[45] Chương I
Tương Ưng Ðạo (a)
-ooOoo-
I. Phẩm Vô Minh
1.I. Vô Minh (S.v,1)
1. Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ), tại
Thắng Lâm, trong vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
"Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn
nói như sau:
3) -- Khi nào vô minh dẫn đầu, này các Tỷ-kheo,
đưa đến sự thành tựu các pháp bất thiện, thời vô tàm, vô quý
nối tiếp theo. Với kẻ bị vô minh chi phối, vô trí, này các Tỷ-kheo,
tà kiến sanh. Ðối với kẻ có tà kiến, tà tư duy sanh. Ðối với kẻ có
tà tư duy, tà ngữ sanh. Ðối với kẻ có tà ngữ, tà nghiệp sanh. Ðối với
kẻ có tà nghiệp, tà mạng sanh. Ðối với kẻ có tà mạng, tà tinh tấn sanh.
Ðối với kẻ có tà tinh tấn, tà niệm sanh. Ðối với kẻ có tà niệm,
tà định sanh.
4) Khi nào minh dẫn đầu, này các Tỷ-kheo, đưa
đến sự thành tựu các thiện pháp, thời tàm và quý nối tiếp
theo. Với kẻ được minh chi phối, có trí, này các Tỷ-kheo, chánh kiến
sanh. Ðối với vị chánh kiến, chánh tư duy sanh. Ðối với vị chánh tư duy,
chánh ngữ sanh. Ðối với vị chánh ngữ, chánh nghiệp sanh. Ðối với vị
chánh nghiệp, chánh mạng sanh. Ðối với vị chánh mạng, chánh tinh tấn sanh.
Ðối với vị chánh tinh tấn, chánh niệm sanh. Ðối với vị chánh niệm,
chánh định sanh.
2.II. Một Nửa (Upaddham) (S.v,1)
1) Một thời, Thế Tôn trú giữa các dân chúng Sakka,
tại thị trấn của dân chúng Sakka tên là Sakkara.
2) Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Tôn
giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Một nửa Phạm hạnh này, bạch Thế Tôn, là
thiện bạn hữu (kalyàsamittatà), thiện bạn đãng (kalyànasahàyatà),
thiện thân tình (kalyàsam-pavankatà).
3) -- Chớ có nói vậy, này Ananda! Chớ có nói vậy, này
Ananda! Toàn bộ Phạm hạnh này, này Ananda, là thiện bạn hữu, thiện bạn
đãng, thiện thân tình. Với Tỷ-kheo thiện bạn hữu, thiện bạn
đãng, thiện thân tình, này Ananda, thời được chờ đợi Thánh đạo Tám
ngành được tu tập, Thánh đạo Tám ngành được làm cho viên mãn.
4) Và này Ananda, thế nào là Tỷ-kheo thiện
bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình, tu tập và làm cho viên mãn
Thánh đạo Tám ngành? Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo tu tập chánh tri
kiến liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ
đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Tỷ-kheo tu tập chánh tư
duy... tu tập chánh ngữ... tu tập chánh nghiệp... tu tập chánh mạng... tu
tập chánh tinh tấn... tu tập chánh niệm... tu tập chánh định liên hệ
đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn
diệt, hướng đến từ bỏ. Như vậy, này Ananda, là Tỷ-kheo thiện
bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình, tu tập Thánh đạo Tám
ngành, làm cho sung mãn Thánh đạo Tám ngành.
5) Này Ananda, chính với pháp môn này, các Ông cần
phải hiểu thế nào toàn bộ Phạm hạnh này là thiện bạn hữu,
thiện bạn đãng, thiện thân tình. Do Ta lấy thiện làm bạn hữu, này
Ananda, nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh; các chúng sanh
bị già được giải thoát khỏi già; các chúng sanh bị chết được giải
thoát khỏi chết; các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não được giải
thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não. Chính với pháp môn này, này Ananda, các
Ông cần phải hiểu thế nào toàn bộ Phạm hạnh này là thiện bạn
hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình.
3.III. Sàriputta (S.v,3)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến Thế Tôn; sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Tôn
giả Sàriputta bạch Thế Tôn:
-- Toàn bộ Phạm hạnh này, bạch Thế Tôn, chính là
thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình này.
3)-- Lành thay, này Sàriputta! Lành thay, này Sàriputta!
Chính toàn bộ Phạm hạnh này là thiện bạn hữu, thiện bạn đãng,
thiện thân tình này. Này Sàriputta, với Tỷ-kheo thiện bạn hữu,
thiện bạn đãng, thiện thân tình, được chờ đợi rằng Thánh đạo Tám
ngành sẽ được tu tập, sẽ được làm cho viên mãn.
4-5) (Như đoạn số 4, số 5 của kinh trên, chỉ khác:
đây là Tôn giả Sàriputta chớ không phải Tôn giả Ananda)
4.IV. Bà La Môn (S.iv,4)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Tôn giả Ananda, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi
vào Sàvatthi để khất thực.
3) Rồi Tôn giả Ananda thấy Bà-la-môn Jànusoni đi xe ra
khỏi Sàvatthi, cỗ xe toàn ngựa trắng kéo. Trắng là những con ngựa kéo xe.
Trắng là những đồ trang sức. Trắng là cỗ xe. Trắng là những bộ phận tùy
thuộc (parivàro). Trắng là những sợi dây cương. Trắng là cây gậy thúc ngựa.
Trắng là cái lọng. Trắng là cái khăn đội. Trắng là những quần áo.
Trắng là giày mang. Và được quạt với cái quạt trắng. Quần chúng thấy vậy,
liền nói: "Thật là cỗ xe thù thắng. Thật là cỗ xe thù thắng
về dung sắc!"
4) Rồi Tôn giả Ananda đi khất thực ở Sàvatthi xong, sau
bữa ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn;
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên,
Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, vào buổi sáng, con
đắp y, cầm y bát và đi vào Sàvatthi để khất thực. Bạch Thế Tôn, con
thấy Bà-la-môn Jànusoni đi xe ra khỏi Sàvatthi, cỗ xe toàn ngựa trắng kéo.
Trắng là những con ngựa kéo xe... Thật là cỗ xe thù thắng về dung sắc!
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể nói lên cỗ xe thù thắng trong
Pháp và Luật này?
Thế Tôn nói:
-- Có thể được, này Ananda. Thánh đạo Tám ngành
này, này Ananda, là đồng nghĩa với cỗ xe thù thắng, cỗ xe pháp này.
Vô thượng là sự chinh phục trong chiến trận.
5) Chánh tri kiến, này Ananda, được tu tập, được
làm cho viên mãn, cuối cùng đưa đến nhiếp phục tham, nhiếp phục
sân, nhiếp phục si. Chánh tư duy, này Ananda, cuối cùng đưa đến
nhiếp phục tham, nhiếp phục sân, nhiếp phục si. Chánh ngữ... Chánh
nghiệp... Chánh mạng... Chánh tinh tấn... Chánh niệm... Chánh định, này
Ananda, được tu tập, được làm cho viên mãn, cuối cùng đưa đến
nhiếp phục tham, nhiếp phục sân, nhiếp phục si.
