[16] Chương V
Tương Ưng Kassapa
(Ca-diếp)
-ooOoo-
I. Tri Túc (S.ii,194)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Tri túc, này các Tỷ-kheo, là Kassapa này, với
bất cứ loại y nào, và tán thán hạnh tri túc với bất cứ loại y nào; không
vì y làm điều bất chánh, bất xứng. Nếu không được y, vị này không
có dao động. Và nếu được y, vị này dùng y không tham lam, không say
đắm, không phạm tội, thấy nguy hại, quán xuất ly với trí tuệ.
3) Tri túc, này các Tỷ-kheo, là Kasssapa này, với
bất cứ đồ ăn khất thực nào, tán thán hạnh tri túc với bất cứ đồ ăn khất
thực nào; không vì đồ ăn khất thực, làm điều bất chánh, bất xứng.
Nếu không được đồ ăn khất thực, vị này không có dao động. Và nếu
được đồ ăn khất thực, vị này dùng đồ ăn khất thực ấy, không tham lam,
không say đắm, không phạm tội, thấy nguy hại, quán xuất ly với trí tuệ.
4) Tri túc, này các Tỷ-kheo, là Kassapa này, với bất
cứ loại sàng tọa nào, và tán thán hạnh tri túc với bất cứ loại sàng
tọa nào; và không vì sàng tọa, làm điều bất chánh, bất xứng.
Nếu không được sàng tọa, vị này không có dao động. Và nếu
được sàng tọa, vị này dùng sàng tọa ấy, không tham lam, không say
đắm, không phạm tội, thấy nguy hại, quán xuất ly với trí tuệ.
5) Tri túc, này các Tỷ-kheo, là Kassapa này, với bất
cứ thuốc men trị bệnh nào. Và vị này tán thán hạnh tri túc với bất cứ
loại thuốc men trị bệnh nào; và không vì duyên với thuốc men trị
bệnh, làm điều bất chánh, bất xứng. Nếu không được thuốc men
trị bệnh, vị này không có dao động. Và nếu được thuốc men trị
bệnh, vị này dùng thuốc men trị bệnh ấy, không tham lam, không say
đắm, không phạm tội, thấy nguy hại, quán xuất ly với trí tuệ.
6) Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy học tập như sau:
"Chúng tôi sẽ tri túc với bất cứ loại y nào, và chúng tôi sẽ là người
tán thán hạnh tri túc với bất cứ loại y nào. Và không vì y, chúng tôi sẽ
làm điều bất chánh, bất xứng. Nếu không được y, chúng tôi sẽ không
dao động. Và nếu được y, chúng tôi sẽ dùng y ấy, không tham lam, không
say đắm, không phạm tội, thấy sự nguy hại, quán xuất ly với trí tuệ.
Chúng tôi sẽ tri túc với bất cứ loại đồ ăn khất thực nào... với bất cứ
loại sàng tọa nào... với bất cứ loại thuốc men trị bệnh nào, và
chúng tôi sẽ là người tán thán sự tri túc với bất cứ loại thuốc men trị
bệnh nào. Và không vì thuốc men trị bệnh, chúng tôi sẽ làm điều
bất chánh, bất xứng. Nếu không được thuốc men trị bệnh, chúng tôi
sẽ không dao động. Và nếu được thuốc men trị bệnh, chúng tôi sẽ
dùng thuốc men trị bệnh ấy, không tham lam, không say đắm, không phạm tội,
thấy nguy hại, quán xuất ly với trí tuệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
các ông cần phải học tập".
7) Với Kassapa, này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giáo giới các
Ông; hay với người như Kassapa. Và được giáo giới, các Ông cần phải thực
hành như vậy.
II. Không Biết Sợ (S.ii,195)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Mahà Kassapa (Ðại Ca-diếp), và
Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất) trú ở Barànasi (Ba-la-nại), chỗ Isipatana
(chư Tiên đọa xứ), tại Migadàya (Lộc Uyển).
2) Rồi Tôn giả Sàriputta vào buổi chiều, từ
Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahà Kassapa; sau khi
đến, nói lên với Tôn giả Mahà Kassapa những lời chào đón hỏi thăm; sau
khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một
bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sàriputta nói với Tôn
giả Mahà Kassapa:
4) -- Này Hiền giả Kassapa, được nói rằng không có
nhiệt tâm, không có biết sợ, không thể có giác ngộ, không thể
có Niết-bàn, không thể có chứng đạt vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách; và có nhiệt tâm, có biết sợ, có thể có giác ngộ, có
thể có Niết-bàn, có thể có chứng đạt vô thượng an ổn khỏi các
khổ ách.
5) Như thế nào, này Hiền giả, là không có
nhiệt tâm, không có biết sợ, không thể có giác ngộ, không thể
có Niết-bàn, không thể có chứng đạt vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách? Và như thế nào là có nhiệt tâm, có biết sợ, có thể có
giác ngộ, có thể có Niết-bàn, có thể có chứng đạt vô thượng an
ổn khỏi các khổ ách?
I
6) -- Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo suy
nghĩ: "Các ác bất thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng
khởi lên, chúng có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không khởi
nhiệt tâm. "Các ác bất thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng
không bị đoạn diệt, chúng có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không
khởi nhiệt tâm. "Các thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu
không khởi lên, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không khởi
nhiệt tâm. "Các thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng bị
đoạn diệt, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không khởi
nhiệt tâm.
Như vậy, này Hiền giả, là không có nhiệt tâm.
II
7) Và này Hiền giả, như thế nào là không
biết sợ?
Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo suy nghĩ:
"Các ác bất thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng khởi
lên, chúng có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không có biết
sợ. "Các ác bất thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng không bị
đoạn diệt, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không biết
sợ. "Các thiện pháp không khởi lên ta. Nếu chúng không khởi lên,
có thể đưa đến bất lợi", vị ấy không biết sợ. "Các
thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng bị đoạn diệt, có thể
đưa đến bất lợi", vị ấy không biết sợ.
Như vậy, này Hiền giả, là không biết sợ.
8) Như vậy, này Hiền giả, không có nhiệt tâm,
không có biết sợ, không thể có giác ngộ, không thể có
Niết-bàn, không thể có chứng đạt vô thượng an ổn khỏi các khổ ách.
III
9) Và này Hiền giả, thế nào là có nhiệt tâm?
Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo suy nghĩ:
"Các ác bất thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng khởi
lên, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy khởi nhiệt tâm.
"Các ác bất thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng không bị đoạn
diệt, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy khởi nhiệt tâm.
"Các thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng không khởi lên,
có thể đưa đến bất lợi", vị ấy khởi nhiệt tâm. "Các
thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng bị đoạn diệt, có thể
đưa đến bất lợi", vị ấy khởi nhiệt tâm. "Các thiện
pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng bị đoạn diệt, có thể đưa
đến bất lợi", vị ấy khởi lên nhiệt tâm.
Như vậy, này Hiền giả, là có nhiệt tâm.
IV
10) Và này Hiền giả, như thế nào là có
biết sợ?
Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo suy nghĩ:
"Các ác bất thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng khởi
lên, có thể đưa đến bất lợi", vị ấy có biết sợ. "Các
ác bất thiện pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng không bị đoạn diệt,
có thể đưa đến bất lợi", vị ấy có biết sợ. "Các
thiện pháp không khởi lên nơi ta. Nếu chúng không khởi lên, có
thể đưa đến bất lợi", vị ấy có biết sợ. "Các thiện
pháp khởi lên nơi ta. Nếu chúng bị đoạn diệt, có thể đưa
đến bất lợi", vị ấy có biết sợ.
Như vậy, này Hiền giả, là có biết sợ.
11) Như vậy, này Hiền giả, là có nhiệt tâm, có
biết sợ, có thể có giác ngộ, có thể có Niết-bàn, có thể
đưa đến chứng đạt vô thượng an ổn khỏi các khổ ách.
