[48] Chương IV
Tương Ưng Căn (a)
-ooOoo-
I. Phẩm Thanh Tịnh
1. I. Thanh Tịnh (Tạp 26,3, Ðại 2,182c)
(S.v,193)
1-2) Tại Sàvatthi... Thế Tôn thuyết:
3) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Này các
Tỷ-kheo, những pháp này là năm căn.
2. II. Dự Lưu (1) (Tạp 26,3, Ðại 2,182b) (S.v,193)
1-2) ...
3) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
4) Khi nào vị Thánh đệ tử, này các Tỷ-kheo,
như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy
hiểm, sự xuất ly của năm căn này; khi ấy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử ấy được gọi là vị Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ.
3. III. Dự Lưu (2) (S.v,193)
1-2) ...
3) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn.
4) Khi nào vị Thánh đệ tử, này các Tỷ-kheo,
như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm
và sự xuất ly của năm căn này; khi ấy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ
tử ấy được gọi là vị Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết
chắc chứng quả giác ngộ.
4. IV. A-La-Hán (1) (Tạp 26,4, Ðại 2,182b) (S.v,194)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn.
3) Khi nào vị Thánh đệ tử, này các Tỷ-kheo, sau
khi như thật rõ biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy
hiểm và sự xuất ly của năm căn này, được giải thoát không có chấp
thủ; khi ấy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử ấy được gọi là
vị A-la-hán, lậu hoặc đã được đoạn tận, Phạm hạnh đã thành, các
việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục
đích, hữu kiết sử đã được đoạn tận, chánh trí, giải thoát.
5. V. A-La-Hán (2) (S.v,194)
1) ...
2) Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào là
năm? Tín căn... tuệ căn...
3) Khi nào Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, sau khi như
thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và
sự xuất ly của năm căn này, được giải thoát không có chấp thủ; khi ấy,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị A-la-hán, các lậu
hoặc đã đoạn tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, đã
đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã được
đoạn tận, chánh trí, giải thoát.
6. VI. Sa Môn, Bà La Môn (1) (Tạp 26,9, Ðại 2,182c)
(S.v,194)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn...
3) Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các
Tỷ-kheo, không như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly năm căn này; những Sa-môn hay
Bà-la-môn ấy, này các Tỷ-kheo, không được chấp nhận là Sa-môn giữa các
hàng Sa-môn, hay không được chấp nhận là Bà-la-môn giữa các hàng
Bà-la-môn; và những bậc Tôn giả ấy, ngay trong hiện tại, cũng không tự
mình chứng ngộ với thượng trí, chứng đạt và an trú mục đích của Sa-môn
hạnh, hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.
4) Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các
Tỷ-kheo, như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly năm căn này; những vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy,
này các Tỷ-kheo, được chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, hay
được chấp nhận là Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn; và những bậc Tôn
giả ấy, ngay trong hiện tại, cũng tự mình chứng ngộ với thượng trí,
chứng đạt và an trú mục đích của Sa-môn hạnh, hay mục đích của Bà-la-môn
hạnh.
7. VII. Sa Môn, Bà La Môn (2) (S.v,195)
1-2) ...
3) -- Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các
Tỷ-kheo, không như thật rõ biết tín căn, không như thật rõ biết
tín căn tập khởi, không như thật rõ biết tín căn đoạn diệt, không
như thật rõ biết con đường đưa đến tín căn đoạn diệt... không
như thật rõ biết tấn căn... không như thật rõ biết niệm căn...
không như thật rõ biết định căn... không như thật rõ biết tuệ
căn, không như thật rõ biết tuệ căn tập khởi, không như thật rõ
biết tuệ căn đoạn diệt, không như thật rõ biết con đường
đưa đến tuệ căn đoạn diệt; những vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy,
này các Tỷ-kheo, không được chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn,
hay không được chấp nhận là Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn; và những
bậc Tôn giả ấy, ngay trong hiện tại, cũng không tự mình chứng ngộ với
thượng trí, chứng đạt và an trú mục đích của Sa-môn hạnh, hay của
Bà-la-môn hạnh.
4) Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các
Tỷ-kheo, như thật rõ biết tín căn, như thật rõ biết tín căn tập
khởi, như thật rõ biết tín căn đoạn diệt, như thật rõ biết con
đường đưa đến tín căn đoạn diệt; như thật rõ biết tấn căn...
như thật rõ biết niệm căn... như thật rõ biết định căn... như
thật rõ biết tuệ căn, như thật rõ biết tuệ căn tập khởi, như
thật rõ biết tuệ căn đoạn diệt, như thật rõ biết con đường
đưa đến tuệ căn đoạn diệt; các vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, này
các Tỷ-kheo, được chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, hay được
chấp nhận là Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn; và những bậc Tôn giả ấy,
ngay trong hiện tại, cũng tự mình chứng ngộ với thượng trí, chứng đạt
và an trú mục đích của Sa-môn hạnh, hay của Bà-la-môn hạnh.