Này Ananda, chính với pháp môn này, các Ông cần phải
hiểu như thế này: "Cỗ xe thù thắng, cỗ xe pháp, vô thượng
là sự chinh phục trong chiến trận, là đồng nghĩa với Thánh đạo Tám
ngành này".
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Bậc Thiện
Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
Ai được tín, trí tuệ,
Thường xuyên liên kết lại,
Lấy hổ thẹn làm cán,
Lấy ý làm ách xe.
Niệm là người đánh xe,
Biết hộ trì, phòng hộ,
Cỗ xe lấy giới luật
Làm vật dụng cho xe.
Thiền là trục bánh xe,
Tinh tấn là bánh xe,
Xả là định thường hằng,
Vô dục là nệm xe.
Vô sân và vô hại,
Viễn ly là binh khí,
Nhẫn nhục là áo giáp,
An ổn khỏi khổ ách,
Làm mục đích đạt đến,
Cỗ xe được chuyển vận.
Pháp này tự ngã làm,
Trở thành thuộc tự ngã.
Là cỗ xe thù thắng,
Vô thượng, không sánh bằng.
Ngồi trên cỗ xe ấy,
Bậc Trí thoát ly đời,
Chắc chắn, không sai chạy,
Họ đạt được chiến thắng.
5.V. Với Mục Ðích Gì? (S.v,6)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi rất nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, các du sĩ ngoại đạo
đến hỏi chúng con: "Này chư Hiền, vì mục đích gì, Phạm hạnh
được sống dưới Sa-môn Gotama?" Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, chúng
con trả lời các du sĩ ngoại đạo ấy như sau: "Này chư Hiền, với mục
đích liễu tri đau khổ, Phạm hạnh được sống dưới Sa-môn Gotama". Ðược
hỏi như vậy và trả lời như vậy, bạch Thế Tôn, có phải chúng con trả
lời đúng với lời nói Thế Tôn, chúng con không xuyên tạc Thế Tôn với
điều không thật, chúng con trả lời đúng pháp và thuận pháp, và những ai
là vị đồng pháp, nói lời đúng pháp và thuận pháp, không có cơ hội
để chỉ trích?
4) -- Này các Tỷ-kheo, các Ông được hỏi như vậy
và trả lời như vậy là các Ông trả lời đúng với lời của Ta, các Ông không
xuyên tạc Ta với điều không thật, các Ông trả lời đúng pháp và thuận
pháp, và những ai là vị đồng pháp, nói lời đúng pháp và thuận pháp, không
có cơ hội để chỉ trích. Này các Tỷ-kheo, do mục đích liễu tri đau
khổ mà Phạm hạnh được sống dưới Ta. Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ
ngoại đạo hỏi các Ông: "Này Hiền giả, có con đường nào, có đạo
lộ nào đưa đến liễu tri đau khổ này?" Ðược hỏi vậy, thời các
Ông hãy trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như sau: "Này chư Hiền,
có con đường, có đạo lộ đưa đến liễu tri đau khổ này".
5) Này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường,
thế nào là đạo lộ đưa đến liễu tri đau khổ? Ðây là con đường
Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này
các Tỷ-kheo, đây là con đường, đây là đạo lộ đưa đến liễu tri
sự đau khổ này.
6) Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần
phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như vậy.
6.VI. Một Tỷ Kheo Khác (1) (S.iv,7)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi một Tỷ-kheo khác đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- "Phạm hạnh, Phạm hạnh", bạch Thế Tôn,
được nói đến như vậy. Bạch Thế Tôn, thế nào là Phạm hạnh?
Thế nào là cứu cánh Phạm hạnh?
-- Này Tỷ-kheo, con đường Thánh đạo Tám ngành này
là Phạm hạnh, tức là chánh tri kiến... chánh định. Này Tỷ-kheo, đoạn
tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si, đây là cứu cánh Phạm hạnh.
7.VII. Một Tỷ Kheo Khác (2) (S.iv,8)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi
đến...
3) Ngồi một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
--"Nhiếp phục tham, nhiếp phục sân, nhiếp
phục si", bạch Thế Tôn, được gọi là như vậy. Ðồng nghĩa với
gì, bạch Thế Tôn, là nhiếp phục tham, nhiếp phục sân, nhiếp
phục si?
-- Ðồng nghĩa với Niết-bàn giới là nhiếp phục
tham, nhiếp phục sân, nhiếp phục si, cũng được gọi là đoạn tận
các lậu hoặc.
4) Khi được nói vậy, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- "Bất tử, bất tử", bạch Thế Tôn, được
gọi là như vậy. Thế nào là bất tử, bạch Thế Tôn? Thế nào là
con đường đưa đến bất tử?
-- Ðoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si, này
Tỷ-kheo, được gọi là bất tử. Con đường Thánh đạo Tám ngành này
là con đường đưa đến bất tử, tức là chánh tri kiến... chánh định.
8.VIII. Phân Tích (S.iv,8)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng và phân tích
Thánh đạo Tám ngành này. Hãy lắng nghe và khéo tác ý. Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn
nói như sau:
3) -- Này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường
Thánh đạo Tám ngành? Tức là chánh tri kiến... chánh định.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tri
kiến? Này các Tỷ-kheo, chính là trí về khổ, trí về khổ tập,
trí về khổ diệt, trí về con đường đưa đến khổ diệt.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tri kiến.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy?
Này các Tỷ-kheo, chính là xuất ly tư duy, vô sân tư duy, vô hại tư duy.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tư duy.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh ngữ?
Này các Tỷ-kheo, chính là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ
nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là chánh ngữ.
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh
nghiệp? Này các Tỷ-kheo, chính là từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của
không cho, từ bỏ phi Phạm hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh
nghiệp.
8) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh mạng?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử đoạn trừ tà mạng, nuôi
sống với chánh mạng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh mạng.
9) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tinh
tấn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, với mục đích khiến cho các ác, bất
thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi, khởi lên ý muốn,
cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm; với mục đích khiến cho các ác,
bất thiện pháp đã sanh được trừ diệt, khởi lên ý muốn, cố
gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện
pháp từ trước chưa sanh nay được sanh khởi, khởi lên ý muốn, cố gắng,
tinh tấn, sách tấn, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp
đã được sanh có thể duy trì, không có lu mờ, được tăng trưởng,
được quảng đại, được tu tập, được viên mãn, khởi lên ý muốn, cố
gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh
tinh tấn.
10) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh
niệm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán thân trên
thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, với mục đích điều phục
tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời;
Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm
với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán pháp trên
các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều
phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh niệm.
11) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh định?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện,
chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có
tầm, có tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm.
Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ
mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ
ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú
Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là chánh định.
9.IX. Sùka (Râu lúa mì) (S.iv,10)
1-2) Tại Sàvatthi...
-- Này các Tỷ-kheo, ví như sợi râu của lúa mì hay
sợi râu của lúa mạch đặt hướng sai lạc, khi bị tay hay chân đè vào, có
thể đâm thủng tay hay chân, hay có thể làm đổ máu; sự tình này
không xảy ra. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì sợi râu bị đặt hướng sai lạc.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kiến bị đặt hướng sai lạc, con
đường tu tập bị đặt hướng sai lạc, có thể đâm thủng vô minh, làm minh
sanh khởi, có thể đạt Niết-bàn; sự tình này không xảy ra. Vì sao?