III. Ví Dụ Với Trăng (Tạp 41.18.
Nguyệt Dụ, Ðại 2, 199a. Nguyệt Dụ Kinh, Ðại 2, 544b, Biệt Tạp 6.5,
Ðại 2, 444a) (S.v,197)
1) ... Trú ở Sàvatthi...
2) -- Hãy giống như mặt trăng, này các Tỷ-kheo, khi
đi đến các gia đình, thân phải dè dặt, tâm phải dè dặt, luôn luôn là
người mới giữa các gia đình, chớ có đường đột xông xáo (appagabbha).
3) Ví như, này các Tỷ-kheo, một người nhìn một
cái giếng cũ, hay sườn núi dốc, hay thác nước, thân phải dè dặt, tâm
phải dè dặt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, hãy giống như mặt trăng khi đi
đến các gia đình, thân phải dè dặt, tâm phải dè dặt, luôn luôn là
người mới giữa các gia đình, không có đường đột xông xáo.
Kassapa, này các Tỷ-kheo, giống như mặt trăng, khi
đi đến các gia đình, thân dè dặt và tâm dè dặt, luôn luôn là người
mới giữa các gia đình, không có đường đột xông xáo.
4) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo? Như
thế nào một Tỷ-kheo xứng đáng đi đến các gia đình?
5) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp
lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn
làm chỗ sở y. Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nói lên ý
nghĩa của lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ
trì.
6) Rồi Thế Tôn vẫy bàn tay giữa hư không:
-- Ví như, này các Tỷ-kheo, bàn tay này giữa hư
không, không bị dính vào, không bị nắm lấy, không bị trói buộc. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, là vị Tỷ-kheo đi đến các gia đình, tâm không
bị dính vào, không bị nắm lấy, không bị trói buộc, nghĩ rằng: "Những ai
muốn được lợi, hãy được lợi! Những ai muốn công đức, hãy làm các công
đức!".
7) Như mình hoan hỷ, thỏa mãn khi mình được lợi;
hãy hoan hỷ, thỏa mãn khi người khác được lợi! Này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo như vậy xứng đáng đi đến các gia đình. Này các Tỷ-kheo,
Kassapa khi đi đến các gia đình, đối với các gia đình, tâm không bị
dính vào, không bị nắm lấy, không bị trói buộc, nghĩ rằng: "Những ai
muốn được lợi hãy được lợi! Những ai muốn công đức hãy làm các công
đức!".
8) Như mình hoan hỷ, thỏa mãn khi mình được lợi;
hãy hoan hỷ, thỏa mãn, khi người khác được lợi!
9) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy xứng đáng
đi đến các gia đình.
10) Các Ông nghĩ như thế nào, này các Tỷ-kheo?
Tỷ-kheo như thế nào, thuyết pháp không thanh tịnh? Tỷ-kheo như
thế nào, thuyết pháp được thanh tịnh?
11) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp
lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn
làm chỗ y chỉ. Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nói lên ý
nghĩa của lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ
trì.
12) -- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác
ý, Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn
nói như sau:
13) -- Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào với tâm như
thế này thuyết pháp cho các người khác: "Ôi, mong họ được
nghe pháp ta giảng. Và sau khi nghe pháp, mong họ được hoan hỷ. Ðược
hoan hỷ, mong họ làm cho ta hoan hỷ", này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo như vậy thuyết pháp không thanh tịnh.
14) -- Và này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào với tâm
như thế này thuyết pháp cho các người khác: "Pháp được Thế
Tôn khéo giảng, pháp ấy liên hệ đến hiện tại, có hiệu quả
tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người
có trí tự mình giác hiểu. Ôi, mong họ được nghe pháp ta giảng. Và
sau khi nghe pháp, mong họ được hiểu rõ pháp. Và sau khi hiểu rõ
pháp, mong họ như vậy thực hành; duyên pháp thiện pháp tánh
(dhammasudhammata) thuyết pháp cho các người khác. Duyên lòng từ bi, duyên
lòng từ mẫn, khởi lòng lân mẫn thuyết pháp cho các người khác", này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy là Tỷ-kheo thanh tịnh thuyết pháp.
15) Này các Tỷ-kheo, Kassapa với tâm như thế này
thuyết pháp cho các người khác : "Pháp được Thế Tôn khéo giảng,
pháp ấy liên hệ đến hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến
để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người có trí tự mình
giác hiểu. Ôi, mong họ được nghe pháp ta giảng. Và sau khi nghe pháp,
mong họ được hiểu rõ pháp. Và sau khi được hiểu rõ pháp, mong
họ như vậy thực hành; duyên pháp thiện pháp tánh, duyên từ bi, duyên
lòng từ mẫn, khởi lòng lân mẫn thuyết pháp cho các người khác".
16) Với Kassapa, này các Tỷ-kheo, Ta đã giáo giới
các Ông, hay với ai giống như Kassapa! Ðược giáo giới, các Ông phải như
thật thực hành.
IV. Ði Ðến Các Gia Ðình (Tạp
41.19 Thí Dụ. Ðại 2, 300a) ( Biệt Tạp 6.6, Ðại 2, 414c). (S.ii,200)
1) ... Trú tại Sàvatthi.
2) -- Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo như thế nào xứng đáng là người đi đến các gia đình?
Tỷ-kheo như thế nào không xứng đáng là người đi đến các gia
đình?
3) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp
lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo...
Thế Tôn nói như sau:
4) -- Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với tâm như
thế này đi đến các gia đình: "Mong họ hãy cho ta, chớ có
không cho. Mong họ cho ta nhiều, chớ có cho ít. Mong họ cho ta đồ
tốt, chớ có cho đồ xấu. Mong họ cho ta mau, chớ có cho chậm. Mong họ
kính trọng cho ta, chớ có không kính trọng".
5) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào với tâm như vậy
đi đến các gia đình, nếu không được cho, Tỷ-kheo ấy bực
phiền. Do nhân duyên ấy, Tỷ-kheo ấy cảm thọ khổ ưu... cho ít,
không cho nhiều... cho đồ xấu không cho đồ tốt... cho chậm, không cho mau.
Do vậy Tỷ-kheo ấy bực phiền. Do nhân duyên ấy, Tỷ-kheo ấy cảm
thọ khổ ưu... cho bất kính, không có kính trọng. Do vậy, Tỷ-kheo
ấy bực phiền. Do nhân duyên ấy, Tỷ-kheo ấy cảm thọ khổ ưu. Này
các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo như vậy không xứng đáng là người đi
đến các gia đình.
6) Và này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào với tâm như
thế này đi đến các gia đình (nghĩ rằng): "Ðối với các gia
đình người khác, làm sao có thể mong: ‘Mong họ hãy cho ta, chớ có
không cho. Mong họ cho ta nhiều, chớ có cho ít. Mong họ cho ta đồ
tốt, chớ có cho đồ xấu. Mong họ cho ta mau, chớ có cho chậm. Mong họ
kính trọng ta, chớ có không kính trọng’?".
7) Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo với tâm như
vậy, khi đi đến các gia đình không được cho, Tỷ-kheo không vì vậy
mà bị bực phiền, không do nhân duyên ấy mà cảm thọ khổ ưu. Họ
cho ít, không cho nhiều... họ cho đồ xấu, không cho đồ tốt, cho chậm,
không cho mau... cho bất kính, không phải kính trọng, Tỷ-kheo không vì
vậy mà bị bực phiền, không do nhân duyên ấy mà cảm thọ khổ ưu.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như vậy xứng đáng đi
đến các gia đình.
8) Này các Tỷ-kheo, Kassapa với tâm như vậy đi
đến các gia đình (nghĩ rằng): "Ðối với các gia đình người khác,
làm sao có thể mong: "Mong họ hãy cho ta, chớ có không cho. Mong
họ cho ta nhiều, chớ có cho ít. Mong họ cho ta đồ tốt, chớ có cho
đồ xấu. Mong họ cho ta mau, chớ có cho chậm. Mong họ kính trọng cho
ta, chớ có bất kính"?"