8. VIII. Cần Phải Quán (Tạp 26,5, Ðại 2,182b)
(S.v,196)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn...
3) Và này các Tỷ-kheo, cần phải quán tín căn ở
chỗ nào? Ở đây, cần phải quán tín căn trong bốn chánh tín (Phật,
Pháp, Tăng, và Giới).
4) Và này các Tỷ-kheo, cần phải quán tấn căn ở
chỗ nào? Ở đây, cần phải quán tấn căn trong bốn chánh cần.
5) Và này các Tỷ-kheo, cần phải quán niệm căn
ở chỗ nào? Ở đây, cần phải quán niệm căn trong bốn niệm xứ.
6) Và này các Tỷ-kheo, cần phải quán định căn ở
chỗ nào? Ở đây, cần phải quán định căn trong bốn Thiền.
7) Và này các Tỷ-kheo, cần phải quán tuệ căn ở
chỗ nào? Ở đây, cần phải quán tuệ căn trong bốn Thánh đế.
8) Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm căn.
9. IX. Phân Biệt (Tạp 26,6, Ðại 2,182b
(S.v,182b) (S.v,196)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tín căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có lòng tin, đặt lòng
tin ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn". Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là tín căn.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tấn căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử sống tinh cần, tinh tấn
đoạn trừ các pháp bất thiện, làm cho đầy đủ các thiện pháp, với
nỗ lực kiên trì, tinh tấn, không có từ bỏ gánh nặng các thiện pháp
(anikkhittadhuro). Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tấn căn.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là niệm căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử chánh niệm, thành
tựu niệm tuệ, tối thắng (satinepakkena), ức niệm, tùy niệm các
việc làm từ lâu, các lời nói từ lâu. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là niệm căn.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là định căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử sau khi từ bỏ pháp sở
duyên, được định, được nhứt tâm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
định căn.
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có trí tuệ, thành
tựu trí tuệ về sự sanh diệt các pháp, trí tuệ các bậc Thánh
thể nhập (các pháp), đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ căn.
10. X. Phân Tích (Tạp 26,14, Ðại 2,183b) (S.v,197)
1) Tại Savatthi, ... Thế Tôn thuyết
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tín căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử
có lòng tin, đặt lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Bậc Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế
Tôn". Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là tín căn.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tấn căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử
sống tinh cần, tinh tấn, đoạn trừ các pháp bất thiện, làm cho đầy đủ
các thiện pháp, với nỗ lực kiên trì, tinh tấn, không có từ bỏ gánh
nặng đối với thiện pháp. Vị ấy đối với các pháp bất thiện chưa
sanh, phát khởi lòng ước muốn, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng làm
cho không sanh khởi; đối với các pháp bất thiện đã sanh, phát khởi lòng
ước muốn, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng làm cho đoạn tận; đối
với các thiện pháp chưa sanh, phát khởi lòng ước muốn, tinh cần, tinh
tấn, quyết tâm, cố gắng làm cho sanh khởi; đối với các thiện pháp
đã sanh, phát khởi lòng ước muốn, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng
làm cho an trú, không có mê ám, được tăng trưởng, quảng đại, được tu
tập, được làm cho viên mãn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tấn căn.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là niệm căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử
chánh niệm, thành tựu niệm tuệ, tối thắng, ức niệm, tùy
niệm các việc làm từ lâu, và lời nói từ lâu. Vị ấy trú, quán thân
trên thân... quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên tâm... quán
pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là niệm căn.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là định căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử,
sau khi từ bỏ pháp sở duyên, được định, được nhứt tâm. Vị ấy ly dục, ly
bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái
hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ... an trú Thiền thứ hai... an trú
Thiền thứ ba... từ bỏ lạc, từ bỏ khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm
thọ từ trước, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ không
lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là định căn.
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử
có trí tuệ, đầy đủ trí tuệ về sự sanh diệt các pháp, trí
tuệ thuộc bậc Thánh thể nhập (các pháp), đưa đến chơn chánh
đoạn tận khổ đau. Vị ấy như thật rõ biết đây là khổ, như thật rõ
biết đây là khổ tập khởi, như thật rõ biết đây là khổ đoạn
diệt, như thật rõ biết đây là con đường đưa đến khổ đoạn
diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ căn.
8) Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm căn.
