ và vị lai, còn nói gì đến (các pháp) hiện tại.
Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không tiếc
nuối đối với các pháp quá khứ, không hoan hỷ đối với các pháp vị lai,
đối với các pháp hiện tại; đã thực hành sự nhàm chán, ly tham, đoạn
diệt.
II. Phẩm Song Ðôi
13.I. Chánh Giác (1) (S.iv,6)
1) Sàvatthi...
2) -- Thuở trước, này các Tỷ-kheo, khi Ta chưa giác
ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau:
"Cái gì là vị ngọt, cái gì là nguy hiểm, cái gì là xuất ly của
mắt? Cái gì là vị ngọt... của tai? Cái gì là vị ngọt... của mũi?
Cái gì là vị ngọt... của lưỡi? Cái gì là vị ngọt... của thân? Cái
gì là vị ngọt, cái gì là nguy hiểm, cái gì là xuất ly của
ý?"
3-7) Này các Tỷ-kheo, về vấn đề này Ta suy
nghĩ như sau: "Do duyên với mắt, khởi lên lạc hỷ gì, đấy là vị
ngọt của mắt. Mắt vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, đấy là nguy
hiểm của mắt. Nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với mắt là
xuất ly của mắt... của tai... của mũi... của lưỡi... của thân...
8) Do duyên với ý, khởi lên lạc hỷ gì, đấy là
vị ngọt của ý. Ý vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, đấy là
nguy hiểm của ý. Nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với
ý là xuất ly của ý".
9) Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, đối với
sáu nội xứ này, Ta chưa như thật liễu tri vị ngọt là vị ngọt, nguy
hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, cho đến khi ấy, này các
Tỷ-kheo, đối với các thế giới gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên
giới, đối với quần chúng gồm có Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài
Người, Ta không xác chứng Ta đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
10) Và cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, đối
với sáu nội xứ này, Ta đã như thật liễu tri vị ngọt là vị ngọt,
nguy hiểm là nguy hiểm và xuất ly là xuất ly, thời khi ấy, đối với
các thế giới gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, đối với quần
chúng gồm có Sa-môn, Bà-la-môn chư Thiên và loài Người, Ta xác chứng Ta đã
chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
11) Và tri kiến này khởi lên nơi Ta: "Bất động
là tâm giải thoát của Ta. Ðời này là đời sống cuối cùng, nay không còn
tái sanh nữa".
14.II. Chánh Giác (2) (S.iv,8)
1) ...
2) -- Thuở trước, này các Tỷ-kheo, khi Ta chưa giác
ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau:
"Cái gì là vị ngọt, cái gì là nguy hiểm, cái gì là xuất ly của
các sắc?... của các tiếng... của các hương... của các vị... của các
xúc? Cái gì là vị ngọt, cái gì là nguy hiểm, cái gì là xuất ly của
các pháp?"
3) Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, Ta suy
nghĩ như sau: "Do duyên các sắc, khởi lên lạc hỷ gì, đấy là vị
ngọt của các sắc. Các sắc vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, đấy
là nguy hiểm của các sắc. Nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối
với các sắc, đấy là xuất ly của các sắc.
4-7) ... các tiếng... các hương... các vị... các
xúc...
8) Do duyên các pháp, khởi lên lạc hỷ gì, đấy là
vị ngọt của các pháp. Các pháp vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
đấy là nguy hiểm của các pháp. Nhiếp phục dục tham, đoạn tận dục
tham đối với các pháp, đấy là xuất ly của các pháp".
9-10) Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, đối với
sáu ngoại xứ này, Ta không như thật liễu tri vị ngọt là vị ngọt, nguy
hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời cho đến khi ấy, này
các Tỷ-kheo, đối với các thế giới gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm
thiên giới và đối với quần chúng gồm có Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và
loài Người, Ta không xác chứng Ta đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác... Ta xác chứng Ta đã chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
11) Và tri kiến này khởi lên nơi Ta: "Bất động
là tâm giải thoát của Ta. Ðời này là đời sống cuối cùng, nay không còn
tái sanh nữa".
15.III. Vị Ngọt (1) (S.iv,8)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu vị
ngọt của mắt. Có vị ngọt nào của mắt, Ta đều thực nghiệm. Vị
ngọt của mắt như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ. Này các
Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu nguy hiểm của mắt. Có nguy hiểm nào
của mắt, Ta đều thực nghiệm. Nguy hiểm của mắt như thế nào, Ta
đã khéo thấy với trí tuệ. Này các Tỷ- kheo, Ta đã sống tìm cầu
xuất ly của mắt. Có xuất ly nào của mắt, Ta đều thực nghiệm. Xuất ly
của mắt như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
3-6) Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu vị
ngọt của tai... của mũi... của lưỡi... của thân...
7) Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu vị ngọt
của ý. Có vị ngọt nào của ý, Ta đều thực nghiệm. Vị
ngọt của ý như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ. Này
các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu nguy hiểm của ý. Có nguy hiểm
nào của ý, Ta đều thực nghiệm. Nguy hiểm của ý như thế
nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm
cầu xuất ly của ý. Có xuất ly nào của ý, Ta đều thực nghiệm.
Xuất ly của ý như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
8-9) Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, đối với
sáu nội xứ này, Ta chưa như thật liễu tri vị ngọt là vị ngọt, nguy
hiểm là nguy hiểm, xuất ly là sự xuất ly...
10) Và tri kiến này khởi lên nơi Ta: "Bất động
là tâm giải thoát của Ta. Ðời này là đời sống cuối cùng, nay không còn
tái sanh nữa".
16.IV. Vị Ngọt (2) (S.iv,9)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu vị
ngọt của các sắc. Có vị ngọt nào của các sắc, Ta đều thực
nghiệm. Vị ngọt của các sắc như thế nào, Ta đã khéo thấy với
trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu nguy hiểm của các
sắc. Có nguy hiểm nào của các sắc, Ta đều thực nghiệm. Xuất ly
của các sắc như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
3-6) ...các tiếng... các hương... các vị... các
xúc...
7) Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu vị ngọt
của các pháp. Có vị ngọt nào của các pháp, Ta đều thực nghiệm.
Vị ngọt của các pháp như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
Này các Tỷ-kheo, Ta đã sống tìm cầu nguy hiểm của các pháp. Có nguy
hiểm nào của các pháp, Ta đều thực nghiệm. Xuất ly của pháp như
thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.
8-9) Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, đối với
sáu ngoại xứ này, Ta chưa như thật liễu tri vị ngọt là vị ngọt, nguy
hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly...
10) Và tri kiến này khởi lên nơi Ta: "Bất động
là tâm giải thoát của Ta. Ðời này là đời sống cuối cùng, nay không còn
tái sanh nữa".
17.V. Nếu Không Có (1) (S.iv,10)
1) ...
2) -- Nếu mắt không có vị ngọt, này các
Tỷ-kheo, chúng sanh có thể không tham luyến mắt. Và vì rằng, này
các Tỷ-kheo, mắt có vị ngọt nên chúng sanh tham luyến mắt.
3) Nếu mắt không có nguy hiểm, này các
Tỷ-kheo, thời chúng sanh có thể không nhàm chán đối với mắt. Và vì
rằng mắt có nguy hiểm nên chúng sanh nhàm chán đối với mắt.
4) Nếu mắt không có xuất ly, này các Tỷ-kheo,
thời chúng sanh không có thể xuất ly khỏi mắt. Và vì rằng mắt có xuất ly
nên chúng sanh có xuất ly khỏi mắt.
5-7) Nếu tai không có vị ngọt...
8-10) Nếu mũi không có vị ngọt...
11-13) Nếu lưỡi không có vị ngọt...
14-16) Nếu thân không có vị ngọt...
17) Nếu ý không có vị ngọt, này các
Tỷ-kheo, thời chúng sanh có thể không tham luyến đối với ý. Và
vì rằng ý có vị ngọt, này các Tỷ-kheo, nên chúng sanh có tham
luyến đối với ý.
18) Nếu ý không có nguy hiểm, này các
Tỷ-kheo, thời chúng sanh có thể không nhàm chán đối với ý. Và vì
rằng ý có nguy hiểm, này các Tỷ-kheo, nên chúng sanh có nhàm chán
đối với ý.
19) Nếu ý không có xuất ly, này các Tỷ-kheo,
thời chúng sanh không xuất ly ra khỏi ý. Và vì rằng ý có sự xuất ly,
này các Tỷ-kheo, nên chúng sanh xuất ly ra khỏi ý.
20) Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, chúng sanh
đối với sáu nội xứ này không như thật liễu tri vị ngọt là vị ngọt,
nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly; cho đến khi ấy, này các
Tỷ-kheo, các chúng sanh ấy cùng với các thế giới như Thiên giới, Ma
giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và
loài Người, đã không sống với tâm được ly chấp trước, ly hệ phược,
được giải thoát, không bị giới hạn.
21) Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, chúng sanh đối
với sáu nội xứ này đã như thật liễu tri vị ngọt là vị ngọt, nguy
hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly; cho nên, này các Tỷ-kheo,
các chúng sanh cùng với các thế giới như Thiên giới, Ma giới, Phạm
thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người,
đã sống với tâm được ly chấp trước, ly hệ phược, được giải thoát,
không bị giới hạn.
18.VI. Nếu Không Có (2) (S.iv,12)
(Như Kinh trước, chỉ thế vào sáu ngoại xứ: sắc,
tiếng, hương, vị, xúc, pháp, thay cho sáu nội xứ của Kinh trước)
19.VII. Với Ưa Thích (1) (S.iv,13)
1) ...
2) -- Ai ưa thích mắt, này các Tỷ-kheo, người ấy
ưa thích khổ. Ai ưa thích khổ, Ta nói người ấy không thoát khỏi khổ.
Ai ưa thích tai... mũi... lưỡi... thân... Ai ưa thích
ý, người ấy ưa thích khổ. Ai ưa thích khổ, Ta nói người ấy không thoát
khỏi khổ.
3) Và ai không ưa thích mắt, này các Tỷ-kheo,
người ấy không ưa thích khổ. Ai không ưa thích khổ, Ta nói người ấy thoát
khỏi khổ.
Ai không ưa thích tai... mũi... lưỡi... thân... Ai không
ưa thích ý, người ấy không ưa thích khổ. Ai không ưa thích khổ, Ta nói
người ấy thoát khỏi khổ.
20.VIII. Ưa Thích (2) (S.iv,13)
1) ...
2)-- Ai ưa thích các sắc, này các Tỷ-kheo, người
ấy ưa thích khổ. Ai ưa thích khổ, Ta nói người ấy không thoát khỏi khổ.
Ai ưa thích các tiếng... các hương... các vị...
các xúc... Ai ưa thích các pháp, người ấy ưa thích khổ. Ai ưa thích khổ, Ta
nói người ấy không thoát khỏi khổ.
3) Ai không ưa thích các sắc, này các Tỷ-kheo,
người ấy không ưa thích khổ. Ai không ưa thích khổ, Ta nói người ấy thoát
khỏi khổ.
Ai không ưa thích các tiếng... các hương... các
vị... các xúc... Ai không ưa thích các pháp, người ấy không ưa thích khổ.
Ai không ưa thích khổ, Ta nói người ấy thoát khỏi khổ.
21.IX. Sự Sanh Khởi (1) (S.iv,14)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, mắt sanh khởi, chỉ trú, xuất
sanh, xuất hiện là khổ sanh khởi, tật bệnh chỉ trú, già chết xuất
hiện.
3-6) Tai... Mũi... Lưỡi... Thân...
7) Ý sanh khởi, chỉ trú, xuất sanh, xuất hiện là
khổ sanh khởi, tật bệnh chỉ trú, già chết xuất hiện.
8) Và này các Tỷ-kheo, mắt đoạn diệt, chỉ tức,
diệt tận là khổ đoạn diệt, bệnh tật chỉ tức, già chết
diệt tận.
9-13)... Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý đoạn diệt,
chỉ tức, diệt tận là khổ đoạn diệt, bệnh tật chỉ tức, già
chết diệt tận.
22.X. Sự Sanh Khởi (2) (S.iv,14)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, các sắc sanh khởi, chỉ trú,
xuất sanh, xuất hiện là khổ sanh khởi, bệnh tật chỉ trú, già chết
xuất hiện.
3-4) Các tiếng... Các hương...
5-6) Các vị... Các xúc...
7) Các pháp sanh khởi, chỉ trú, xuất sanh, xuất hiện
là khổ sanh khởi, bệnh tật chỉ trú, già chết xuất hiện.
8) Và này các Tỷ-kheo, các sắc đoạn diệt, chỉ
tức, diệt tận là khổ đoạn diệt, bệnh tật chỉ tức, già chết
tận diệt.
9-12) Các tiếng... Các hương... Các vị... Các
xúc...
13) Các pháp đoạn diệt, chỉ tức, diệt tận là
khổ đoạn diệt, bệnh tật chỉ tức, già chết diệt tận.
III. Phẩm Tất Cả
23.I. Tất Cả (S.iv,15)
1) Sàvatthi...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về tất
cả. Hãy lắng nghe.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tất cả? Mắt
và các sắc; tai và các tiếng ; mũi và các hương; lưỡi và các vị ;
thân và các xúc; ý và các pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi
là tất cả.
4) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Sau khi từ
bỏ tất cả này, ta sẽ tuyên bố (một) tất cả khác", thời lời nói người
ấy chỉ là khoa ngôn. Và bị hỏi, người ấy không thể chứng minh gì. Và
hơn nữa, người ấy có thể rơi vào ách nạn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo,
như vậy ra ngoài giới vức (avisaya) của người ấy!
24.II. Ðoạn Tận (1) (S.iv,15)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông
về pháp đưa đến đoạn tận tất cả. Hãy lắng nghe.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp đưa
đến đoạn tận tất cả?
4-6) Mắt, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận. Các
sắc cần phải đoạn tận. Nhãn thức cần phải đoạn tận. Nhãn xúc cần phải
đoạn tận. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ
bất lạc; cảm thọ ấy cần phải đoạn tận. Tai... Mũi...
7-8) Lưỡi cần phải đoạn tận. Các vị cần phải đoạn
tận. Thiệt thức cần phải đoạn tận, thiệt xúc cần phải đoạn tận. Do
duyên thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc;
cảm thọ ấy cần phải đoạn tận.
10) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là pháp đưa đến
đoạn tận tất cả.
25.III. Ðoạn Tận (2) (S.iv,16)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông
về pháp đưa đến đoạn tận tất cả nhờ thắng tri, liễu tri
(abhinnàparinnà). Hãy lắng nghe.
3) Và thế nào, này các Tỷ-kheo, là pháp đưa
đến đoạn tận tất cả nhờ thắng tri, liễu tri?
4-6) Mắt, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận nhờ
thắng tri, liễu tri. Các sắc cần phải đoạn tận nhờ thắng tri, liễu tri. Nhãn
thức cần phải đoạn tận nhờ thắng tri, liễu tri. Nhãn xúc cần phải đoạn tận
nhờ thắng tri, liễu tri. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ,
hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy cần phải đoạn tận nhờ thắng tri, liễu
tri. Tai... Mũi...
7-8) Lưỡi cần phải đoạn tận nhờ thắng tri, liễu tri.
Các vị cần phải đoạn tận nhờ thắng tri, liễu tri. Thiệt thức cần phải
đoạn tận nhờ thắng tri, liễu tri. Thiệt xúc cần phải đoạn tận nhờ thắng
tri, liễu tri. Do duyên thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay
bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy cần phải đoạn tận nhờ thắng tri, liễu tri.
9) Ý cần phải đoạn tận nhờ thắng tri, liễu tri. Các
pháp cần phải đoạn tận nhờ thắng tri, liễu tri. Ý thức cần phải đoạn tận
nhờ thắng tri, liễu tri. Ý xúc cần phải đoạn tận nhờ thắng tri, liễu tri. Do
duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm
thọ ấy cần phải đoạn tận nhờ thắng tri, liễu tri.
10) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là pháp đưa đến
đoạn tận tất cả nhờ thắng tri, liễu tri.
26.IV. Liễu Tri (1) (Parjànàna) (S.iv,17)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, không thắng tri, không liễu
tri, không ly tham, không từ bỏ tất cả, thời không có thể đoạn tận khổ
đau.
3) Và này các Tỷ-kheo, không thắng tri, không liễu
tri, không ly tham, không từ bỏ tất cả cái gì thời không có thể đoạn
tận khổ đau?
4-6) Này các Tỷ-kheo, không thắng tri, không liễu
tri, không ly tham, không từ bỏ mắt, thời không có thể đoạn tận khổ đau.
Không thắng tri, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ các sắc, thời
không có thể đoạn tận khổ đau... nhãn thức... nhãn xúc... Do duyên nhãn
xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; không thắng tri,
không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ cảm thọ ấy, thời không có
thể đoạn tận khổ đau... tai... mũi...
7-8) ... lưỡi... thân...
9) Không thắng tri, không liễu tri, không ly tham, không
từ bỏ ý, thời không có thể đoạn tận khổ đau. Không thắng tri, không
liễu tri, không ly tham, không từ bỏ các pháp... ý thức... ý xúc... Do
duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc;
không thắng tri, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ cảm thọ ấy,
thời không có thể đoạn tận khổ đau.
10) Này các Tỷ-kheo, không thắng tri, không liễu tri,
không ly tham, không từ bỏ tất cả cái ấy, thời không có thể đoạn tận
khổ đau.
11) Này các Tỷ-kheo, thắng tri, liễu tri, ly tham, từ
bỏ tất cả, thời có thể đoạn tận khổ đau.
12) Này các Tỷ-kheo, thắng tri, liễu tri, ly tham, từ
bỏ tất cả cái gì thời có thể đoạn tận khổ đau?