9) Này các Tỷ-kheo, Kassapa với tâm như vậy đi
đến các gia đình, nếu không được cho, Kassapa không vì vậy mà bị
bực phiền, không vì nhân duyên ấy mà cảm thọ khổ ưu. Họ cho ít,
không cho nhiều, Kassapa không vì vậy mà bị bực phiền, không vì nhân
duyên ấy mà cảm thọ khổ ưu. Họ cho đồ xấu, không cho đồ tốt,
Kassapa không vì vậy mà bị bực phiền, không vì nhân duyên ấy mà cảm
thọ khổ ưu. Họ cho chậm, không cho mau, Kassapa không vì vậy mà bị bực
phiền, không do nhân duyên ấy mà cảm thọ khổ ưu. Họ cho bất kính,
không cho có kính trọng, Kassapa không vì vậy mà bị bực phiền, không
do nhân duyên ấy mà cảm thọ khổ ưu.
10) Với Kassapa, này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giáo giới
các Ông hay với ai giống như Kassapa. Và được giáo giới, các Ông hãy như
vậy thọ trì.
V. Trở Về Già (Tạp 41.23, Lực Lão,
Ðại 2, 301c Tăng 41.5, Ðại 2, 746a Biệt Tạp 6.10, Ðại 2, 416b) (S.ii,202)
1) Như vầy tôi nghe.
Tại Ràjagaha, Veluvana...
2) Rồi Tôn giả Mahà Kassapa đi đến Thế Tôn; sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
3) Thế Tôn nói với Tôn giả Mahà Kassapa đang ngồi
một bên:
-- Này Kassapa, Ông đã già rồi. Ðã cũ nát là những
vải gai thô phấn tảo này của Ông đáng được quăng bỏ. Vậy này Kassapa, hãy
mang những y áo do các gia chủ cúng, thọ dụng các món ăn được mời và ở
gần bên Ta.
4) -- Bạch Thế Tôn, con là người đã lâu ngày sống
ở rừng, và tán thán hạnh ở rừng; con là người đi khất thực và tán thán
hạnh khất thực; con là người mang y phấn tảo và tán thán hạnh mang y phấn
tảo; con là người mang ba y và tán thán hạnh mang ba y; con là người thiểu
dục và tán thán hạnh thiểu dục; con là người tri túc và tán thán hạnh
tri túc; con là người sống viễn ly và tán thán hạnh viễn ly; con là người
sống không giao thiệp và tán thán hạnh không giao thiệp; con là người
tinh cần và tán thán hạnh tinh cần.
5) -- Này Kassapa, Ông thấy có lợi ích gì mà ông đã
lâu ngày sống ở rừng và tán thán hạnh sống ở rừng... đi khất thực.. mang y
phấn tảo... mang ba y... thiểu dục... tri túc... sống viễn ly... sống không
giao thiệp... tinh cần và tán thán hạnh tinh cần?
6) -- Bạch Thế Tôn, con thấy có hai lợi ích nên đã
lâu ngày con sống ở rừng và tán thán hạnh ở rừng... con đi khất thực... con
mang y phấn tảo... con mang ba y... con thiểu dục... con tri túc... con sống
viễn ly... con sống không giao thiệp... con sống tinh cần và tán thán hạnh
sống tinh cần.
7) Con thấy tự mình được hiện tại an lạc trú và
vì lòng từ mẫn đối với chúng sanh sắp đến, mong rằng các chúng sanh sắp
đến sẽ bắt chước (ditthanugatim): "Ðối với các đệ tử Phật và
tùy Phật (Buddhànubuddhasàvakà), mong họ trong một thời gian dài trở thành
những vị sống ở rừng và tán thán hạnh ở rừng... những vị đi khất thực...
những vị mang y phấn tảo... những vị mang ba y... những vị thiểu dục...
những vị tri túc... những vị viễn ly... những vị không giao thiệp... những
vị tinh cần và tán thán hạnh tinh cần... họ sẽ thực hành như vậy, và
như vậy trong một thời gian dài họ sống hạnh phúc an lạc".
8) Bạch Thế Tôn, thấy được hai lợi ích này, con
sống ở rừng và tán thán hạnh sống ở rừng... con đi khất thực và tán thán
hạnh khất thực... mang y phấn tảo... mang ba y... thiểu dục... tri túc...
viễn ly... không giao thiệp... sống tinh cần và tán thán hạnh tinh cần.
9) -- Lành thay, lành thay, Kassapa! Thật vì hạnh phúc cho
quần sanh, này Kassapa, Ông đã thực hành như vậy, vì an lạc cho quần sanh,
vì lòng từ mẫn với đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên
và loài Người.
10) Do vậy, này Kassapa, hãy mang vải gai thô, phấn tảo
đáng được quăng bỏ. Hãy sống khất thực và trú ở trong rừng!
VI. Giáo Giới (Tạp 41.30, Phụ Thắng,
Ðại 2, 300b. Tăng 31.11 Vô Trách Tụng, Ðại 2, 673b Biệt Tạp 6.7, Ðại 2,
415a). (S.ii,203).
1) ... Tại Ràjagaha, Veluvana...
2) Tôn giả Kassapa đi đến Thế Tôn...
3) Thế Tôn nói với Tôn giả Mahà Kassapa đang ngồi
một bên:
-- Này Kassapa, hãy giáo giới Tỷ-kheo! Này Kassapa,
hãy nói pháp thoại cho các Tỷ-kheo! Này Kassapa, Ta hoặc Ông phải giáo
giới các Tỷ-kheo! Ông hoặc Ta phải nói pháp thoại cho các Tỷ-kheo!
4) -- Bạch Thế Tôn, khó nói là chúng Tỷ-kheo
hiện tại. Họ ở trong tình trạng khó nói với họ. Họ không kham
nhẫn. Họ không kính trọng lời giáo giới. Bạch Thế Tôn, ở đây,
con thấy Tỷ-kheo Bhanda, đệ tử của Ananda, và Tỷ-kheo Abhinjika,
đệ tử của Anuruddha, hai vị ấy nói với nhau: "Hãy đến, này
Tỷ-kheo, ai sẽ nói nhiều hơn? Ai sẽ nói tốt đẹp hơn? Ai sẽ nói dài
hơn?".
5) Rồi Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo:
-- Hãy đến, này Tỷ-kheo! Hãy nhân danh Ta nói
với Tỷ-kheo Bhanda, đệ tử của Ananda, và Tỷ-kheo Abhinjika, đệ
tử của Anuruddha: "Bậc Ðạo Sư gọi chư Tôn giả".
6) -- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến các
Tỷ-kheo kia; sau khi đến, nói với họ:
-- Bậc Ðạo Sư gọi chư Tôn giả.
7) -- Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo kia vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đi
đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên.
8) Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo ấy đang ngồi
một bên:
-- Có thật chăng, này các Tỷ-kheo, các Ông nói với
nhau như sau: "Hãy đến, này Tỷ-kheo, ai là người sẽ nói nhiều
hơn? Ai là người sẽ nói tốt đẹp hơn? Ai là người sẽ nói dài hơn?"
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
9) -- Này các Tỷ-kheo, các Ông có biết là Ta
đã thuyết pháp như vầy: "Hãy đến, này các Tỷ-kheo, hãy cùng
nhau nói như sau: 'Hãy đến, này Tỷ-kheo, ai là người sẽ nói nhiều
hơn?. Ai là người sẽ nói tốt đẹp hơn? Ai là người sẽ nói dài hơn?'
chăng?"
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
10) -- Này các Tỷ-kheo, nếu các Ông được
biết là Ta không có giảng như vậy, thời vì sao, này các Người ngu kia, do
biết cái gì, thấy cái gì, các Ông đã xuất gia trong Pháp và Luật khéo
giảng này, các Ông lại nói với nhau: "Hãy đến, này Tỷ-kheo, ai
sẽ là người nói nhiều hơn? Ai sẽ là người nói tốt đẹp hơn? Ai sẽ là
người nói dài hơn?" như vậy ?