II. Phẩm Có Phần
Yếu Hơn (Mudutaravaggo)
11. I. Chứng Ðược (S.v,199)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn. Thế nào là
năm? Tín căn... tuệ căn.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tín căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử
có lòng tin, đặt lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: "Ðây là Như Lai,
bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc... Phật, Thế Tôn". Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là tín căn.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tấn căn?
Này các Tỷ-kheo, khi tu tập bốn chánh cần, thâu
nhận tinh tấn; này các Tỷ-kheo, đây gọi là tấn căn.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là niệm căn?
Này các Tỷ-kheo, khi tu tập bốn niệm xứ, thâu nhận niệm; này các
Tỷ-kheo, đây gọi là niệm căn.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là định căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử,
sau khi từ bỏ pháp sở duyên, được nhứt tâm. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là định căn.
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử
có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt (các pháp), với
trí tuệ các bậc Thánh thể nhập (các pháp), đưa đến chơn chánh
đoạn tận khổ đau. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ căn.
8) Này các Tỷ-kheo, những pháp này là năm căn.
12. II. Tóm Tắt (1) (Tạp 26, 7, Ðại 2, 182c,
196c)(S.v,200)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm
căn.
3) Với sự toàn diện (samattà), này các Tỷ-kheo,
với sự viên mãn năm căn này, là bậc A-la-hán. Yếu nhẹ hơn là bậc Bất
hoàn. Yếu nhẹ hơn là bậc Nhất lai. Yếu nhẹ hơn là bậc Dự lưu.
Yếu nhẹ hơn nữa là bậc Tùy pháp hành. Yếu nhẹ hơn nữa là bậc Tùy
tín hành.
13. III. Tóm Tắt (2) (Tạp 26, 11, Ðại 2,182a)
(S.v,200)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm
căn.
3) Với sự toàn diện, này các Tỷ-kheo, với sự
viên mãn năm căn này, là bậc A-la-hán... là bậc Tùy tín hành.
4) Như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự sai biệt
về căn, có sự sai biệt về quả, có sự sai biệt về sức
mạnh, có sự sai biệt về người.
14. IV. Tóm Tắt (3) (S.v,201)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm?
Tín căn... tuệ căn. Những pháp này, này các
Tỷ-kheo, là năm căn.
3) Với sự toàn diện, này các Tỷ-kheo, với sự
viên mãn năm căn này, là bậc A-la-hán... là bậc Tùy tín hành.
4) Như vậy, này các Tỷ-kheo, ai làm viên mãn,
được quả viên mãn. Ai làm từng phần, được quả từng phần. Này các
Tỷ-kheo, Ta nói rằng năm căn không phải trống không.
15. V. Rộng Thuyết(1) (S.v,201)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm
căn.
3) Với sự đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, với sự
viên mãn năm căn này, là bậc A-la-hán. Yếu nhẹ hơn là bậc Trung gian
Bát-niết-bàn. Yếu nhẹ hơn là bậc Tổn hại Bát-niết-bàn (Upahacca
parinibhàvii). Yếu nhẹ hơn là bậc Vô hành Niết-bàn. Yếu nhẹ hơn
là bậc Hữu hành Niết-bàn. Yếu nhẹ hơn là bậc Thượng lưu, đạt
đến Sắc cứu cánh thiên. Yếu nhẹ hơn là bậc Nhất lai. Yếu nhẹ
hơn là bậc Dự lưu. Yếu nhẹ hơn là bậc Tùy pháp hành. Yếu nhẹ hơn
là bậc Tùy tín hành.
16. VI. Rộng Thuyết (2) (S.v,201)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn. Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm
căn.
3) Với sự toàn diện, này các Tỷ-kheo, với sự
viên mãn năm căn này, là bậc A-la-hán. Yếu nhẹ hơn là bậc Trung gian
Bát-niết-bàn... là bậc Tùy tín hành.
4) Như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự sai khác về
căn, sự sai khác về quả, sự sai khác về lực, sự sai khác về
người.
17. VII. Rộng Thuyết (3) (S.v,202)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm
căn.
3) Với sự toàn diện, này các Tỷ-kheo, với sự
viên mãn năm căn này, là bậc A-la-hán. Yếu nhẹ hơn là bậc Trung gian bát
Niết-bàn... Yếu nhẹ hơn là bậc Tùy tín hành.
4) Như vậy, này các Tỷ-kheo, ai làm viên mãn,
được quả viên mãn; ai làm từng phần, được quả từng phần. Này các
Tỷ-kheo, Ta nói rằng năm căn không phải trống không.
18. VIII. Thực Hành (Hướng: Patipanno) (Tạp
26.11,Ðại 2,183a) (S.v,202)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm
căn.