13-15) Này các Tỷ-kheo, thắng tri, liễu tri, ly tham,
từ bỏ mắt, thời có thể đoạn tận khổ đau ; thắng tri, liễu tri... các
sắc... nhãn thức... nhãn xúc... có thể đoạn tận khổ đau. Do duyên nhãn
xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; thắng tri, liễu
tri, ly tham, từ bỏ cảm thọ ấy, thời có thể đoạn tận khổ đau...
tai... các tiếng... tỷ thức... tỷ xúc... Cảm thọ do duyên tỷ
xúc...
16-17)... lưỡi... các vị... thiệt thức... thiệt
xúc... cảm thọ do duyên thiệt xúc... thân... các xúc... thân thức...
thân xúc... cảm thọ do duyên thân xúc...
18) Thắng tri, liễu tri, ly tham, từ bỏ ý, thời có
thể đoạn tận khổ đau... các pháp... ý thức... ý xúc... Do duyên
ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; thắng tri,
liễu tri, ly tham, từ bỏ cảm thọ ấy, thời có thể đoạn tận khổ đau.
19) Này các Tỷ-kheo, thắng tri, liễu tri, ly tham, từ
bỏ tất cả cái ấy, thời có thể đoạn tận khổ đau.
27.V. Liễu Tri (2) (S.iv,18)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, không thắng tri, không liễu
tri, không ly tham, không từ bỏ tất cả, thời không có thể đoạn tận khổ
đau.
3) Và này các Tỷ-kheo, không thắng tri, không liễu
tri, không ly tham, không từ bỏ tất cả cái gì thời không có thể đoạn
tận khổ đau?
4-6) Chính là mắt, là các sắc, là nhãn thức, là các
pháp do nhãn thức nhận biết... tai... mũi...
7-8) Chính là lưỡi, là các vị, là thiệt thức, là
các pháp do thiệt thức nhận biết...
9) Chính là thân, là các xúc, là thân thức, là các
pháp do thân thức nhận biết...
10) Và chính là ý, là các pháp, là ý thức, là
các pháp do ý thức nhận biết...
11) Này các Tỷ-kheo, do không thắng tri, không liễu
tri, không ly tham, không từ bỏ tất cả cái ấy, nên không có thể đoạn
tận khổ đau.
12) Và này các Tỷ-kheo, do thắng tri, liễu tri, ly
tham, từ bỏ tất cả cái ấy, thời có thể đoạn tận khổ đau.
Này các Tỷ-kheo, thắng tri, liễu tri, ly tham, từ bỏ
tất cả cái gì thời có thể đoạn tận khổ đau?
13-15) Chính là mắt, chính là các sắc, chính là nhãn
thức, chính là các pháp do nhãn thức nhận biết... chính là tai... chính
là mũi...
16-17) Chính là lưỡi, chính là các vị, chính là
thiệt thức, chính là các pháp do thiệt thức nhận biết...
18) Chính là ý, chính là các pháp, chính là ý
thức, chính là các pháp do ý thức nhận biết.
19) Này các Tỷ-kheo, do thắng tri, liễu tri, ly tham,
từ bỏ tất cả cái ấy, thời có thể đoạn tận khổ đau.
28.VI. Bị Bốc Cháy (S.iv,19)
1) Một thời Thế Tôn trú ở Gàya, tại Gàyasiisa cùng
với một ngàn Tỷ-kheo.
2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
-- Tất cả, này các Tỷ-kheo, đều bị bốc cháy.
Và này các Tỷ-kheo, tất cả cái gì đều bị bốc cháy?
3-5) Mắt, này các Tỷ-kheo, bị bốc cháy. Các sắc bị
bốc cháy. Nhãn thức bị bốc cháy. Nhãn xúc bị bốc cháy. Do duyên nhãn xúc
khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị
bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa
si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não...
Tai... Mũi...
6-7) Lưỡi bị bốc cháy. Các vị bị bốc cháy. Thiệt
thức bị bốc cháy. Thiệt xúc bị bốc cháy. Do duyên thiệt xúc khởi lên
cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy.
Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói
rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não... Thân...
8) Ý bị bốc cháy. Các pháp bị bốc cháy. Ý thức bị
bốc cháy. Ý xúc bị bốc cháy. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì,
lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi
cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc cháy
bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
9) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh
đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc, nhàm chán
đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc khởi lên
cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với
cảm thọ ấy... đối với tai... đối với mũi... đối với lưỡi... đối với
thân... nhàm chán đối với ý, nhàm chán đối với các pháp, nhàm chán
đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc. Do duyên ý xúc khởi
lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với
cảm thọ ấy. Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham nên vị ấy được
giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên trí hiểu biết rằng: "Ta
đã giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui với trạng thái này
nữa".
10) Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy
hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
11) Và trong khi lời giải đáp này được nói lên, tâm
của một ngàn Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có
chấp thủ.
29.VII. Mù Lòa (S.iv,20)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Vương Xá, tại Trúc Lâm,
chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
-- Tất cả, này các Tỷ-kheo, là mù lòa. Và này các
Tỷ-kheo, cái gì mù lòa?
3-5) Mắt, này các Tỷ-kheo, là mù lòa. Các sắc là
mù lòa. Nhãn thức là mù lòa. Nhãn xúc là mù lòa. Do duyên nhãn xúc khởi
lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là mù
lòa. Mù lòa bởi cái gì? Ta nói rằng mù lòa bởi sanh, già, chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não... Tai... Mũi...
6) Lưỡi là mù lòa. Các vị là mù lòa. Thiệt thức
là mù lòa. Thiệt xúc là mù lòa. Do duyên thiệt xúc khởi lên cảm
thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy mù lòa. Mù lòa
bởi cái gì? Ta nói rằng mù lòa bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu,
não.
7) Thân là mù lòa...
8) Ý là mù lòa. Các pháp là mù lòa. Ý thức là mù
lòa. Ý xúc là mù lòa. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ
hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là mù lòa. Mù lòa bởi cái gì? Ta nói
rằng mù lòa bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
9) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh
đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc, nhàm chán
đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc khởi lên
cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán cảm thọ
ấy. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy được giải thoát. Trong sự
giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta đã được giải thoát".
Vị ấy biết rõ rằng: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những
việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
30.VIII Thích Hợp (1) (Sàruppa) (S.iv,21)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông
con đường thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường (sabbamannità).
Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường
thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường?
4-6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không
tư lường con mắt, không tư lường trên con mắt, không tư lường từ con mắt,
không tư lường: "Con mắt là của ta". Vị ấy không tư lường các
sắc, không tư lường trên các sắc, không tư lường từ các sắc, không tư
lường: "Các sắc là của ta". Vị ấy không tư lường nhãn thức, không
tư lường trên nhãn thức, không tư lường từ nhãn thức, không tư lường:
"Nhãn thức là của ta". Vị ấy không tư lường nhãn xúc, không tư
lường trên nhãn xúc, không tư lường từ nhãn xúc, không tư lường:
"Nhãn xúc là của ta". Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì,
lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy không tư lường cảm thọ ấy, không
tư lường trên cảm thọ ấy, không tư lường từ cảm thọ ấy, không tư
lường: "Cảm thọ ấy của ta".... Tai... Mũi...
7-8) ... Vị ấy không tư lường lưỡi, không tư lường
trên lưỡi, không tư lường từ lưỡi, không tư lường: "Lưỡi là của
ta". Vị ấy không tư lường các vị, không tư lường trên các vị, không
tư lường từ các vị, không tư lường: "Các vị là của ta". Vị ấy
không tư lường thiệt thức, không tư lường trên thiệt thức, không tư
lường từ thiệt thức, không tư lường: "Thiệt thức là của
ta". Vị ấy không tư lường thiệt xúc, không tư lường trên thiệt
xúc, không tư lường từ thiệt xúc, không tư lường: "Thiệt xúc
là của ta". Do duyên thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay
bất khổ bất lạc; vị ấy không tư lường cảm thọ ấy, không tư lường
trên cảm thọ ấy, không tư lường từ cảm thọ ấy, không tư lường:
"Cảm thọ ấy là của ta".
9) ... Vị ấy không tư lường ý, không tư lường
trên ý, không tư lường từ ý, không tư lường: "Ý là của
ta". Vị ấy không tư lường các pháp, không tư lường trên các pháp,
không tư lường từ các pháp, không tư lường: "Các pháp là của ta".
Vị ấy không tư lường ý thức, không tư lường trên ý thức, không tư
lường từ ý thức, không tư lường: "Ý thức là của ta". Vị ấy
không tư lường ý xúc, không tư lường trên ý xúc, không tư lường
từ ý xúc, không tư lường: "Ý xúc là của ta". Do duyên ý
xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy không tư
lường cảm thọ ấy, không tư lường trên cảm thọ ấy, không tư lường
từ cảm thọ ấy, không tư lường: "Cảm thọ ấy là của ta". Này
các Tỷ-kheo, tư lường cái gì, tư lường trên cái gì, tư lường từ cái
gì, tư lường cái gì là của ta, từ đấy cái ấy bị đổi khác. Ý tựa trên
đổi khác, bám víu vào tái sanh, thế giới ưa thích tái sanh.