11) Rồi các Tỷ-kheo ấy cúi đầu đảnh lễ chân
Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, chúng con đã phạm tội, ngu đần
như vậy, si mê như vậy, bất thiện như vậy; vì rằng chúng con đã xuất
gia trong Pháp và Luật khéo nói như vậy, chúng con lại nói với nhau: "Hãy
đến, này Tỷ-kheo, ai sẽ là người nói nhiều hơn? Ai sẽ là người
nói tốt đẹp hơn? Ai sẽ là người nói dài hơn?". Bạch Thế Tôn, mong
Thế Tôn chấp nhận tội lỗi ấy của chúng con là tội lỗi, để
chúng con ngăn ngừa trong tương lai.
12) -- Thật sự, này các Tỷ-kheo, các Ông đã phạm
tội, ngu đần như vậy, si mê như vậy, bất thiện như vậy! Vì rằng các
Ông đã xuất gia trong Pháp và Luật khéo nói này, các Ông đã nói với nhau:
"Hãy đến, này Tỷ-kheo, ai sẽ là người nói nhiều hơn? Ai sẽ
là người nói tốt đẹp hơn? Ai sẽ là người nói dài hơn?". Và vì rằng,
này các Tỷ-kheo, các Ông đã thấy tội lỗi là tội lỗi, như pháp
sám hối, Ta chấp nhận tội lỗi ấy cho các Ông!
13) Này các Tỷ-kheo, như vậy luật của bậc Thánh
được tăng trưởng, khi nào có người sau khi thấy tội lỗi là tội
lỗi, như pháp sám hối để ngăn ngừa trong tương lai!
VII. Giáo Giới (Tạp 41.21 Vô Tín, Ðại
2, 300c. Biệt Tạp 6.8, Ðại 2, 415b) (S.ii,205)
1) ... Trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc
Lâm).
2) Rồi Tôn giả Mahà Kassapa đi đến Thế Tôn...
3) Thế Tôn nói với Tôn giả Mahà Kassapa đang ngồi
một bên:
-- Này Kassapa hãy giáo giới các Tỷ-kheo! Hãy
thuyết pháp thoại cho các Tỷ-kheo! Ta hay Ông hãy giáo giới các
Tỷ-kheo! Ông hay Ta hãy thuyết pháp thoại cho các Tỷ-kheo!
4) -- Bạch Thế Tôn, khó nói là chúng Tỷ-kheo
hiện tại. Họ ở trong tình trạng khó nói với họ. Họ không kham
nhẫn, họ không kính trọng lời giáo giới!
5) Bạch Thế Tôn, với ai không có lòng tin đối với
thiện pháp, không có biết thẹn đối với thiện pháp, không có
biết sợ đối với thiện pháp, không có tinh tấn đối với thiện
pháp, không có trí tuệ đối với thiện pháp; đối với người ấy, dầu
là đêm hay là ngày, chờ đợi là sự tổn giảm đối với các thiện pháp,
không phải là sự tăng trưởng!
6) Ví như mặt trăng, bạch Thế Tôn, trong thời kỳ
tối trời, dầu là đêm hay là ngày, hình sắc tổn giảm dần, hình tròn tổn
giảm dần, ánh sáng tổn giảm dần, đường quỹ đạo nó đi tổn giảm dần. Cũng
vậy, bạch Thế Tôn, đối với ai không có lòng tin đối vói thiện pháp,
không có biết thẹn đối với thiện pháp, không biết sợ đối với
thiện pháp, không có tinh tấn đối với thiện pháp, không có trí
tuệ đối với thiện pháp; với người ấy, dầu là đêm hay là ngày, chờ
đợi là sự tổn giảm đối với các thiện pháp, không phải là sự tăng
trưởng!
7) Người không có lòng tin, bạch Thế Tôn, tức có
nghĩa là tổn giảm. Người không biết thẹn, bạch Thế Tôn, tức có
nghĩa là tổn giảm. Người không biết sợ, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa
là tổn giảm. Người lười biếng, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là tổn
giảm. Người ác trí tuệ, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là tổn giảm.
Người phẫn nộ... Người sân hận, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là tổn
giảm. Nếu vị Tỷ-kheo không có giáo giới, bạch Thế Tôn, tức có
nghĩa là tổn giảm.
8) Với ai, bạch Thế Tôn, có lòng tin đối với
thiện pháp, có biết thẹn đối với thiện pháp, có biết sợ đối
với thiện pháp, có tinh tấn đối với thiện pháp, có trí tuệ đối
với thiện pháp; với vị ấy, dầu là đêm hay là ngày, chờ đợi sự tăng
trưởng đối với thiện pháp, không phải sự tổn giảm.
9) Ví như mặt trăng, bạch Thế Tôn, trong thời kỳ
sáng trời, dầu là đêm hay là ngày, hình sắc tăng trưởng dần, hình tròn
tăng trưởng dần, ánh sáng tăng trưởng dần, quỹ đạo nó đi tăng trưởng
dần. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, với ai có lòng tin đối với thiện pháp,
có biết thẹn...có biết sợ... có tinh tấn... có trí tuệ đối với
thiện pháp; với vị ấy, dầu là đêm hay là ngày, chờ đợi là sự tăng
trưởng đối với thiện pháp, không phải là tổn giảm.
10) Người có lòng tin, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa
là không tổn giảm. Người có biết thẹn, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa
là không tổn giảm. Người có biết sợ, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là
không tổn giảm. Người tinh cần, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là không tổn
giảm. Người không phẫn nộ, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là không tổn
giảm. Người không sân hận, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là không tổn
giảm. Có những Tỷ-kheo giáo giới, bạch Thế Tôn, tức có nghĩa là
không tổn giảm.
11) -- Lành thay, lành thay, này Kassapa! Với ai, này
Kassapa, không có lòng tin đối với thiện pháp... không có biết thẹn...
không có biết sợ... không có tinh tấn... không có trí tuệ đối với
thiện pháp; với người ấy, dầu là đêm hay là ngày, chờ đợi là sự tổn
giảm trong thiện pháp, không phải là tăng trưởng.
12) Ví như mặt trăng, này Kassapa, trong thời kỳ tối
trời, dầu là đêm hay là ngày, hình sắc tổn giảm dần, hình tròn tổn giảm
dần, ánh sáng tổn giảm dần, quỹ đạo nó đi tổn giảm dần. Cũng vậy, này
Kassapa, với ai không có lòng tin đối với thiện pháp, không có biết
thẹn... không có biết sợ... không có tinh tấn... không có trí tuệ
đối với thiện pháp; với người ấy, dầu là đêm hay ngày, chờ đợi là
sự tổn giảm đối với thiện pháp, không phải là sự tăng trưởng.
13) Người không có lòng tin, này Kassapa, tức có nghĩa
là tổn giảm. Người không biết thẹn... Người không biết sợ... Người
biếng nhác... Người ác trí tuệ... Người phẫn nộ... Người sân hận,
này Kassapa, tức có nghĩa là tổn giảm. Không có Tỷ-kheo giáo giới, này
Kassapa, tức có nghĩa là tổn giảm.
14) Với ai, này Kassapa, có lòng tin đối với thiện
pháp... có biết thẹn... có biết sợ... có tinh tấn.. có trí tuệ
đối với thiện pháp; với người ấy, dầu là đêm hay ngày, chờ đợi là
sự tăng trưởng đối với thiện pháp, không phải là tổn giảm.
15) Ví như mặt trăng, này Kassapa, trong thời kỳ sáng
trời, dầu là đêm hay ngày, hình sắc tăng trưởng dần, hình tròn tăng
trưởng dần, ánh sáng tăng trưởng dần, quỹ đạo nó đi tăng trưởng dần.
Cũng vậy, này Kassapa, ai có lòng tin đối với thiện pháp, có biết
thẹn... có biết sợ... có tinh tấn... có trí tuệ là sự tăng trưởng
đối với thiện pháp; với người ấy, dầu là đêm hay ngày, chờ đợi là
sự tăng trưởng đối với thiện pháp, không phải là sự tổn giảm.