3) Với sự toàn diện, này các Tỷ-kheo, với sự
viên mãn năm căn này, là bậc A-la-hán. Yếu nhẹ hơn là vị đang thực
hành để chứng ngộ quả A-la-hán (A-la-hán hướng). Yếu nhẹ hơn là bậc
Bất lai. Yếu nhẹ hơn là vị đang thực hành để chứng ngộ quả Bất lai
(A-na-hàm hướng). Yếu nhẹ hơn là bậc Nhất lai. Yếu nhẹ hơn là vị
đang thực hành để chứng ngộ quả Nhất lai (Nhất lai hướng). Yếu nhẹ
hơn là bậc Dự lưu. Yếu nhẹ hơn là vị đang thực hành để chứng ngộ
quả Dự lưu (Dự lưu hướng).
4) Ðối với ai, này các Tỷ-kheo, năm căn này toàn
bộ và toàn diện không có, thời Ta nói rằng người ấy là người đứng
phía ngoài, là thuộc thành phần phàm phu.
19. IX. Tịch Tịnh (Upasanno) (S.v,202)
1) ...
2) -- Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...
Ngồi một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
3) -- "Căn đầy đủ, căn đầy đủ", bạch
Thế Tôn, được gọi là như vậy. Cho đến như thế nào, bạch
Thế Tôn, là căn đầy đủ?
4) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập
tín căn, đưa đến tịch tịnh, đưa đến giác ngộ... tu tập tuệ
căn, đưa đến tịch tịnh, đưa đến giác ngộ.
5) Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
có căn đầy đủ.
20. X. Ðoạn Tận Các Lậu Hoặc (Tạp 26.8, Ðại
2,182c) (S.v,203)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm
căn.
3) Do tu tập, do làm cho sung mãn năm căn này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự
mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát.
III. Phẩm Sáu Căn
21. I. Không Có Tái Sanh, hay Người Có Trí
(Tạp 26.9, Ðại 2,182c) (S.v,203)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn.
3) Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, Ta không
như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm
và sự xuất ly của năm căn này, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, Ta
không biết rõ ý nghĩa về sự chứng ngộ vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác đối với các thế giới như Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên
giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.
4) Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, Ta như thật
rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly của năm căn này, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, Ta mới
biết rõ ý nghĩa về sự chứng ngộ vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác đối với các thế giới, như Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới,
cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người..
22. II. Mạng (S.v,204)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có ba căn này. Thế nào
là ba? Nữ căn, nam căn, mạng căn.
3) Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba căn.
23. III. Chánh Lý (Tạp 26.1, Ðại 2,182a)
(S.v,204)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có ba căn này. Thế nào
là ba? Vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn.
3) Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba căn.
24. IV. Nhứt Thắng Trí, hay Nhứt Chủng Tử (Tạp 26.
12, Ðại 1,183) (S.v,204)
1) ...
2) -- Có năm căn này, này các Tỷ-kheo. Thế nào
là năm? Tín căn... tuệ căn. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm
căn.
3) Với sự toàn diện, này các Tỷ-kheo, với sự
viên mãn năm căn này là bậc A-la-hán. Yếu nhẹ hơn là bậc Trung gian
Bát-niết-bàn. Yếu nhẹ hơn là bậc Tổn hại Bát-niết-bàn. Yếu
nhẹ hơn là bậc Vô hành Niết-bàn. Yếu nhẹ hơn là bậc Hữu hành
Niết-bàn. Yếu nhẹ hơn là bậc Thượng lưu đạt tới Sắc cứu cánh
thiên. Yếu nhẹ hơn là bậc Nhất lai. Yếu nhẹ hơn là bậc Nhứt chủng.
Yếu nhẹ hơn là bậc gia gia (kolankolo). Yếu nhẹ hơn là bậc phải tái
sanh lại nhiều nhất là bảy lần. Yếu nhẹ hơn là bậc Tùy pháp hành.
Yếu nhẹ hơn là bậc Tùy tín hành.
25. V. Thanh Tịnh (S.v,205)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có sáu căn này. Thế nào
là sáu? Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn.
3) Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là sáu căn.
26. VI. Dòng Nước Hay Dự Lưu (S.v,205)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có sáu căn này. Thế nào
là sáu? Nhãn căn... ý căn.
3) Khi nào vị Thánh đệ tử, này các Tỷ-kheo,
như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm
và sự xuất ly khỏi sáu căn căn này; khi ấy, vị Thánh đệ tử được
gọi là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết định đạt tới
Chánh Ðẳng Giác.
27. VII. A-La-Hán (1) (S.v,205)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có sáu căn này. Thế nào
là sáu? Nhãn căn... ý căn.