Này các Tỷ-kheo, vì kiến bị đặt hướng sai lạc.
3) Này các Tỷ-kheo, ví như sợi râu của lúa mì, hay
sợi râu của lúa mạch được đặt hướng chân chánh, khi bị tay hay chân đè
vào, có thể đâm thủng tay hay chân, hay có thể làm đổ máu; sự tình
này có xảy ra. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì sợi râu được đặt hướng
chân chánh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kiến được đặt
hướng chân chánh, con đường tu tập được đặt hướng chân chánh, có
thể đâm thủng vô minh, làm minh sanh khởi, có thể chứng đạt
Niết-bàn; sự tình này có xảy ra. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì kiến
được đặt hướng chân chánh.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
có kiến được đặt hướng chân chánh, con đường tu tập được đặt
hướng chân chánh, đâm thủng vô minh, làm minh sanh khởi, chứng đạt
Niết-bàn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập
chánh tri kiến liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham,
liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ... tu tập chánh
định liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ
đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy do kiến được đặt hướng chân chánh, do con đường tu tập
được đặt hướng chân chánh, nên đâm thủng vô minh, minh được sanh khởi,
chứng được Niết-bàn.
10.X. Nandiya (S.iv,11)
1) Tại Sàvatthi.
2) Rồi du sĩ Nandiya đi đến Thế Tôn; sau khi
đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói
lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên.
3) Ngồi một bên, du sĩ Nandiya bạch Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả Gotama, có bao nhiêu pháp được tu tập,
được làm cho viên mãn, đưa đến Niết-bàn, hướng đến đích
Niết-bàn, đưa đến cứu cánh Niết-bàn?
4) -- Có tám pháp này, này Nandiya, đưa đến
Niết-bàn, hướng đến đích Niết-bàn, đưa đến cứu cánh
Niết-bàn. Tức là chánh tri kiến... chánh định. Có tám pháp này, này
Nandiya, được tu tập, được làm cho viên mãn, đưa đến Niết-bàn,
hướng đến đích Niết-bàn, đưa đến cứu cánh Niết-bàn.
5) Khi được nói vậy, du sĩ Nandiya bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi
diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị
quăng ngã xuống... từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy
ngưỡng.
II. Phẩm Trú
11.I. Trú (1) (S.v,12)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta muốn sống Thiền định
trong nửa tháng, không có ai đến yết kiến Ta, trừ độc nhất người
mang đồ ăn khất thực.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Như vậy,
không một ai đến yết kiến Thế Tôn, trừ một người người mang
đồ ăn khất thực lại.
3) Rồi Thế Tôn sau nửa tháng, từ chỗ Thiền
tịnh đứng dậy và gọi các Tỷ-kheo:
-- Với sự an trú, Ta đã trú khi Ta mới chứng Chánh
đẳng Chánh giác, nhưng Ta chỉ trú một phần thôi.
4) Như vậy, Ta rõ biết những gì được cảm thọ
do duyên tà kiến, những gì được cảm thọ do duyên chánh kiến...
những gì được cảm thọ do duyên tà định, những gì được cảm thọ do
duyên chánh định, những gì được cảm thọ do duyên ước muốn (chanda),
những gì được cảm thọ do duyên tầm (vitakka), những gì được cảm
thọ do duyên tưởng (sannà).
5) Khi ước muốn không tịnh chỉ, thời tầm không tịnh
chỉ, tưởng không tịnh chỉ; do duyên như vậy, có được những cảm thọ.
Và khi ước muốn được tịnh chỉ, nhưng tầm chưa được tịnh chỉ, tưởng
chưa được tịnh chỉ; do duyên như vậy, có được những cảm thọ. Và khi
ước muốn được tịnh chỉ, tầm được tịnh chỉ, nhưng tưởng chưa được
tịnh chỉ, do duyên như vậy, có được những cảm thọ. Và khi ước muốn
được tịnh chỉ, tầm được tịnh chỉ, tưởng được tịnh chỉ, do duyên như
vậy, có được những cảm thọ.
6) Ðối với người chưa chứng đạt, cần phải tinh tấn
để được chứng đạt. Trong trường hợp đã được chứng đạt; do duyên
như vậy, có được những cảm thọ.
12.II. Trú (2) (S.v,13)
1-2) Ở Sàvatthi...
-- Này các Tỷ-kheo, Ta muốn sống Thiền tịnh trong
ba tháng...
3) Sau ba tháng, Thế Tôn từ Thiền tịnh đứng
dậy, gọi các Tỷ-kheo:
-- Với sự an trú, Ta đã trú khi Ta mới chứng Chánh
đẳng Chánh giác. Nhưng Ta chỉ trú một phần thôi.
4) Như vậy, Ta rõ biết (pajànàmi) những gì được
cảm thọ do duyên tà kiến, những gì được cảm thọ do duyên tà
kiến được tịnh chỉ, những gì được cảm thọ do duyên chánh kiến,
những gì được cảm thọ do duyên chánh kiến được tịnh chỉ, những gì
được cảm thọ do duyên tà định, những gì được cảm thọ do duyên tà
định được tịnh chỉ, những gì được cảm thọ do duyên chánh định,
những gì được cảm thọ do duyên chánh định được tịnh chỉ, những gì
được cảm thọ do duyên ước muốn (chanda), những gì được cảm thọ do
duyên ước muốn được tịnh chỉ, những gì được cảm thọ do duyên tầm,
những gì được cảm thọ do duyên tầm được tịnh chỉ, những gì được
cảm thọ do duyên tưởng, những gì được cảm thọ do duyên tưởng
được tịnh chỉ.
5) Khi ước muốn không tịnh chỉ, tầm không tịnh chỉ,
tưởng không tịnh chỉ; do duyên như vậy, có được những cảm thọ. Và khi
ước muốn được tịnh chỉ, nhưng tầm chưa được tịnh chỉ, tưởng chưa
được tịnh chỉ; do duyên như vậy, có được những cảm thọ. Và khi ước
muốn được tịnh chỉ, tầm được tịnh chỉ, nhưng tưởng chưa được tịnh
chỉ; do duyên như vậy, có được những cảm thọ. Và khi ước muốn được
tịnh chỉ, tầm được tịnh chỉ, tưởng được tịnh chỉ; do duyên như vậy, có
được những cảm thọ.
6) Ðối với người chưa chứng đạt, cần phải tinh tấn
để chứng đạt. Trong trường hợp đã được chứng đạt; do duyên như vậy,
có được những cảm thọ.
13.III. Hữu Học (S.v,14)
1) Ở Sàvatthi.
2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...
3) Ngồi một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- "Hữu học, hữu học", bạch Thế
Tôn, được gọi là như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế
Tôn, là bậc hữu học?
4) -- Ở đây, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ
chánh kiến của bậc hữu học... đầy đủ chánh định của bậc hữu
học. Cho đến như vậy, Tỷ-kheo ấy được gọi là bậc hữu
học.
14.IV. Sanh Khởi (1)
1) Ở Sàvatthi...