16) Người có lòng tin, này Kassapa, tức có nghĩa là
không tổn giảm. Người biết thẹn... Người biết sợ... Người tinh
tấn... Người có trí tuệ... Người không phẫn nộ... Người không sân hận,
này Kassapa, tức có nghĩa là không tổn giảm. Có Tỷ-kheo giáo giới, này
Kassapa, tức có nghĩa là không tổn giảm.
VIII. Giáo Giới (Tạp 41.22, Phật Vi Căn
Bổn, Ðại 2, 301a. Biệt Tạp 6.9, Ðại 2, 415c). (S.ii,208)
1) ... Trú ở Rajagaha (Vương Xá), tại chỗ nuôi
dưỡng các con sóc.
2) Rồi Tôn giả Mahà Kassapa đi đến Thế Tôn...
3) Thế Tôn nói với Tôn giả Mahà Kassapa đang ngồi
một bên:
-- Hãy giáo giới Tỷ-kheo, này Kassapa! Hãy thuyết
pháp thoại cho các Tỷ-kheo, này Kassapa! Ta hay Ông, này Kassapa, phải giáo
giới các Tỷ-kheo! Ông hay Ta, này Kassapa, hãy thuyết pháp thoại cho các
Tỷ-kheo!
4) -- Bạch Thế Tôn, khó nói là chúng Tỷ-kheo
hiện tại. Họ ở trong tình trạng khó nói với họ. Họ không kham
nhẫn, họ không kính trọng lời giáo giới.
5) -- Này Kassapa, thuở xưa các Trưởng lão Tỷ-kheo
là những vị ở rừng như vậy và tán thán ở rừng, là những vị đi khất thực
và tán thán hạnh khất thực, là những vị mang y phấn tảo và tán thán hạnh
mang y phấn tảo, là những vị mang ba y và tán thán hạnh mang ba y, là những vị
sống thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục, là những vị sống tri túc và tán
thán hạnh tri túc, là những vị sống viễn ly và tán thán hạnh viễn ly, là những
vị sống không giao thiệp và tán thán hạnh không giao thiệp, là những vị sống tinh
cần và tán thán hạnh tinh cần.
6) Ở đây, vị Tỷ-kheo nào sống ở rừng và tán
thán hạnh ở rừng, đi khất thực và tán thán hạnh khất thực, mang y phấn tảo
và tán thán hạnh mang y phấn tảo, mang ba y và tán thán hạnh mang ba y, sống
thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục, sống tri túc và tán thánh hạnh
tri túc, sống viễn ly và tán thán hạnh sống viễn ly, sống không giao thiệp
và tán thán hạnh không giao thiệp, sống tinh cần và tán thán hạnh tinh
cần; vị Tỷ-kheo ấy được các vị Trưởng lão Tỷ-kheo mời ngồi và
nói: "Hãy đến, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tên gì? Thật là
hiền thiện, vị Tỷ-kheo này! Thật là muốn học, vị Tỷ-kheo
này! Hãy đến Tỷ-kheo, hãy ngồi chỗ ngồi này!"
7) Ở đây, này Kassapa, các tân Tỷ-kheo suy nghĩ
như sau: "Tỷ-kheo nào sống ở rừng và tán thán hạnh sống ở rừng, đi
khất thực... mang y phấn tảo... mang ba y... thiểu dục... tri túc... sống
viễn ly... sống không giao thiệp... tinh cần và tán thán hạnh tinh cần;
Tỷ-kheo ấy được các Trưởng lão Tỷ-kheo mời ngồi và nói: "Hãy
đến, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tên gì? Thật là hiền thiện,
Tỷ-kheo này! Thật là muốn học, Tỷ-kheo này! Hãy đến
Tỷ-kheo, hãy ngồi chỗ ngồi này". Các vị ấy thực hành đúng như
vậy và như vậy các vị ấy được hạnh phúc, được an lạc trong một thời gian
dài.
8) Nhưng này, này Kassapa, các Trưởng lão Tỷ-kheo
không sống ở rừng và không tán thán hạnh sống ở rừng, không đi khất thực
và không tán thán hạnh khất thực, không mang y phấn tảo và không tán thán
hạnh mang y phấn tảo, không mang ba y và không tán thán hạnh mang ba y, không
thiểu dục và không tán thán hạnh thiểu dục, không tri túc và không
tán thán hạnh tri túc, không sống viễn ly và không tán thán hạnh viễn ly,
không sống không giao thiệp và không tán thán hạnh không giao thiệp,
không tinh cần và không tán thán hạnh tinh cần.
9) Ở đây, Tỷ-kheo nào được nhiều người
biết, có danh tiếng, nhận được các loại y áo, ẩm thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh, Tỷ-kheo ấy được các vị Trưởng lão Tỷ-kheo
mời ngồi và nói: "Hãy đến Tỷ-kheo. Tỷ-kheo này tên gì? Thật
là hiền thiện, Tỷ-kheo này! Thật là muốn sống Phạm hạnh,
Tỷ-kheo này! Hãy đến, này Tỷ-kheo, hãy ngồi chỗ ngồi
này!"
10) Ở đây, này Kassapa, các tân Tỷ-kheo suy nghĩ
như sau: "Tỷ-kheo nào được nhiều người biết, có danh
tiếng, nhận được các loại y áo, ẩm thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh; Tỷ-kheo ấy được các Trưởng lão Tỷ-kheo mời ngồi và nói:
‘Hãy đến Tỷ-kheo. Tỷ-kheo này tên gì? Thật là hiền
thiện, Tỷ-kheo này! Thật là muốn sống Phạm hạnh, Tỷ-kheo này! Hãy
đến, này Tỷ-kheo, hãy ngồi chỗ ngồi này!’". Các vị ấy
thực hành đúng như vậy và như vậy các vị ấy không được hạnh phúc, bị
khổ đau trong thời gian dài.
Này Kassapa, ai nói một cách chơn chánh như sau:
"Người sống Phạm hạnh phải chịu đựng những hiểm nạn của Phạm hạnh.
Người sống Phạm hạnh phải bị bức não bởi những áp bức của Phạm hạnh".
Nói như vậy, này Kassapa, là nói một cách chơn chánh. Người sống Phạm hạnh
phải chịu đựng những hiểm nạn của Phạm hạnh. Người sống Phạm hạnh phải
bị bức não bởi những áp bức của Phạm hạnh.
IX. Thiền Và Thắng Trí (Tạp 41.21,
Lực Lão, Ðại 2, 302a) (Biệt Tạp 6.11, Ðại 2, 416c) (S.ii,210)
1) ... Trú ở Sàvatthi.
2) -- Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo,
Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng ly
dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
3) Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta diệt
tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng
diệt tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái
hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
4) Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta ly hỷ,
trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh
gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba.
Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng ly
hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các
bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền thứ
ba.
5) Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta xả lạc,
xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng đạt và an trú
Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng xả
lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng đạt và an trú
Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
6) Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta vượt lên
mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý
đối với dị tưởng. Ta nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng đạt
và an trú Không vô biên xứ.
Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng
vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng...
chứng đạt và an trú Không vô biên xứ.
7) Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta vượt lên
mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng đạt
và an trú Thức vô biên xứ.
Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng
vượt lên mọi Không vô biên xứ... chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ.
8) Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta vượt lên
mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì", chứng đạt
và an trú Vô sở hữu xứ.
Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng
vượt lên mọi Thức vô biên xứ... chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ.
9) Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta vượt lên
mọi Vô sở hữu xứ, chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng...
chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
10) Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta vượt lên
mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng đạt và an trú Diệt thọ
tưởng định.
Tùy theo mong muốn... Kassapa cũng... chứng đạt và an
trú Diệt thọ tưởng định.
11) Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta chứng
đạt các loại thần thông. Một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân
hiện ra một thân; hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách, qua
tường, qua núi như đi ngang hư không; độn thổ, trồi lên, đi ngang qua đất
liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm như trên đất liền;
ngồi kiết-già đi trên hư không như con chim; với bàn tay, chạm và rờ mặt
trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, oai thần như vậy; có thể
tự thân bay đến cõi Phạm thiên.
Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng
chứng đạt được các loại thần thông... bay đến cõi Phạm thiên.
12) Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta với thiên
nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng: chư Thiên và
loài Người, xa và gần.
Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng với
thiên nhĩ thanh tịnh... xa và gần.
13) Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, sau khi đi
sâu vào tâm của chúng sanh, của loài Người với tâm của mình, Ta có thể
biết như sau: "Tâm có tham biết là tâm có tham, tâm không tham
biết là tâm không tham, tâm có sân biết là tâm có sân, tâm không
sân biết là tâm không sân, tâm có si biết là tâm có si, tâm không si
biết là tâm không si, tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú, tâm
không chuyên chú biết là tâm không chuyên chú, đại hành tâm biết là
đại hành tâm, không phải đại hành tâm biết là không phải đại hành
tâm, tâm chưa vô thượng biết là tâm chưa vô thượng, tâm vô thượng
biết là tâm vô thượng, tâm Thiền định biết là tâm Thiền
định, tâm không Thiền định biết là tâm không Thiền định, tâm
giải thoát biết là tâm giải thoát, tâm không giải thoát biết là tâm
không giải thoát".
Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, sau khi đi sâu
vào tâm của chúng sanh, của loài Người; với tâm của mình, Kassapa cũng
được biết như sau: "Tâm có tham biết là tâm có tham... tâm không
giải thoát biết là tâm không giải thoát".
14) Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta nhớ
đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời,
năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm
mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời;
nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại thành
kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng
họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế
này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ
kia, Ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như
thế này, dòng họ như thế này, tuổi thọ đến mức như
thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, Ta được sanh ra ở đây".
Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại
cương và các chi tiết.
Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng nhớ
đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời... và các chi
tiết.
15) Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta với thiên
nhãn thanh tịnh siêu nhân, thấy các chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh,
người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn,
kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh ấy làm
những ác hạnh về thân, lời, ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà
kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân
hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn
những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý,
không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo
chánh kiến; những người này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên
các thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như vậy, với thiên nhãn thuần
tịnh, siêu nhân, Ta thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta biết rõ chúng
sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may
mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.
Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng với
thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết các chúng sanh...
đều do hạnh nghiệp của họ.
16) Và Ta, này các Tỷ-kheo, với sự đoạn tận các
lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, Ta chứng ngộ vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chứng đạt và an trú.
Này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng với sự đoạn tận các
lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chứng đạt và an trú.
X. Trú Xứ (Tạp 41.25, Thử Thời, Ðại
2. 302b. Biệt Tạp 6.12, Ðại 2, 417a) (S.ii,214)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Kassapa trú ở Sàvatthi (Xá-vệ),
Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
I
2) Rồi Tôn giả Ananda, vào buổi sáng, đắp y, cầm y
bát, đi đến Tôn giả Mahà Kassapa.
3) Tôn giả Ananda thưa với Tôn giả Mahà Kassapa:
-- Thưa Tôn giả, chúng ta hãy đi đến trú xứ của
các Tỷ-kheo-ni.
-- Hãy đi, này Hiền giả Ananda. Hiền giả là
người có nhiều công việc, có nhiều trách nhiệm phải làm.
4) Lần thứ hai, Tôn giả Ananda thưa với Tôn giả Mahà
Kassapa:
-- Hãy đi, thưa Tôn giả, chúng ta đi đến trú xứ
của các Tỷ-kheo-ni.
-- Hãy đi, này Hiền giả Ananda. Hiền giả là
người có nhiều công việc, có nhiều trách nhiệm phải làm.
5) Lần thứ ba, Tôn giả Ananda thưa với Tôn giả Mahà
Kassapa:
-- Hãy đi, thưa Tôn giả, chúng ta hãy đi đến trú
xứ của các Tỷ-kheo-ni.
6) Rồi Tôn giả Mahà Kassapa, vào buổi sáng, đắp y, cầm
y bát cùng với Tôn giả Ananda, là Sa-môn tùy tùng, đi đến một trú xứ
của Tỷ-kheo-ni, sau khi đi đến, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
II
7) Rồi nhiều Tỷ-kheo-ni đi đến Tôn giả Mahà
Kassapa; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Mahà Kassapa, rồi ngồi xuống một
bên.
8) Tôn giả Mahà Kassapa với pháp thoại giảng cho các vị
Tỷ-kheo-ni đang ngồi một bên ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho
hoan hỷ.
9) Rồi Tôn giả Mahà Kassapa, sau khi với pháp thoại
giảng cho các Tỷ-kheo-ni ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan
hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi.
10) Rồi Tỷ-kheo-ni Thullatissà không hoan hỷ, nói
lên những lời không hoan hỷ: "Làm sao Tôn giả Mahà Kassapa trước mặt
Vedehamuni Ananda, lại nghĩ đến thuyết pháp; ví như một người bán kim
lại nghĩ, có thể bán kim cho người làm kim? Cũng vậy, Tôn giả Mahà
Kassapa, trước mặt Vedehamuni Ananda lại nghĩ đến thuyết pháp".
11) Tôn giả Mahà Kassapa nghe được lời nói này của
Tỷ-kheo-ni Thullatissà.
III
12) Rồi Tôn giả Mahà Kassapa nói với Tôn giả Ananda:
-- Thế nào, Hiền giả Ananda, ta là người bán
kim, Hiền giả là người làm kim, hay ta là người làm kim, Hiền giả là
người bán kim?
-- Hãy kham nhẫn, thưa Tôn giả Kassapa, ngu si là đàn
bà!
13) -- Hãy đến, Hiền giả Ananda, chớ để cho
chúng Tăng truy cứu thêm về Hiền giả. Hiền giả Ananda, Hiền giả
nghĩ thế nào?
14) Có phải trước mặt Thế Tôn, và giữa chúng
Tăng, Hiền giả được Thế Tôn đề cập như sau: "Tùy theo mong
muốn, này các Tỷ-kheo, Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an
trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có
tứ. Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ananda cũng ly dục, ly bất
thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái
hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ"?
-- Thưa Tôn giả, không phải vậy.
15) -- Này Hiền giả, có phải trước mặt Thế Tôn
và giữa chúng Tỷ-kheo Tăng, ta được Thế Tôn đề cập như sau:
"Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta ly dục, ly bất thiện pháp,
chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm, có tứ. Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng ly
dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ"?
16-29) (Chín thứ đệ định và năm trí giống như
trên.)
30) Hiền giả nghĩ thế nào? Này Hiền giả, có
phải, này Ananda, trước mặt Thế Tôn và giữa chúng Tỷ-kheo Tăng,
Hiền giả được Thế Tôn đề cập như sau: "Và Ta, này các
Tỷ-kheo, với sự đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình
với thắng trí, Ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, Ananda cũng vậy, với sự đoạn tận
các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng
đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát"?
-- Thưa Tôn giả, không phải vậy.
31) -- Chính ta, này Hiền giả, trước mặt Thế
Tôn và giữa chúng Tỷ-kheo, được Thế Tôn đề cập như sau:
"Này các Tỷ-kheo, với sự đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện
tại tự mình với thắng trí, Ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm
giải thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng vậy, với sự
đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng
ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát".
32) Này Hiền giả, ai nghĩ rằng có thể che đậy
sáu thắng trí của ta được, thời không khác gì họ nghĩ rằng có thể
lấy một lá cây ta-la mà che đậy một con voi lớn đến bảy hay tám
khuỷu tay rưởi bề cao.
IV
33) Nhưng Tỷ-kheo-ni Thullatissà đã từ bỏ đời sống
Phạm hạnh.