3) Khi nào Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, sau khi như
thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và
sự xuất ly khỏi sáu căn này, được giải thoát, không có chấp thủ; khi ấy,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là bậc A-la-hán, các lậu
hoặc đã được đoạn tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã
làm, đã gặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử
đã được đoạn diệt, chánh trí, giải thoát.
28. VIII. A-La-Hán hay Phật (2) (S.v,205)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có sáu căn này. Thế nào
là sáu? Nhãn căn... ý căn.
3) Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, Ta chưa như
thật chứng tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly khỏi sáu căn này, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, Ta không
biết rõ ý nghĩa về sự chứng ngộ vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác đối với các thế giới, như Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới,
với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến khi
nào, này các Tỷ-kheo, Ta như thật chứng tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi sáu căn này, cho đến khi
ấy, này các Tỷ-kheo, Ta mới nhận biết rõ ý nghĩa về sự chứng
ngộ vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đối với các thế giới, như Thiên
giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên
và loài Người.
29. IX. Sa-Môn, Bà-La-Môn (1) (S.v,206)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có sáu căn này. Thế nào
là sáu? Nhãn căn... ý căn.
3) Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các
Tỷ-kheo, không như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi sáu căn này; những vị Sa-môn
hay Bà-la-môn ấy, này các Tỷ-kheo, không được chấp nhận là Sa-môn giữa
các hàng Sa-môn, hay không được chấp nhận là Bà-la-môn giữa các hàng
Bà-la-môn; và những bậc Tôn giả ấy, này các Tỷ-kheo, ngay trong hiện
tại, không tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích
của Sa-môn hạnh, hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.
4) Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các
Tỷ-kheo, như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly khỏi sáu căn này; những vị Sa-môn hay Bà-la-môn
ấy, này các Tỷ-kheo, được chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, hay
được chấp nhận là Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn; và những bậc Tôn
giả ấy, ngay trong hiện tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt
và an trú mục đích của Sa-môn hạnh, hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.
30. X. Sa-Môn, Bà-La-Môn (2) (S.v,206)
1-2) ...
3) -- Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các
Tỷ-kheo, không như thật rõ biết nhãn căn, không như thật rõ biết
nhãn căn tập khởi, không như thật rõ biết nhãn căn đoạn diệt, không
như thật rõ biết con đường đưa đến nhãn căn đoạn diệt... nhĩ
căn... tỷ căn... thiệt căn... thân căn... không như thật rõ biết
ý căn, không như thật rõ biết ý căn tập khởi, không như thật rõ
biết ý căn đoạn diệt, không như thật rõ biết con đường đưa
đến ý căn đoạn diệt; những vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, này các
Tỷ-kheo, không được chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, hay không
được chấp nhận là Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn; và những bậc Tôn
giả ấy, này các Tỷ-kheo, ngay trong hiện tại, không tự mình chứng ngộ
với thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích của Sa-môn hạnh, hay mục đích
của Bà-la-môn hạnh.
4) Nhưng những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các
Tỷ-kheo, như thật rõ biết nhãn căn, như thật rõ biết nhãn căn
tập khởi, như thật rõ biết nhãn căn đoạn diệt, như thật rõ biết
con đường đưa đến nhãn căn đoạn diệt... nhĩ căn... tỷ căn...
thiệt căn... thân căn... như thật rõ biết ý căn, như thật rõ
biết ý căn tập khởi, như thật rõ biết ý căn đoạn diệt,
như thật rõ biết con đường đưa đến ý căn đoạn diệt; những
vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, này các Tỷ-kheo, được chấp nhận là Sa-môn
giữa các hàng Sa-môn, hay được chấp nhận là Bà-la-môn giữa các hàng
Bà-la-môn; và những bậc Tôn giả ấy, này các Tỷ-kheo, ngay trong hiện
tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích của
Sa-môn hạnh, hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.
IV. Phẩm Lạc Căn
31. I. Thanh Tịnh (S.v,207)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn.
3) Những pháp này,này các Tỷ-kheo, là năm căn.
32. II. Dòng Nước (S.v,207)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Lạc căn... xả căn.
3) Khi nào vị Thánh đệ tử, này các Tỷ-kheo,
như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm
và sự xuất ly khỏi năm căn này; vị Thánh đệ tử ấy, này các
Tỷ-kheo, được gọi là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết định đạt đến Chánh Ðẳng Giác.
33. III. A-La-Hán (S.v,208)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn.
3) Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo sau khi
như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm
và sự xuất ly khỏi năm căn này, được giải thoát không có chấp thủ; khi
ấy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là bậc A-la-hán, các
lậu hoặc đã được đoạn tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm
đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết
sử đã được đoạn tận, chánh trí, giải thoát.