2) -- Có tám pháp này được tu tập, được làm cho
viên mãn, chưa được sanh khởi, có thể sanh khởi, nhưng chỉ khi nào Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện.
3) Thế nào là tám? Tức là chánh tri kiến...
chánh định. Tám pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho
viên mãn, chưa được sanh khởi có thể sanh khởi, nhưng chỉ khi nào Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện.
15.V. Sanh Khởi (2) (S.v,14)
1) Ở Sàvatthi...
2) -- Có tám pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu
tập, được làm cho viên mãn, nếu chưa sanh khởi có thể sanh khởi,
nhưng chỉ trong giới luật của bậc Thiện Thệ.
3) Thế nào là tám? Tức là chánh tri kiến...
chánh định. Có tám pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm
cho viên mãn, nếu chưa được sanh khởi có thể sanh khởi, nhưng chỉ
trong giới luật của bậc Thiện Thệ.
16.VI. Thanh Tịnh (1) (S.v,15)
1-2) Tại Sàvatthi...
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Có tám pháp này, này các Tỷ-kheo, thanh tịnh,
trong sáng, không cấu uế, ly các phiền não, nếu chưa sanh khởi có
thể sanh khởi, nhưng chỉ khi nào Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác
xuất hiện.
4) Thế nào là tám? Tức là chánh tri kiến...
chánh định. Có tám pháp này, này các Tỷ-kheo, thanh tịnh, trong sáng,
không có cấu uế, ly các phiền não, nếu chưa sanh khởi có thể
sanh khởi, nhưng chỉ khi nào Như Lai, bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác xuất
hiện.
17.VII. Thanh Tịnh (2) (S.v,15)
1-2) Tại Sàvatthi...
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Có tám pháp này, này các Tỷ-kheo, thanh tịnh,
trong sáng... có thể sanh khởi, nhưng chỉ trong giới luật của bậc Thiện
Thệ.
4) Thế nào là tám? Tức là chánh tri kiến...
chánh định. Có tám pháp này, này các Tỷ-kheo, thanh tịnh, trong sáng,
không có cấu uế, ly các phiền não, nếu chưa sanh khởi có thể
sanh khởi, nhưng chỉ trong giới luật của bậc Thiện Thệ.
18.VIII. Vườn Gà (1) (Kukkutàràma)
(S.v,15)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Ananda, Tôn giả Bhadda trú tại Vườn
Gà, tại Pàtaliputta.
2) Rồi Tôn giả Bhadda, vào buổi chiều, từ Thiền
tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, nói lên với Tôn
giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón
hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên.
3) Ngồi một bên, Tôn giả Bhadda nói với Tôn giả Ananda:
-- "Phi Phạm hạnh, phi Phạm hạnh", này Hiền
giả Ananda, được nói đến như vậy. Thế nào, thưa Hiền giả, là
phi Phạm hạnh?
-- Lành thay, lành thay, Hiền giả Bhadda! Hiền
thiện thay, này Hiền giả Bhadda, là đường hầm (ummagga) của Hiền
giả! Hiền thiện thay, là lời biện tài! Tốt đẹp thay, là câu hỏi!
4) Này Hiền giả Bhadda, có phải như vầy là câu hỏi
của Hiền giả: "Phi Phạm hạnh, phi Phạm hạnh, này Hiền giả Ananda,
được nói đến như vậy. Thế nào, thưa Hiền giả, là phi Phạm
hạnh?" chăng?
-- Thưa vâng, Hiền giả.
5) -- Này Hiền giả, con đường tà đạo tám ngành
này là phi Phạm hạnh. Tức là tà tri kiến... tà định.
19.IX. Vườn Gà (2) (S.v,16)
1-2) Nhân duyên ở Pàtaliputta...
3)-- "Phạm hạnh, Phạm hạnh", này Hiền giả
Ananda, được nói đến như vậy. Này Hiền giả, thế nào là Phạm
hạnh, thế nào là cứu cánh Phạm hạnh?
-- Lành thay, lành thay, này Hiền giả Bhadda! Hiền
thiện thay, này Hiền giả Bhadda, là đường hầm của Hiền giả!
Hiền thiện thay, là lời biện tài! Tốt đẹp thay, là câu hỏi!
4) Này Hiền giả Bhadda, có phải như vầy là câu hỏi
của Hiền giả: "Phạm hạnh, Phạm hạnh, này Hiền giả Ananda, như vậy
được nói đến. Này Hiền giả, thế nào là Phạm hạnh, thế nào
là cứu cánh Phạm hạnh?" chăng?
-- Thưa phải, Hiền giả.
5) -- Này Hiền giả, con đường Thánh đạo Tám ngành
này là Phạm hạnh. Tức là chánh tri kiến... chánh định. Này Hiền giả,
đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si là cứu cánh Phạm hạnh này.
20.X. Vườn Gà (3) (S.v,16)
1-2) Nhân duyên tại Pàtaliputta...
3)-- "Phạm hạnh, Phạm hạnh", thưa Hiền giả,
như vậy được nói đến. Thưa Hiền giả, thế nào là Phạm hạnh?
Thế nào là người hành Phạm hạnh? Thế nào là cứu cánh Phạm hạnh?
4) -- Lành thay, lành thay, Hiền giả Bhadda! Hiền
thiện thay, này Hiền giả Bhadda, là đường hầm của Hiền giả!
Hiền thiện thay là lời biện tài! Tốt đẹp thay, là câu hỏi!
5) Này Hiền giả Bhadda, có phải như vầy là câu hỏi
của Hiền giả: "Phạm hạnh, Phạm hạnh, này Hiền giả Ananda, như vậy
được nói đến. Này Hiền giả, thế nào là Phạm hạnh? Thế nào
là người hành Phạm hạnh? Thế nào là cứu cánh Phạm hạnh?" chăng?
-- Thưa phải, Hiền giả.
6) -- Này Hiền giả, con đường Thánh đạo Tám ngành
này là Phạm hạnh, tức là chánh tri kiến... chánh định. Này Hiền giả,
ai đầy đủ Thánh đạo Tám ngành này, người ấy được gọi là người
hành Phạm hạnh. Này Hiền giả, đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận
si, đây là cứu cánh Phạm hạnh.
III. Phẩm Tà Tánh
21.I. Tà Tánh (S.v,17)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông
về tà tánh và chánh tánh. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà tánh? Tức
là tà tri kiến... tà định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tà tánh.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tánh?
Tức là chánh tri kiến... chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
chánh tánh.
22.II. Pháp Bất Thiện (S.v,18)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi.
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông
về bất thiện pháp và thiện pháp. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bất thiện
pháp? Tức là tà tri kiến... tà định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là bất thiện pháp.
5) Thế nào là thiện pháp? Tức là chánh tri
kiến... chánh định. Ðây gọi là thiện pháp.
23.III. Ðạo Lộ (S.v,18)
1-2) Sàvatthi.
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông
về tà đạo lộ và chánh đạo lộ. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà đạo lộ?
Tức là tà tri kiến... tà định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tà
đạo lộ.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh đạo
lộ? Tức là chánh tri kiến... chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là chánh đạo lộ.
24.IV. Ðạo Lộ (2) (S.v,18)
1-2) Sàvatthi.