XI. Y Áo (Tạp 41.26, Chúng Giảm
Thiểu, Ðại 2, 302c Biệt Tạp 6,13, Ðại 2, 417c) (S.ii,217)
1) Một thời Tôn giả Mahà Kassapa trú ở Ràjagaha (Vương
Xá), Veluvana (Trúc Lâm) tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
I
2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Ananda đang đi du hành ở
Dakhinàgiri (Nam Sơn), cùng với đại chúng Tỷ-kheo.
3) Lúc bấy giờ có khoảng ba mươi Tỷ-kheo đệ
tử của Tôn giả Ananda, phần lớn còn trẻ tuổi, từ bỏ sự tu học và hoàn
tục.
II
4) Rồi Tôn giả Ananda, sau khi du hành ở Nam Sơn, tùy
theo ý muốn, rồi đi đến Vương Xá, Trúc Lâm, tại chỗ nuôi dưỡng
các con sóc, đi đến Tôn giả Mahà Kassapa, sau khi đến, đảnh lễ Tôn
giả Mahà Kassapa rồi ngồi xuống một bên.
5) Tôn giả Mahà Kassapa nói với Tôn giả Ananda đang
ngồi xuống một bên:
-- Duyên bao nhiêu lợi ích, này Hiền giả Ananda,
Thế Tôn chế định điều luật "Chỉ ba người ăn" đối với
các gia chủ?
6) -- Duyên ba lợi ích, thưa Tôn giả Kassapa, nên
Thế Tôn chế định điều luật "Chỉ ba người ăn" đối với
các gia chủ, để ngăn chận các người ác giới, vì sự lạc trú của các
Tỷ-kheo chánh hạnh, chớ để cho ai dựa vào những ác đảng phá hoại
chúng Tăng, và vì lòng từ mẫn đối với các gia đình. Thưa Tôn giả Kassapa,
do duyên ba lợi ích này nên Thế Tôn chế định điều luật "Chỉ
ba người ăn" đối với các gia chủ.
7) -- Vậy thời vì sao, này Hiền giả Ananda, Hiền
giả lại cùng du hành với những tân Tỷ-kheo này, những người không hộ
trì các căn, không tiết độ trong ăn uống, không chú tâm tỉnh giác? Ta
nghĩ Hiền giả hành động thật là kẻ dẫm đạp ngũ cốc! Ta nghĩ Hiền
giả hành động thật là kẻ phá hoại lương gia! Hội chúng của Hiền giả,
này Hiền giả Ananda, đang sụp đổ. Ðồ chúng niên thiếu của Hiền
giả, này Hiền giả, đang tan rã! Ðứa trẻ này không biết lượng sức
mình!
8) -- Thưa Tôn giả Kassapa, trên đầu tôi, tóc bạc đã
sanh, tuy vậy, hôm nay Tôn giả Mahà Kassapa gọi tôi là đứa trẻ, tôi không
có phật lòng.
9) -- Thật vậy, này Hiền giả Ananda, Hiền giả du
hành với những tân Tỷ-kheo này, những người không hộ trì các căn, không
tiết độ trong ăn uống, không chú tâm tỉnh giác. Ta nghĩ Hiền giả
hành động thật là kẻ dẫm đạp ngũ cốc! Ta nghĩ Hiền giả hành động
thật là kẻ phá hoại lương gia! Hội chúng của Hiền giả, này Hiền giả
Ananda, đang sụp đổ. Ðồ chúng niên thiếu của Hiền giả, này Hiền
giả, đang tiêu diệt. Ðứa trẻ này không biết lượng sức mình.
III
10) Tỷ-kheo-ni Thullatissà được nghe Tôn giả Ananda,
bậc Thánh Vedeha lại bị Tôn giả Mahà Kassapa không hài lòng và gọi là
"đứa trẻ".
11) Rồi Tỷ-kheo-ni Thullatissà không hoan hỷ và
thốt ra những lời không hoan hỷ: "Sao Tôn giả Mahà Kassapa, trước kia
là người theo ngoại đạo, lại nghĩ có thể không hài lòng và gọi Tôn
giả Ananda, bậc Thánh Vedeha là đứa trẻ?"
12) Tôn giả Mahà Kassapa được nghe những lời của
Tỷ-kheo-ni Thullatissà nói như vậy.
13) Rồi Tôn giả Mahà Kassapa nói với Tôn giả Ananda:
-- Này Hiền giả Ananda, lời nói của Tỷ-kheo-ni
Thullatissà thật là đường đột, không đắn đo suy nghĩ! Này Hiền giả,
vì rằng ta là người cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình, ta không chấp nhận một Ðạo Sư nào khác ngoài
Thế Tôn, bậc ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác.
14) Này Hiền giả, trong khi ta còn là gia chủ, ý
nghĩ sau đây được khởi lên: "Chật hẹp thay đời sống tại gia, đầy
những bụi đời! Còn xuất gia như đời sống ngoài trời. Thật không dễ dàng ở
trong gia đình có thể sống Phạm hạnh, hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn thanh
tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình".
15) Rồi này Hiền giả, sau một thời gian ta lấy vải
cắt làm áo Tăng-già-lê, và theo thông lệ các vị Ứng Cúng ở đời, cạo bỏ
râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
16) Xuất gia như vậy, ta đang đi trên đường, thấy
Thế Tôn ngồi tại ngôi đền Bahaputta giữa Ràjagaha và Nàlandà. Thấy
vậy, ta suy nghĩ như sau: "Ôi thật thế chăng, ta có thể thấy bậc
Ðạo Sư, tức là có thể thấy bậc Thế Tôn! Ôi thật thế chăng, ta
có thể thấy bậc Thiện Thệ, tức là có thể thấy bậc Thế
Tôn! Ôi thật thế chăng, ta có thể thấy bậc Chánh Ðẳng Giác, tức là
có thể thấy bậc Thế Tôn?"
17) Và này Hiền giả, ngay tại chỗ ấy, ta cúi
đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
"-- Bạch Thế Tôn, Ðạo Sư của con là Thế
Tôn. Con là đệ tử".
18) Khi nghe nói vậy, này Hiền giả, Thế Tôn nói
với ta:
-- Này Kassapa, những ai với tâm trọn vẹn đầy đủ,
không biết một đệ tử mà nói rằng tôi biết, không thấy mà nói
rằng tôi thấy, đầu người ấy sẽ vỡ tan. Còn Ta, này Kassapa, Ta biết thời
Ta nói Ta biết, Ta thấy thời Ta nói Ta thấy.
19) Do vậy, này Kassapa, Ông phải học tập như sau:
'Một tâm quý thật sắc sảo sẽ phải được thiết lập giữa các vị
Trưởng lão, niên thiếu và trung niên'. Này Kassapa, Ông phải học tập
như vậy.
20) Do vậy, này Kassapa, Ông phải học tập như sau:
'Phàm pháp gì tôi nghe, liên hệ đến thiện, sau khi đặc biệt
chú ý, tác ý, tập trung tất cả tâm (lực), tất cả pháp ấy tôi
đều lóng tai nghe'. Này Kassapa, Ông phải học tập như vậy.
21) Do vậy, này Kassapa, Ông phải học tập như sau:
'Phàm niệm gì thuộc về thân hành, câu hữu với hỷ, ta sẽ không bỏ
niệm ấy'. Này Kassapa, Ông phải học tập như vậy".
22) Rồi này Hiền giả, Thế Tôn sau khi giáo giới
ta với lời giáo giới ấy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
23) Trong bảy ngày, này Hiền giả, đang còn phiền
não, ta ăn món ăn của quốc độ, đến ngày thứ tám, chánh trí khởi lên.
24) Rồi này Hiền giả, Thế Tôn từ trên đường
bước xuống và đi đến một gốc cây.
25) Rồi này Hiền giả, ta xấp tư tấm y Tăng-già-lê
làm bằng vải cắt, rồi bạch Thế Tôn:
"-- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ngồi xuống ở
đây, để con được hạnh phúc an lạc lâu dài".