34. IV. Sa-Môn, Bà-La-Môn (1) (S.v,208)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Lạc căn... xả căn.
3) Vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo,
không như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy
hiểm và sự xuất ly khỏi năm căn này; những vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy,
này các Tỷ-kheo, không được chấp nhận là Sa-môn trong các hàng Sa-môn,
hay không được chấp nhận là Bà-la-môn trong các hàng Bà-la-môn; và những
bậc Tôn giả ấy, ngay trong hiện tại, không tự mình chứng ngộ với thắng
trí, chứng đạt và an trú mục đích của Sa-môn hạnh, hay mục đích của
Bà-la-môn hạnh.
4) Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các
Tỷ-kheo, như thật rõ biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly khỏi năm căn này; những vị Sa-môn hay Bà-la-môn
ấy, này các Tỷ-kheo, được chấp nhận là Sa-môn trong các hàng Sa-môn, hay
được chấp nhận là Bà-la-môn trong các hàng Bà-la-môn; và những bậc Tôn
giả ấy, ngay trong hiện tại, cũng tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng
đạt và an trú mục đích của Sa-môn hạnh, hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.
35. V. Sa-Môn, Bà-La-Môn (2) (S.v,208)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Lạc căn... xả căn.
3) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không rõ biết lạc
căn, không rõ biết lạc căn tập khởi, không rõ biết lạc căn đoạn
diệt, không rõ biết con đường đưa đến lạc căn đoạn diệt...
không rõ biết xả căn, không rõ biết xả căn tập khởi, không rõ
biết xả căn đoạn diệt, không rõ biết con đường đưa đến xả
căn đoạn diệt; những vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, này các Tỷ-kheo,
không được chấp nhận là Sa-môn trong các hàng Sa-môn, hay không được chấp
nhận là Bà-la-môn trong các hàng Bà-la-môn; và những bậc Tôn giả ấy, ngay
trong hiện tại, không tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an
trú mục đích của Sa-môn hạnh hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.
4) Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo,
rõ biết lạc căn, rõ biết lạc căn tập khởi, rõ biết lạc căn
đoạn diệt, rõ biết con đường đưa đến lạc căn đoạn diệt...
rõ biết xả căn, rõ biết xả căn tập khởi, rõ biết xả căn đoạn
diệt, rõ biết con đường đưa đến xả căn đoạn diệt; những
vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy được chấp nhận là Sa-môn trong các hàng Sa-môn,
hay được chấp nhận là Bà-la-môn trong các hàng Bà-la-môn; và những bậc Tôn
giả ấy, ngay trong hiện tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt
và an trú mục đích của Sa-môn hạnh hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.
36. VI. Phân Tích (1) (S.v,209)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Lạc căn... xả căn.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là lạc căn? Này
các Tỷ-kheo, cái gì lạc thuộc về thân, cái gì thích thú thuộc về
thân, cái gì lạc do thân xúc sanh, cái gì thích thú được cảm thọ; này
các Tỷ-kheo, đây được gọi là lạc căn.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ căn? Này
các Tỷ-kheo, cái gì khổ thuộc về thân, cái gì không thích thú thuộc
về thân, cái gì khổ do thân xúc sanh, cái gì không thích thú được cảm
thọ; này các Tỷ-kheo, đây được gọi là khổ căn.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hỷ căn
(somanassa)? Này các Tỷ-kheo, cái gì lạc thuộc về tâm, cái gì thích
thú thuộc về tâm, cái gì lạc do ý xúc sanh, cái gì thích thú được
cảm thọ; này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hỷ căn.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ưu căn? Này
các Tỷ-kheo, cái gì khổ thuộc về tâm, cái gì không thích thú thuộc
về tâm, cái gì khổ do ý xúc sanh, cái gì không thích thú được cảm
thọ; này các Tỷ-kheo, đây được gọi là ưu căn.
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là xả căn? Này
các Tỷ-kheo, cái gì không thích thú và không không thích thú thuộc
về thân hay thuộc về tâm được cảm thọ; này các Tỷ-kheo, đây
được gọi là xả căn.
8) Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm căn.
37. VII. Phân Tích (2) (S.v,209)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Lạc căn... xả căn.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là lạc căn?...
(Như số 3, kinh trước).
4-7). .. (Như số 4 đến 7 của kinh trước) ...
8) Ở đây, này các Tỷ-kheo, cái gì thuộc lạc
căn và cái gì thuộc hỷ căn, cần phải xem là lạc thọ. Ở đây,
này các Tỷ-kheo, cái gì thuộc về khổ căn, và cái gì thuộc ưu căn,
cần phải xem là khổ thọ. Ở đây, cái gì thuộc xả căn, cần phải xem
là bất khổ bất lạc thọ.
9) Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm căn.
38. VIII. Phân Tích (3) (S.v,210)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Lạc căn... xả căn.
3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là lạc căn?...
(như trên) ...
4-8) ...(như trên) ...
9) Như vậy, này các Tỷ-kheo, các căn này, trước
năm sau trở thành ba, trước ba sau trở thành năm, tùy theo pháp môn.
39. IX. Cây Quay Ra Lửa (Arani) (S.v,211)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn.
3) Này các Tỷ-kheo, do duyên xúc được cảm thọ
là lạc, khởi lên lạc căn. Khi cảm thọ là lạc, người ấy rõ biết:
"Tôi cảm giác lạc thọ". Do đoạn diệt xúc được người ấy
cảm thọ là lạc ấy, lạc căn được khởi lên do duyên với xúc thích ứng
(tajjam) được cảm thọ là lạc, người ấy rõ biết lạc căn ấy
diệt, được tịnh chỉ.
4) Này các Tỷ-kheo, do duyên xúc được cảm thọ
là khổ, khởi lên khổ căn. Khi cảm thọ là khổ, người ấy rõ biết:
"Tôi cảm giác khổ thọ". Do đoạn diệt xúc được người ấy
cảm thọ là khổ ấy, khổ căn được khởi lên do duyên với xúc thích ứng
được cảm thọ là khổ, người ấy rõ biết khổ căn ấy diệt, được
tịnh chỉ.
5) Này các Tỷ-kheo, do duyên xúc được cảm thọ
là hỷ, khởi lên hỷ căn. Khi cảm thọ là hỷ, người ấy rõ
biết: "Tôi cảm giác hỷ". Do đoạn diệt xúc được người
ấy cảm thọ là hỷ ấy, hỷ căn được khởi lên do duyên với xúc
thích ứng được cảm thọ là hỷ, người ấy rõ biết hỷ căn ấy
diệt, được tịnh chỉ.
6) Này các Tỷ-kheo, do duyên xúc được cảm thọ
là ưu, khởi lên ưu căn. Khi cảm thọ là ưu, người ấy rõ biết:
"Tôi cảm giác ưu thọ". Do đoạn diệt xúc được người ấy
cảm thọ là ưu ấy, ưu căn được khởi lên do duyên với xúc thích ứng
được cảm thọ là ưu, người ấy rõ biết ưu căn ấy diệt, được
tịnh chỉ.
7) Này các Tỷ-kheo, do duyên xúc được cảm thọ
là xả, khởi lên xả căn. Khi cảm thọ là xả, người ấy rõ biết:
"Tôi cảm giác xả thọ". Do đoạn diệt xúc được người ấy
cảm thọ là xả ấy, xả căn được khởi lên do duyên với xúc thích ứng
được cảm thọ là xả, người ấy rõ biết xả căn ấy diệt, được
tịnh chỉ.
8) Ví như, này các Tỷ-kheo, sự xúc chạm và sự
cọ xát hai thanh củi, sức nóng sanh khởi, lửa được hiện hữu. Khi hai
thanh củi ấy được tách rời, được ly khai, sức nóng thích ứng ấy được
đoạn diệt, được tịnh chỉ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên xúc
được cảm thọ là lạc, khởi lên lạc căn. Khi cảm thọ là lạc, người
ấy rõ biết: "Tôi cảm giác lạc thọ". Do đoạn diệt xúc
được người ấy cảm thọ là lạc ấy, lạc căn được khởi lên do duyên
với xúc thích ứng được cảm thọ là lạc, người ấy rõ biết lạc căn
ấy diệt, được tịnh chỉ. Do duyên xúc được cảm thọ là khổ, khởi
lên khổ căn... Do duyên xúc được cảm thọ là hỷ, khởi lên hỷ
căn... Do duyên xúc được cảm thọ là ưu, khởi lên ưu căn... Do duyên
xúc được cảm thọ là xả, khởi lên xả căn. Khi cảm thọ là xả,
người ấy rõ biết: "Tôi cảm giác xả thọ". Do đoạn diệt
xúc được người ấy cảm thọ là xả ấy, xả căn được khởi lên do duyên
với xúc thích ứng được cảm thọ là xả, người ấy rõ biết xả căn
ấy diệt, được tịnh chỉ.
40. X. Sanh (S.v,213)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, có năm căn này. Thế nào
là năm? Khổ căn, ưu căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn.