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Này các Tỷ-kheo, với người tại gia hay với
người xuất gia, Ta không tán thán tà đạo lộ.
4) Người tại gia hay người xuất gia, theo tà hạnh, này
các Tỷ-kheo, do vì tà hạnh và nhân tà hạnh, vị ấy không phải là người
phát huy (àràdhaka) chánh lý (nàyam), pháp (dhammam), và thiện (kusatam).
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà đạo lộ? Tức là tà tri kiến...
tà định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tà đạo lộ. Ðối với người
tại gia hay người xuất gia, này các Tỷ-kheo, Ta không tán thán tà đạo
lộ.
5) Người tại gia hay người xuất gia theo tà hạnh, này
các Tỷ-kheo, do vì tà hạnh và nhân tà hạnh, vị ấy không phải là người
phát huy chánh lý, pháp và thiện.
6) Và này các Tỷ-kheo, với người tại gia hay với
người xuất gia, Ta tán thán chánh đạo lộ.
7) Người tại gia hay người xuất gia theo chánh hạnh,
này các Tỷ-kheo, do vì chánh hạnh và nhân chánh hạnh, vị ấy là người
phát triển chánh lý, pháp và thiện. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là chánh đạo lộ? Tức là chánh tri kiến... chánh định. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh đạo lộ. Và này các Tỷ-kheo, với người tại gia hay
người xuất gia, Ta tán thán chánh đạo lộ.
8) Người tại gia, hay người xuất gia, theo chánh hạnh,
này các Tỷ-kheo, do vì chánh hạnh và do nhân chánh hạnh, vị ấy trở thành
người phát huy chánh lý, pháp và thiện.
25.V. Không Phải Chân Nhân (1) (Asappurisa)
(S.v,19)
1-2) Ở Sàvatthi...
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông
về phi chân nhân và chân nhân. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là phi chân
nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người theo tà tri kiến, tà tư
duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, là tinh tấn, tà niệm, tà định. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là phi chân nhân.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chân nhân?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người theo chánh tri kiến, theo chánh
tư duy, theo chánh ngữ, theo chánh nghiệp, theo chánh mạng, theo chánh tinh
tấn, theo chánh niệm, theo chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi
là chân nhân.
26.VI. Không Phải Chân Nhân (2) (S.v,20)
1-2) Ở Sàvatthi...
Ở đấy, Thế Tôn nói như sau:
3) -- Ta sẽ giảng cho các Ông, này các Tỷ-kheo,
về phi chân nhân và tệ hơn phi chân nhân. Ta sẽ giảng cho các Ông,
này các Tỷ-kheo, về chân nhân và tốt hơn chân nhân. Hãy lắng nghe...
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là phi chân
nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người theo tà kiến... theo tà
định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là phi chân nhân.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là phi chân nhân
còn tệ hơn phi chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người theo
tà kiến... theo tà định, theo tà trí, theo tà giải thoát. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là phi chân nhân còn tệ hơn phi chân nhân.
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc chân
nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người theo chánh tri kiến... theo
chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chân nhân.
7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc chân
nhân còn tốt đẹp hơn bậc chân nhân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người theo chánh tri kiến... theo chánh định, theo chánh trí, theo chánh
giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là bậc chân nhân còn tốt đẹp
hơn các bậc chân nhân.
27.VII. Cái Bình (S.v,20)
1-2) Ở Sàvatthi...
3)-- Này các Tỷ-kheo, ví như một cái bình, nếu
không có cái giá chống đỡ thời dễ bị nghiêng ngã, nếu có cái giá
chống đỡ thời khó nghiêng ngã. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu tâm
không có cái giá chống đỡ thời dễ bị nghiêng ngã, nếu có cái giá
chống đỡ thời khó nghiêng ngã.
4) Và này các Tỷ-kheo, cái gì là giá chống đỡ cho
tâm? Chính là Thánh đạo Tám ngành này, tức là chánh tri kiến... chánh
định. Ðây gọi là cái giá chống đỡ tâm.
5) Này các Tỷ-kheo, ví như cái bình không có cái
giá chống đỡ thời dễ bị nghiêng ngã, nếu có cái giá chống đỡ thời
khó bị nghiêng ngã. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu tâm không có cái
giá chống đỡ thời dễ bị nghiêng ngã, nếu có cái giá chống đỡ thời
khó bị nghiêng ngã.
28.VIII. Ðịnh (S.v,21)
1-2) Ở Sàvatthi...
Rồi Thế Tôn nói như sau:
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông
về chánh định với sở y (saupanisam), với tư lường (saparikkhàram). Hãy
lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh định
với sở y, với tư lường? Tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm.
5) Nhứt tâm, này các Tỷ-kheo, có bảy chi phần này
làm tư lường. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Thánh chánh định với sở
y, với tư lường.
29.IX. Thọ (S.v,21)
1-2) Ở Sàvatthi...
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Này các Tỷ-kheo, có ba thọ này. Thế
nào là ba? Lạc thọ, khổ thọ, phi khổ phi lạc thọ. Này các
Tỷ-kheo, đây là ba thọ này.
4) Muốn liễu tri ba thọ này cần phải tu tập Thánh
đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến... chánh định. Muốn liễu tri
thọ này cần phải tu tập Thánh đạo Tám ngành.
30.X. Uttiya hay Uttika (S.v,22)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
3) Rồi Tôn giả Uittiya đi đến Thế Tôn...
4) Ngồi một bên, Tôn giả Uttiya bạch Thế Tôn:
-- Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi con độc cư
Thiền tịnh, tư tưởng như sau được khởi lên: "Năm dục công đức
được Thế Tôn nói đến, và năm dục công đức được Thế Tôn nói
đến là gì?"
5 -- Lành thay, lành thay, này Uttiya! Năm dục công đức
này được Ta nói đến, này Uttiya. Thế nào là năm? Các sắc do mắt
nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục,
hấp dẫn, các tiếng do tai nhận thức... các hương do mũi nhận thức... các
vị do lưỡi nhận nhận thức... các xúc do thân nhận thức khả lạc, khả hỷ,
khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Năm dục công đức
này, này Uttiya, được Ta nói đến.
6) Muốn đoạn tận năm dục công đức này, này Uttiya,
cần phải tu tập Thánh đạo Tám ngành. Thế nào là Thánh đạo Tám ngành?
Tức là chánh tri kiến... chánh định. Muốn đoạn tận năm dục công đức
này, này Uttiya, cần phải tu tập Thánh đạo Tám ngành này.
IV. Phẩm Về
Hạnh (Patipattivagga)
31.I. Hạnh (Patipatti) (S.v,23)
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...
Thế Tôn nói như sau:
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông
về tà hạnh và về chánh hạnh. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà hạnh? Tức
là tà tri kiến... tà định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tà hạnh.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh hạnh?
Tức là chánh tri kiến... chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
chánh hạnh.
32.II. Người Hành Trì (S.v,23)
1-2) Ở Sàvatthi...
Ở đây, Thế Tôn nói như sau:
3) -- Và này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông
về người tà hạnh và người chánh hạnh. Hãy lắng nghe.
4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là người tà hạnh?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người theo tà kiến... theo tà định.