10) Cho đến các uẩn, giới, xứ, này các Tỷ-kheo,
vị ấy không tư lường pháp ấy, không tư lường trên pháp ấy, không tư
lường từ pháp ấy, không tư lường: "Pháp ấy là của ta". Vị ấy
không tư lường như vậy nên không chấp thủ một vật gì ở đời. Do không
chấp thủ nên không ái luyến. Do không ái luyến nên tự mình được
hoàn toàn tịch tịnh. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này
nữa".
11) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con đường thích
hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường.
31.IX. Thích Hợp (2) (S.iv,23)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết con đường
thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường
thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường?
4-6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không
tư lường con mắt, không tư lường trên con mắt, không tư lường từ con mắt,
không tư lường: "Con mắt là của ta". Vị ấy không tư lường các
sắc... không tư lường nhãn thức... không tư lường nhãn xúc... Do duyên nhãn
xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy không tư
lường cảm thọ ấy, không tư lường: "Cảm thọ ấy là của ta".
Này các Tỷ-kheo, phàm tư lường cái gì, tư lường trên cái gì, tư
lường từ cái gì, tư lường cái gì là của ta, do vậy cái ấy đổi khác.
Thế giới thích thú hiện hữu (bhavasatto), vì thế giới dựa trên
hiện hữu, vì rằng thế giới tham đắm hiện hữu...
7-8) ... Vị ấy không tư lường lưỡi, không tư lường
trên lưỡi, không tư lường từ lưỡi, không tư lường: "Lưỡi là của
ta". Vị ấy không tư lường các vị, không tư lường thiệt thức, không
tư lường thiệt xúc. Do duyên thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc,
khổ hay bất lạc bất khổ; vị ấy không tư lường cảm thọ ấy, không tư
lường trên cảm thọ ấy, không tư lường từ cảm thọ ấy, không tư
lường: "Cảm thọ ấy là của ta". Này các Tỷ-kheo, phàm tư
lường cái gì, tư lường trên cái gì, tư lường từ cái gì, tư lường cái
gì là của ta, do vậy cái ấy đổi khác. Thế giới thích thú hiện hữu,
vì thế giới dựa trên hiện hữu, vì rằng thế giới tham đắm
hiện hữu.
9) ... Vị ấy không tư lường ý, không tư lường
trên ý, không tư lường từ ý, không tư lường: "Ý là của
ta". Vị ấy không tư lường các pháp, không tư lường ý thức, không
tư lường ý xúc. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ
hay bất lạc bất khổ; vị ấy không tư lường cảm thọ ấy, không tư lường
trên cảm thọ ấy, không tư lường từ cảm thọ ấy, không tư lường:
"Cảm thọ ấy là của ta". Này các Tỷ-kheo, phàm tư lường cái
gì, tư lường trên cái gì, tư lường từ cái gì, tư lường cái gì là của
ta, do vậy cái ấy đổi khác. Thế giới thích thú hiện hữu, vì thế
giới dựa trên hiện hữu, vì rằng thế giới tham đắm hiện hữu.
10) Này các Tỷ-kheo, xa cho đến uẩn, giới, xứ,
vị ấy không có tư lường pháp ấy, không tư lường trên pháp ấy, không tư
lường từ pháp ấy, không tư lường: "Pháp ấy là của ta". Vị ấy
không có tư lường như vậy nên không có chấp thủ một sự vật gì trong đời.
Do không chấp thủ, nên không dao động (paritassati), do không dao động, vị ấy
tự mình được tịch tịnh (parinibbàyati). Vị ấy tuệ tri (pajànati):
"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa".
11) Này các Tỷ-kheo, đây là đạo lộ thích hợp
đưa đến nhổ lên tất cả tư lường.
32.X. Thích Hợp (3) (S,iv,24)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết con đường
thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường
thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường?
4-6) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, mắt
là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có
hợp lý chăng nếu quán: "Cái này là của tôi, cái này là tôi,
cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Các sắc... Nhãn thức... Nhãn xúc là thường hay vô
thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc,
khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có
hợp lý chăng khi quán cái ấy: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi.
Cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
--... Tai... Các tiếng... Nhĩ thức... Nhĩ xúc...
... Mũi... Các hương... Tỷ thức... Tỷ xúc...