26) Này Hiền giả, Thế Tôn ngồi xuống trên
chỗ đã soạn sẵn.
27) Sau khi ngồi xuống, này Hiền giả, Thế Tôn
nói với ta:
"-- Thật là mềm dịu, này Kassapa, là tấm y
Tăng-già-lê này làm bằng vải cắt của Ông".
"-- Bạch Thế Tôn, mong rằng Thế Tôn nhận
lấy tấm y làm bằng vải cắt này từ nơi con, vì lòng từ mẫn đối với
con".
28) "-- Này Kassapa, Ông có dùng tấm y phấn tảo làm
bằng vải gai thô, đáng được quăng bỏ của Ta không?".
" -- Con sẽ dùng, bạch Thế Tôn, tấm y phấn tảo
làm bằng vải gai thô, đáng được quăng bỏ của Thế Tôn".
29) Như vậy, này Hiền giả, ta cúng cho Thế Tôn
tấm y Tăng-già-lê làm bằng vải cắt; còn ta thời dùng tấm y phấn tảo của
Thế Tôn, làm bằng vải gai thô đáng được quăng bỏ.
30) Và này Hiền giả, nếu ai có nói về ta
một cách chơn chánh, thời ta là con ruột Thế Tôn, sanh ra từ miệng, do
pháp sanh, do pháp hóa sanh, thừa tự Chánh pháp và đã nhận được tấm y phấn
tảo, làm bằng vải gai thô, đáng được quăng bỏ.
31) Này Hiền giả, tùy theo mong muốn, ta ly dục, ly
bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái
hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
32-46) Và này Hiền giả, tùy theo mong muốn, ta...
(chín thứ đệ định và năm thắng trí)...
47) Và này Hiền giả, do đoạn tận các lậu hoặc,
ngay trong hiện tại ta tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt, và an
trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
48) Này Hiền giả, ai nghĩ rằng có thể che đậy
sáu thắng trí của ta được, thời không khác gì nghĩ rằng có thể lấy
một lá cây ta-la mà che đậy một con voi lớn đến bảy hay tám khuỷu tay
rưởi bề cao.
49) Nhưng Tỷ-kheo-ni Thullatissà đã từ bỏ đời sống
Phạm hạnh.
XII. Sau Khi Chết (Tạp 32.1, Ngoại
Ðạo, Ðại 2, 226a) (Biệt Tạp 6.14, Ðại 2, 419a) (S.ii.222).
1) Một thời Tôn giả Mahà Kassapa và Tôn giả Sàriputta
trú ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isipatana (chư Tiên đọa xứ), ở Migadaya
(Lộc Uyển).
2) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi chiều từ chỗ
Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahà Kassapa; sau khi
đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời
chào đón hỏi thăm, liền ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sàriputta nói với Tôn
giả Mahà Kassapa:
-- Này Hiền giả Kassapa, có phải Như Lai có tồn tại
sau khi chết không?
-- Này Hiền giả, Thế Tôn không có tuyên bố:
"Như Lai có tồn tại sau khi chết".
4) -- Như vậy, này Hiền giả, có phải Như Lai không
tồn tại sau khi chết?
-- Cũng vậy, này Hiền giả, Thế Tôn không có
tuyên bố: "Như Lai không tồn tại sau khi chết".
5) -- Như vậy, này Hiền giả, có phải Như Lai có
tồn tại, và không tồn tại sau khi chết?
-- Này Hiền giả, Thế Tôn không có tuyên bố:
"Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết".
6) -- Vậy này Hiền giả, có phải Như Lai không có
tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?
-- Cũng vậy, này Hiền giả, Thế Tôn không có
tuyên bố: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi
chết".
7) Này Hiền giả, vì sao Thế Tôn không có tuyên
bố như vậy? Vì đây, này Hiền giả, không đưa đến lợi ích, không
đưa đến cứu cánh Phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, an
tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do vậy, Thế Tôn không có tuyên
bố như vậy.
8) Vậy này Hiền giả, Thế Tôn tuyên bố cái gì?
"Ðây là khổ", này Hiền giả, Thế Tôn
đã tuyên bố. "Ðây là khổ tập", Thế Tôn đã tuyên bố.
"Ðây là khổ diệt", Thế Tôn đã tuyên bố. "Ðây là con
đường đưa đến khổ diệt", Thế Tôn đã tuyên bố.
9) Vì sao, này Hiền giả, Thế Tôn đã tuyên bố
như vậy?
Vì đây, này Hiền giả, đưa đến lợi ích, đưa
đến cứu cánh Phạm hạnh, đưa đến yếm ly, ly tham, an tịnh, thắng
trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do vậy, Thế Tôn đã tuyên bố như vậy.
XIII. Tượng Pháp (Tạp 32.2 Pháp Giảm
Diệt, Ðại 2, 226b (Biệt Tạp 6.15, Ðại 2, 419b) (S.ii,223)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, vườn
ông Anàthapindika.
2) Rồi Tôn giả Mahà Kassapa đi đến Thế Tôn; sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahà Kassapa bạch
Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, thuở
trước, học giới có ít hơn nhưng các Tỷ-kheo chứng đắc chánh trí
nhiều hơn? Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ngày nay học
giới có nhiều hơn, nhưng các Tỷ-kheo chứng đắc chánh trí ít hơn?.
4) -- Sự việc xảy ra như vậy, này Kassapa, trong thời
các chúng sanh suy giảm, trong thời diệu pháp biến mất, thời nhiều
hơn là các học giới, ít hơn là các Tỷ-kheo chứng đắc chánh trí.
5) Này Kassapa, diệu pháp không biến mất cho
đến khi nào tượng pháp không hiện ra ở đời. Và Kassapa khi nào
tượng pháp hiện ra ở đời, thời diệu pháp biến mất.
6) Ví như, này Kassapa, vàng (thật) không biến mất
khi nào vàng giả chưa hiện ra ở đời. Và này Kassapa, khi nào vàng giả
hiện ra ở đời, thời vàng (thật) biến mất.
7) Cũng vậy, này Kassapa, diệu pháp không biến
mất, khi nào tượng pháp chưa hiện ra ở đời. Và này Kassapa, khi nào
tượng pháp hiện ra ở đời, thời diệu pháp biến mất.
8-11) Này Kassapa, địa giới không làm diệu pháp
biến mất, thủy giới... hỏa giới... phong giới không làm diệu pháp
biến mất.
12) Ở đây, khi nào các người ngu có mặt, chính
họ làm diệu pháp biến mất.
13) Ví như, này Kassapa, chiếc thuyền bị chìm vì
chở quá nặng. Không phải vì vậy, này Kassapa, diệu pháp bị biến mất.
14) Này Kassapa, có năm thối pháp khiến cho diệu
pháp bị hỗn loạn và biến mất. Thế nào là năm?
15) Ở đây, này Kassapa, các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống không tôn kính, không tùy thuận bậc
Ðạo Sư, sống không tôn kính, không tùy thuận Chánh pháp, sống không tôn
kính, không tùy thuận chúng Tăng, sống không tôn kính, không tùy thuận
học giới, sống không tôn kính, không tùy thuận đối với Thiền định.
Này Kassapa, chính những thối pháp này đưa đến sự
hỗn loạn, sự biến mất của diệu pháp.
16) Và có năm pháp, này Kassapa, đưa đến sự an
trú, bền vững, không biến mất của diệu pháp. Thế nào là năm?
17) Ở đây, này Kassapa, các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống kính trọng, tùy thuận bậc Ðạo
Sư, sống kính trọng, tùy thuận Chánh pháp, sống kính trọng, tùy thuận
chúng Tăng, sống kính trọng, tùy thuận học giới, sống kính trọng
tùy thuận Thiền định.
18) Chính năm pháp này, này Kassapa, đưa đến sự an
trú, bền vững, không biến mất của diệu pháp.