Ðây gọi là người tà hạnh.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người chánh
hạnh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người theo chánh tri kiến...
chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là người chánh hạnh.
33.III. Thối Thất (Viraddha) (S.v,23)
1-2) Tại Sàvatthi...
3) -- Với những ai, này các Tỷ-kheo, Thánh đạo Tám
ngành bị thối thất, đối với họ, bị thối thất là Thánh đạo Tám ngành,
con đường chân chánh đưa đến đoạn tận khổ đau. Với những ai, này các
Tỷ-kheo, Thánh đạo Tám ngành được thực hiện (àraddho), đối với
họ, được thực hiện là Thánh đạo Tám ngành, con đường chân chánh
đưa đến đoạn tận khổ đau.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh đạo
Tám ngành? Tức là chánh tri kiến... chánh định. Ðối với những ai, này
các Tỷ-kheo, Thánh đạo Tám ngành bị thối thất, bị thối thất là Thánh
đạo Tám ngành, con đường chân chánh đưa đến đoạn tận khổ đau. Với
những ai, này các Tỷ-kheo, Thánh đạo Tám ngành được thực hiện, đối
với họ, được thực hiện là Thánh đạo Tám ngành, con đường chân
chánh đưa đến đoạn tận khổ đau.
34.IV. Ðến Bờ Bên Kia (S.v,25)
1-2) Tại Sàvatthi...
3) -- Có tám pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu
tập, được làm cho sung mãn, đưa từ bờ bên này đến bờ bên kia
(apàràpa ramgamanàya). Thế nào là tám? Tức là chánh tri kiến... chánh
định. Tám pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung
mãn, đưa từ bờ bên này đến bờ bên kia.
4) Thế Tôn thuyết như vậy. Thiện Thệ
thuyết như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
1) Ít thay là những người,
Ðạt đến bờ bên kia.
Phần lớn quần chúng khác,
Chạy qua lại bờ này.
2) Những ai theo thuyết giảng,
Chánh pháp khéo tuyên thuyết,
Họ đến bờ bên kia,
Khéo vượt cảnh giới Ma.
3) Ðoạn tận các hắc pháp,
Bậc trí tu bạch pháp,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Trong độc cư, khó lạc.
4) Ở đây, muốn hưởng lạc,
Hãy bỏ mọi dục vọng,
Bậc trí tự thanh lọc,
Tự tâm khỏi phiền não.
5) Những ai khéo tu tập,
Chánh tâm trong giác chi,
Từ bỏ các chấp trước,
Hoan hỷ không chấp thủ,
Lậu hoặc tận, chói sáng,
Ðạt tịch tịnh ở đời.
35.V. Sa Môn Hạnh (1) (S.v,25)
1-2) Tại Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông
về Sa-môn hạnh và quả Sa-môn hạnh. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Sa-môn hạnh?
Chính là Thánh đạo Tám ngành này, tức là chánh tri kiến... chánh định.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Sa-môn hạnh.
5) Và này các Tỷ-kheo, theá nào là quả Sa-môn
hạnh? Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả, A-la-hán quả. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là quả Sa-môn hạnh.
36.VI. Sa Môn Hạnh (2) (S.v,25)
1-2) Ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông
về Sa-môn hạnh và mục đích Sa-môn hạnh. Hãy lắng nghe.
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Sa-môn hạnh?
Chính là Thánh đạo Tám ngành này, tức là chánh tri kiến... chánh định.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Sa-môn hạnh.
5) Này các Tỷ-kheo, thế nào là mục đích Sa-môn
hạnh? Này các Tỷ-kheo, đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si. Ðây
gọi là mục đích Sa-môn hạnh (sàmannattho).
37-38.VII-VIII.Bà La Môn Hạnh (1-2)
(S.v,25-26)
(Giống như 35-36, chỉ khác: các kinh trước nói đến
Sa-môn hạnh, các kinh này nói đến Bà-la-môn hạnh)
39-40.IX-X. Phạm Hạnh (1-2) (S.v,26)
(Giống như kinh 35-36, chỉ khác: các kinh trước nói
đến Sa-môn hạnh, các kinh này nói đến Phạm hạnh)
Ngoại Ðạo Trung Lược
41.I. Ly Tham. (S.v,27)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi...
2) Rồi nhiều Tỷ-kheo... bạch Thế Tôn.
3) -- Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo
hỏi các Ông như sau: "Vì mục đích gì, này chư Hiền, Phạm hạnh
được sống dưới Sa-môn Gotama?" Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các
Ông cần phải trả lời các du sĩ ngoại đạo ấy như sau: "Do mục đích
đoạn tận tham, này chư Hiền, Phạm hạnh được sống dưới Sa-môn
Gotama".
4) Này các Tỷ-kheo, nhưng nếu các du sĩ ngoại
đạo hỏi các Ông như sau: "Có con đường nào, có đạo lộ nào, này chư
Hiền, đưa đến đoạn tận tham?" Ðược hỏi như vậy, này các
Tỷ-kheo, các Ông phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như sau:
"Có con đường, có đạo lộ đưa đến đoạn tận tham".
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường,
thế nào là đạo lộ đưa đến đoạn tận tham? Chính là Thánh đạo Tám
ngành này, tức là chánh tri kiến... chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây
là con đường, đây là đạo lộ đưa đến đoạn tận tham. Ðược hỏi vậy,
này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải trả lời như vậy cho các du sĩ ngoại
đạo ấy.
42.II. Kiết Sử (Samyojanam) (S.v,28)
1) ...
2)-- Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo
hỏi các Ông như sau: "Vì mục đích gì, này chư Hiền, Phạm hạnh
được sống dưới Sa-môn Gotama?" Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các
Ông cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như sau: "Vì mục đích
đoạn tận các kiết sử, này chư Hiền, Phạm hạnh được sống dưới
Sa-môn Gotama..".
43.III. Tùy Miên (S.v,28)
1) ...
2) "... Vì mục đích nhổ sạch lên các tùy miên,
này chư Hiền, Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn..".
44.IV. Hành Lộ (Addhànam) (S.v,28)
1) ...
2) "... Vì mục đích liễu tri hành lộ, này chư
Hiền, Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn..".
45.V. Ðoạn Tận Các Lậu Hoặc (S.v,28)
1) ...
2) "... Vì mục đích đoạn tận các lậu hoặc, này
chư Hiền, Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn..".
46.VI. Ðược Giải Thoát Nhờ Minh (Vijjàvimutti)
(S.v,28)
1) ...
2) "... Vì mục đích chứng ngộ được quả giải
thoát nhờ minh, này chư Hiền, Phạm hạnh được sống dưới Thế
Tôn..".
47.VII. Trí (S,v,28)
1) ...
2) "... Vì mục đích tự kiến, này chư Hiền,
Phạm hạnh được sống dưới Thế Tôn..".
48.VIII. Không Chấp Thủ (S.v,29)
1) ...
2)-- Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo
hỏi các Ông như sau: "Vì mục đích gì, này chư Hiền, Phạm hạnh
được sống dưới Sa-môn Gotama?" Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các
Ông cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại ấy như sau: "Vì mục đích hoàn
toàn tịch tịnh, không có chấp thủ, này chư Hiền, Phạm hạnh được sống
dưới Thế Tôn".
3) Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại
đạo hỏi các Ông như sau: "Có con đường nào, này chư Hiền, có đạo
lộ nào đưa đến hoàn toàn tịch tịnh không có chấp thủ?" Ðược hỏi
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo
ấy như sau: "Có con đường, này chư Hiền, có đạo lộ đưa đến
hoàn toàn tịch tịnh, không có chấp thủ".
4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường,
thế nào là đạo lộ đưa đến tịch tịnh hoàn toàn không có chấp thủ?
Chính Thánh đạo Tám ngành này, tức là chánh tri kiến... chánh định. Này
các Tỷ-kheo, đây là con đường, đây là đạo lộ đưa đến hoàn toàn
tịch tịnh, không có chấp thủ. Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông
cần phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như vậy.
Mặt Trời Lược Thuyết
(Suriyassa peyyàlam)
Tất cả đều nhân duyên ở Sàvatthi.
I. Liên Hệ Ðến Viễn Ly.
49.I. Thiện Hữu (1) (S.v,29)
1) ...
2)-- Này các Tỷ-kheo, như cái đi trước và
điềm tướng báo trước mặt trời mọc, tức là rạng đông (arunuggam);
cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái đi trước và điềm tướng báo trước
sự sanh khởi của Thánh đạo Tám ngành, chính là bạn hữu với thiện.
3) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo bạn hữu với
thiện, thời chờ đợi rằng Thánh đạo Tám ngành sẽ được tu tập, Thánh
đạo Tám ngành sẽ được sung mãn. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo bạn hữu với thiện, tu tập Thánh đạo Tám ngành và làm cho sung
mãn Thánh đạo Tám ngành?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập
chánh tri kiến liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham,
liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ... tu tập chánh
định... hướng đến từ bỏ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo làm
bạn hữu với thiện, tu tập Thánh đạo Tám ngành và làm cho sung mãn Thánh
đạo Tám ngành.
50.II. Gíới Hạnh (2) (S.v,30)
1) ...
2)-- Này các Tỷ-kheo, như cái đi trước và
điềm tướng báo trước mặt trời mọc, tức là rạng đông; cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, cái đi trước và điềm báo trước Thánh đạo Tám
ngành sanh khởi chính là sự thành tựu giới hạnh.
3) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh,
thời chờ đợi rằng... (như kinh trên, với những thay đổi cần thiết).
51.III. Ước Muốn (1) (Chanda) (S.v,30)
1-2) ... Tức là sự đầy đủ ước muốn (chanda-sampadà)
... (như kinh trên, với những thay đổi cần thiết).
52-54.IV.VI. Ngã, Kiến, Không Phóng Dật. (1)
(S.v,30)
(Ðầy đủ ngã... đầy đủ kiến... đầy đủ không
phóng dật, với những thay đổi cần thiết)...
55.VII. Như Lý (1) (Yoniso). (S.v,31)
1) ...
2)-- Này các Tỷ-kheo, như cái đi trước và
điềm tướng báo trước mặt trời mọc, tức là rạng đông; cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, cái đi trước và điềm tướng báo trước Thánh đạo
Tám ngành sanh khởi chính là đầy đủ như lý tác ý
(yonisomana-sikàrasampadà).
3) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ như lý
tác ý này, thời chờ đợi rằng Thánh đạo Tám ngành sẽ được tu tập,
Thánh đạo tám ngành sẽ được sung mãn. Và này các Tỷ-kheo, thế nào
là Tỷ-kheo đầy đủ như lý tác ý, tu tập Thánh đạo Tám ngành,
và làm cho sung mãn Thánh đạo Tám ngành?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập
chánh tri kiến liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham,
liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ... tu tập chánh
định, liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ
đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đầy đủ như lý tác ý, tu tập Thánh đạo Tám ngành, làm
cho sung mãn Thánh đạo Tám ngành.
II. Nhiếp Phục Tham (Ràgavinaya).
56.VIII. Bạn Hữu Với Thiện (2) (S.v,31)
1) ...
2)-- Này các Tỷ-kheo, như cái đi trước và
điềm tướng báo trước mặt trời mọc... chính là bạn hữu với
thiện.
3) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo làm bạn hữu với
thiện, thời chờ đợi rằng Thánh đạo Tám ngành sẽ được tu tập, Thánh
đạo Tám ngành sẽ được sung mãn. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo bạn hữu với thiện, tu tập Thánh đạo Tám ngành, và làm cho
sung mãn Thánh đạo Tám ngành?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập
chánh tri kiến với cứu cánh là nhiếp phục tham, với cứu cánh là
nhiếp phục sân, với cứu cánh là nhiếp phục si... tu tập chánh định,
với cứu cánh là nhiếp phục tham, với cứu cánh là nhiếp phục sân, với
cứu cánh là nhiếp phục si. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo làm
bạn hữu với thiện, tu tập Thánh đạo Tám ngành, làm cho sung mãn Thánh
đạo Tám ngành.
57.IX. Gíới Hạnh (2) (S.v,31)
1-2)-- Này các Tỷ-kheo, như cái đi trước... chính
là sự thành tựu giới hạnh... (như trên).
58.X. Ước Muốn (2) (Chanda) (S.v,32)
1-2) -- Này các Tỷ-kheo, như cái đi trước... chính
là sự đầy đủ ước muốn... (như trên)...
59.XI. Ngã (2) (S.v,32)
1-2) -- Này các Tỷ-kheo, như cái đi trước... chính
là sự đầy đủ ngã... (như trên)...
60.XII. Kiến (2) (S.v,32)
1-2) -- Này các Tỷ-kheo, như cái đi trước... chính
là sự đầy đủ kiến... (như trên)...
61.XIII. Không Phóng Dật (2) (S.v,32)
1-2) ... chính là sự đầy đủ không phóng dật... (như
trên)...
62.XIV. Như Lý (2) (S.v,32)
1) ...
2)--...Này các Tỷ-kheo, như cái đi trước... chính
là sự đầy đủ như lý tác ý.
3) Và này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ như
lý tác ý này, thời chờ đợi rằng Thánh đạo Tám ngành sẽ được tu
tập, Thánh đạo Tám ngành sẽ được sung mãn. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là Tỷ-kheo đầy đủ như lý tác ý, tu tập Thánh đạo Tám
ngành, làm cho sung mãn Thánh đạo Tám ngành?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập
chánh tri kiến với cứu cánh là nhiếp phục tham, với cứu cánh là
nhiếp phục sân, với cứu cánh là nhiếp phục si. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ như lý tác ý... tu tập chánh định
với cứu cánh là nhiếp phục tham, với cứu cánh là nhiếp phục sân, với
cứu cánh là nhiếp phục si... Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ như lý tác ý, tu tập Thánh đạo Tám ngành, và làm cho sung
mãn Thánh đạo Tám ngành.
Một Pháp Trung Lược I
Tất cả đều nhân duyên ở Sàvatthi.
I. Liên Hệ Ðến Viễn Ly
63.I. Bạn Hữu Với Thiện (1) (S.v,32)
1) ...
2)-- Có một pháp, này các Tỷ-kheo, lợi ích
nhiều cho Thánh đạo Tám ngành được sanh khởi. Thế nào là một pháp?