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, khởi lên khổ căn, vị ấy rõ
biết như vầy: "Khổ căn này khởi lên nơi ta". Và khổ căn ấy có
tướng, có nhân, có hành, có duyên. Và khổ căn ấy không tướng, không nhân,
không hành, không duyên sẽ khởi lên; sự kiện như vậy không xảy ra. Và
vị ấy rõ biết khổ căn, rõ biết khổ căn tập khởi, rõ biết khổ
căn đoạn diệt. Từ chỗ nào, khổ căn khởi lên được đoạn diệt
không có dư tàn, vị ấy rõ biết khổ căn ấy. Và tại chỗ nào khổ căn
khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an trú
Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Ở đây, khổ căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo biết rõ sự đoạn diệt của
khổ căn, tập trung tâm (upasamhàsi) để đạt tới điều kiện ấy.
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, khởi lên ưu căn, vị ấy rõ biết
như vầy: "Trong ta khởi lên ưu căn này". Và ưu căn ấy có tướng,
có nhân, có hành, có duyên. Và ưu căn ấy có thể khởi lên, không
tướng, không nhân, không hành, không duyên; sự kiện như vậy không xảy
ra. Và vị ấy rõ biết ưu căn, rõ biết ưu căn tập khởi, rõ biết
ưu căn đoạn diệt. Từ chỗ nào, ưu căn khởi lên, được đoạn
diệt không có dư tàn, vị ấy rõ biết ưu căn ấy. Và tại chỗ nào
ưu căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú Thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội
tĩnh, nhứt tâm. Và ở đây, ưu căn khởi lên, được đoạn diệt không có
dư tàn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo biết rõ sự đoạn
diệt của ưu căn, tập trung tâm để đạt tới điều kiện ấy.
5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, khởi lên lạc căn; vị ấy rõ
biết như vầy: "Lạc căn này khởi lên nơi ta". Lạc căn ấy có
tướng, có nhân, có hành, có duyên. Và lạc căn ấy không tướng, không nhân,
không hành, không duyên có thể khởi lên; sự kiện như vậy không xảy
ra. Và vị ấy rõ biết lạc căn, rõ biết lạc căn tập khởi, rõ biết
lạc căn đoạn diệt. Từ chỗ nào, lạc căn khởi lên, được đoạn
diệt không có dư tàn, vị ấy rõ biết lạc căn ấy. Và tại chỗ nào
lạc căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ, trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng
đạt và an trú Thiền thứ ba. Ở đây, lạc căn khởi lên, được đoạn
diệt không có dư tàn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo
biết rõ sự đoạn diệt của lạc căn, tập trung tâm để đạt tới
điều kiện ấy.
6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, khởi lên hỷ căn; vị ấy rõ
biết như sau: "Hỷ căn này khởi lên nơi ta". Và hỷ căn ấy
có tướng, có nhân, có hành, có duyên. Và hỷ căn ấy không tướng,
không nhân, không hành, không duyên có thể khởi lên; sự kiện như vậy
không xảy ra. Vị ấy rõ biết hỷ căn, rõ biết hỷ căn tập khởi,
rõ biết hỷ căn đoạn diệt. Từ chỗ nào khởi lên, hỷ căn
được đoạn diệt không có dư tàn, vị ấy rõ biết hỷ căn ấy. Và
tại chỗ nào hỷ căn khởi lên, được đoạn diệt không có dư tàn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đoạn lạc, đoạn khổ, chấm dứt
hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư,
không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Ở đây, hỷ căn khởi lên,
được đoạn diệt không có dư tàn. Này các Tỷ-kheo, đây được
gọi là Tỷ-kheo biết rõ sự đoạn diệt của hỷ căn, tập trung
tâm để đạt tới điều kiện ấy.
7) Ở đây, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, khởi lên xả căn, vị ấy rõ biết
như sau: "Xả căn này khởi lên nơi ta". Và xả căn ấy có tướng, có
nhân, có hành, có duyên. Và xả căn ấy không tướng, không nhân, không hành,
không duyên có thể khởi lên; sự kiện như vậy không xảy ra. Vị ấy rõ
biết xả căn, rõ biết xả căn tập khởi, rõ biết xả căn đoạn
diệt. Từ chỗ nào khởi lên, xả căn được đoạn diệt không có dư
tàn, vị ấy rõ biết xả căn ấy. Và tại chỗ nào xả căn khởi lên,
được đoạn diệt không có dư tàn? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo vượt qua một cách hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng
đạt và an trú Diệt thọ tưởng định. Ở đây, xả căn khởi lên,
được đoạn diệt không có dư tàn. Này các Tỷ-kheo, đây được
gọi là Tỷ-kheo biết rõ sự đoạn diệt của xả căn, tập trung
tâm để đạt tới điều kiện ấy.