7-8) ... Thiệt... Các vị... Thiệt thức...
Thiệt xúc...
... Thân... Các xúc... Thân thức... Thân xúc...
9) Ý là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
-- Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có
hợp lý chăng khi quán cái ấy: "Cái này là của tôi, cái này là tôi,
cái này là tự ngã của tôi"?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10) -- Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh
đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối
với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm
thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm
thọ ấy... đối với tai... đối với mũi... đối với với lưỡi... đối với
thân... nhàm chán đối với ý, nhàm chán đối với các pháp, nhàm chán
đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc. Do duyên nhãn xúc khởi
lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với
cảm thọ ấy. Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham nên vị ấy giải
thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: "Ta đã giải
thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những
việc nên làm đã làm, nay không còn trở lui trạng thái này nữa".
11) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con đường thích
hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường.
IV. Phẩm Sanh Pháp
33.I. Sanh (S.iv,26)
1) Sàvatthi. Tại đấy...
2) -- Này các Tỷ-kheo, tất cả phải bị sanh. Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là tất cả phải bị sanh?
3-5) Mắt, này các Tỷ-kheo, phải bị sanh. Các sắc
phải bị sanh. Nhãn thức phải bị sanh. Nhãn xúc phải bị sanh. Do duyên nhãn
xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy
phải bị sanh... Tai... Mũi...
6-7) ... Lưỡi... Thân...
8) Ý phải bị sanh. Các pháp phải bị sanh. Ý thức phải
bị sanh. Ý xúc phải bị sanh. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì,
lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy phải bị sanh.
9) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh
đệ tử nhàm chán đối với mắt... "... không còn trở lui trạng thái
này nữa".
34.II. Bị Già (S.iv,27)
-- Tất cả, này các Tỷ-kheo, phải bị già...
35.III. Bị Bệnh (S.iv,27)
-- Tất cả, này các Tỷ-kheo, phải bị bệnh...
36.IV. Bị Chết (S.iv,27)
-- Tất cả, này các Tỷ-kheo, phải bị chết...
37.V. Bị Sầu (S.iv,27)
-- Tất cả, này các Tỷ-kheo, phải bị sầu...
38.VI. Bị Phiền Não (S.iv,27)
-- Tất cả, này các Tỷ-kheo, phải bị phiền
não...
39.VII. Bị Ðoạn Tận(khaya) (S.iv,28)
-- Tất cả, này các Tỷ-kheo, phải bị đoạn tận...
40.VIII. Bị Tiêu Diệt (Vaya) (S.iv,28)
-- Tất cả, này các Tỷ-kheo, phải bị tiêu
diệt...
41.IX. Tập Khởi (S.iv,28)
-- Tất cả, này các Tỷ-kheo, phải bị tập khởi...
42.X. Ðoạn Diệt (S.iv,28)
-- Tất cả, này các Tỷ-kheo, phải bị đoạn
diệt...
V. Phẩm Vô Thường
43.I. Vô Thường (S.iv,28)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) -- Tất cả, này các Tỷ-kheo, là vô thường...
44.II. Khổ... (S.iv,28)
45.III. Vô Ngã... (S.iv,28)
46.IV. Cần Phải Thắng Tri... (abhinneyyam) (S.iv,29)
47.V. Cần Phải Liễu Tri... (parinneyyam) (S.iv,29)
48.VI. Cần Phải Ðoạn Tận... (S.iv,29)
49. VII. Cần Phải Chứng Ngộ...
(sacchikàtabbam)(S.iv,29)
50.VIII. Cần Phải Thắng Tri, Liễu Tri... (abhinnà
parinneyyam) (S.iv,29)
51.IX. Bị Phiền Lụy... (upadduta) (S.iv,29)
52.X. Bị Áp Ðảo... (upassattha) (S.iv,29)
1) ...
2) -- Tất cả, này các Tỷ-kheo, bị áp đảo. Và này
các Tỷ-kheo, cái gì bị áp đảo?
3-5) Mắt, này các Tỷ-kheo, bị áp đảo. Các sắc bị
áp đảo. Nhãn thức bị áp đảo. Nhãn xúc bị áp đảo. Do duyên nhãn xúc khởi
lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị áp
đảo... Tai... Mũi...
5-6) Lưỡi... Thân...
7) Ý bị áp đảo. Các pháp bị áp đảo. Ý thức bị áp
đảo. Ý xúc bị áp đảo. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc,
khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị áp đảo.
8) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh
đệ tử nhàm chán đối với mắt... "... không còn trở lui trạng thái
này nữa".