Chính là bạn hữu với thiện.
3) Với Tỷ-kheo bạn hữu với thiện, này các
Tỷ-kheo, được chờ đợi là Thánh đạo Tám ngành sẽ được tu tập, sẽ
được làm cho sung mãn. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
bạn hữu với thiện, tu tập Thánh đạo Tám ngành và làm cho sung mãn Thánh
đạo Tám ngành?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập
chánh tri kiến liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham,
liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ... tu tập chánh
định liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ
đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là Tỷ-kheo làm bạn hữu với thiện, tu tập Thánh đạo Tám ngành và làm
cho sung mãn Thánh đạo Tám ngành.
64.II. Gíới Hạnh (1) (S.v,33)
1) ...
2) -- Có một pháp, này các Tỷ-kheo, lợi ích
nhiều cho Thánh đạo Tám ngành sanh khởi. Và thế nào là một pháp lợi
ích nhiều cho Thánh đạo Tám ngành sanh khởi?... (như trên)...
65.III. Ưóc Muốn (1) (S.v,33)
1-2) ... tức là đầy đủ ước muốn...
66.IV. Ngã (1) (S.v,33)
1-2) ... tức là đầy đủ ngã...
67.V. Kiến (1) (S.v,33)
1-2) ... tức là đầy đủ kiến...
68.VI. Không Phóng Dật (1) (S.v,33)
1-2) ... tức là đầy đủ không phóng dật...
69.VII. Như Lý (1) (S.v,33)
1-2) ... tức là đầy đủ như lý tác ý...
3) Với các Tỷ-kheo đầy đủ như lý tác ý,
được chờ đợi là Thánh đạo Tám ngành sẽ được tu tập, Thánh đạo Tám
ngành sẽ được sung mãn. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
đầy đủ như lý tác ý, tu tập Thánh đạo Tám ngành và làm cho sung
mãn Thánh đạo Tám ngành?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập
chánh tri kiến liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham,
liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ... tu tập chánh
định liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ
đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là Tỷ-kheo đầy đủ như lý tác ý, tu tập Thánh đạo Tám ngành,
làm cho sung mãn Thánh đạo Tám ngành.
II. Nhiếp Phục Tham
70.VIII. Bạn Hữu Với Thiện (2). Cho
đến
76.XVI. Như Lý (2) (S.v,34-35)
1) Ở Sàvatthi...
(Hoàn toàn giống như từ số 63 đến số 69).
Một Pháp Trung Lược
II
Tất cả đều nhân duyên ở Sàvatthi...
I. Liên Hệ Ðến Viễn Ly
77.I. Bạn Hữu Với Thiện (1) (S.v,35)
1) ...
2) -- Ta không thấy một pháp nào khác, do pháp ấy,
Thánh đạo Tám ngành chưa khởi lên được sanh khởi, hay Thánh đạo Tám ngành
khởi lên rồi được đi đến tu tập sung mãn. Pháp ấy tức là bạn hữu với
thiện.
3) Với Tỷ-kheo bạn hữu với thiện, này các
Tỷ-kheo, thời được chờ đợi Thánh đạo Tám ngành sẽ được tu tập,
Thánh đạo Tám ngành sẽ được làm cho sung mãn. Và này các Tỷ-kheo, như
thế nào Tỷ-kheo bạn hữu với thiện, tu tập Thánh đạo Tám ngành và
làm cho sung mãn Thánh đạo Tám ngành?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập
chánh tri kiến liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham,
liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ... tu tập chánh
định liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ
đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là Tỷ-kheo bạn hữu với thiện, tu tập Thánh đạo Tám ngành và làm cho
sung mãn Thánh đạo Tám ngành.
78-83.II-VII. (S.v,36)
(Như các đoạn trước với những thay đổi cần
thiết).
II. Nhiếp Phục Tham
84.VIII. Bạn Hữu Với Thiện (2) (S.v,37)
1) ...
2) -- Ta không thấy một pháp nào khác, này các
Tỷ-kheo, do pháp ấy, Thánh đạo Tám ngành được tu tập, được làm cho
viên mãn. Chính là bạn hữu với thiện.
3) Với Tỷ-kheo bạn hữu với thiện, này các
Tỷ-kheo, được chờ đợi Thánh đạo Tám ngành sẽ được tu tập, Thánh
đạo Tám ngành sẽ được làm cho sung mãn. Và này các Tỷ-kheo, như
thế nào là Tỷ-kheo bạn hữu với thiện, tu tập Thánh đạo Tám ngành
và làm cho sung mãn Thánh đạo Tám ngành?
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập
chánh tri kiến với cứu cánh là nhiếp phục tham, với cứu cánh là
nhiếp phục sân, với cứu cánh là nhiếp phục si... tu tập chánh định
với cứu cánh là nhiếp phục tham, với cứu cánh là nhiếp phục sân, với
cứu cánh là nhiếp phục si. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo
bạn hữu với thiện, tu tập Thánh đạo Tám ngành và làm cho sung mãn Thánh
đạo Tám ngành.
85-90.II-VII. (S.v,37)
(Như những đoạn trước với những thay đổi cần
thiết).
Hằng Hà Lược Thuyết
Tất cả đều nhân duyên ở Sàvatthi...
I. Liên Hệ Ðến Viễn Ly
91.I. Phương Ðông (1) (S.v,38)
1) ...
2) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, sông Hằng thiên
về hướng Ðông, hướng về hướng Ðông, xuôi về hướng Ðông.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo làm cho sung mãn Thánh đạo Tám
ngành, thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về
Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo tu tập Thánh
đạo Tám ngành, làm cho sung mãn Thánh đạo Tám ngành, thiên về
Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn?
3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập
chánh tri kiến liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham,
liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ... tu tập chánh
định liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ
đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này các Tỷ-kheo, như vậy
là Tỷ-kheo tu tập Thánh đạo Tám ngành, làm cho sung mãn Thánh đạo Tám
ngành, thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về
Niết-bàn.
92-96.II-VI. Hướng Ðông (2-6) (S.v,38-39)
(Như kinh 91, chỉ khác tên các con sông Yamunà,
Aciiravatii, Sarabuu, Mahii, các sông lớn như các sông Hằng, Yamunà, Aciiravattii,
Sarabhuu, Mahii...)
97-102.VII-XII. Biển (1-6) (S.v,39-40)
(Như các kinh 91-96, chỉ khác, ở đây là hướng về
biển, không phải hướng về hướng Ðông).
II. Nhiếp Phục Tham
103-108.I-VI. Hướng Ðông (1-6) (S.v,40)
109-114.VII-XII. Biển (1-6) (S.v,40)
1-2) ...
3) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập
chánh tri kiến với cứu cánh là nhiếp phục tham, với cứu cánh là
nhiếp phục sân, với cứu cánh là nhiếp phục si... (như trên với những
thay đổi cần thiết) ...
III. Nhập Vào Bất Tử (Amatogadha)
115-120.I-VI. Hướng Ðông (1-6) (S.v,41)
121-126.VII-XII. Biển (1-6) (S.v,41)
1-2) ...
3)-- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập
chánh tri kiến, nhập vào bất tử, hướng về bất tử, cứu cánh là bất
tử.