[55] Chương XI
 
Tương Ưng Dự Lưu (a)
 
-ooOoo-
I. Phẩm 
Veludvàra
1. I. Vua (S.v,342)
1-2) Sàvatthi. Ở đấy... nói như sau:
 
3) -- Dầu cho, này các Tỷ-kheo, một vị Chuyển 
luân vương làm chủ tể và cai trị bốn châu, sau khi thân hoại mạng chung, 
được sanh lên thiện thú, thiên giới, thế giới này, cộng trú với chư 
Thiên ở cõi Ba mươi ba; tại đấy, vị ấy trú trong rừng Nandana, được chúng 
Thiên nữ đoanh vây, được đầy đủ, được cung cấp, được bao bọc năm 
thiên dục công đức, nhưng không được đầy đủ bốn pháp; tuy vậy, vị ấy 
chưa được giải thoát khỏi địa ngục, chưa được giải thoát khỏi sanh vào 
loài bàng sanh, chưa giải thoát khỏi ngạ quỷ, và chưa thoát khỏi ác sanh, 
ác thú, đọa xứ.
 
4) Nhưng này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử, dầu 
muốn sống bằng các miếng ăn khất thực, đắp với y nhiều tấm 
(nantakàni); vị ấy đầy đủ bốn pháp. Và vị ấy được giải thoát khỏi địa 
ngục, được giải thoát khỏi sanh vào loài bàng sanh, được giải thoát khỏi 
cõi ngạ quỷ, được giải thoát khỏi ác sanh, ác thú, đọa xứ. Thế 
nào là bốn?
 
5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử 
thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: "Ðây bậc Ứng  
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, 
Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế 
Tôn".
6) Vị ấy thành tựu lòng tin bất động đối với Pháp: 
"Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có 
hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, 
được người trí tự mình giác hiểu".
 
7) Vị ấy thành tựu lòng tin bất động đối với chúng 
Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh là 
chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ tử của 
Thế Tôn. Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là 
bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, 
đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được chấp tay, là phước 
điền vô thượng ở đời".
 
8) Vị ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh ái 
kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị 
uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp 
thủ, đưa đến Thiền định.
 
9) Vị ấy thành tựu bốn pháp này.
 
10) Và này các Tỷ-kheo, có sự lợi đắc của bốn 
châu và sự lợi đắc của bốn pháp. Sự lợi đắc bốn châu không đáng giá 
(agahati) một phần mười sáu lợi đắc bốn pháp.
 
2. II. Thể Nhập (S.v,343)
1-2) ...
3) -- Thành tựu bốn pháp, này các Tỷ-kheo, vị Thánh 
đệ tử là bậc Dự lưu, không có thối đọa, quyết chắc chứng quả 
giác ngộ. Thế nào là bốn?
 
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử 
thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: "Ðây là 
bậc Ứng cúng,... 
Phật, Thế Tôn".
 
5-6) Ðối với Pháp... Ðối với Tăng...
 
7) Vị ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh ái 
kính... đưa đến Thiền định.
 
8) Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, vị 
Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc 
chứng quả giác ngộ.
 
9) Thế Tôn thuyết như vậy, Thiện Thệ 
thuyết vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
 
Ai có tín và giới,
 
Tịnh tín và thấy pháp,
 
Ðến thời chúng chín muồi,
 
Nhập Phạm hạnh, được lạc.
 
3. III. Dìghàvu (S.v,344)
 
1) Một thời, Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), Trúc 
Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
 
2) Lúc bấy giờ, cư sĩ Dìghàvu bị bệnh, đau đớn, 
bị trọng bệnh.
 
3) Rồi cư sĩ Dìghàvu thưa với cha là Jotika:
 
-- Hãy đi, thưa Cha, đi đến Thế Tôn, sau khi 
đến, nhân danh con, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: "Cư 
sĩ Dìghàvu, bạch Thế Tôn, bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, 
xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn". Rồi Cha hãy thưa như sau: 
"Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đi đến nhà cư sĩ 
Dìghàvu vì lòng từ mẫn!"
 
-- Ðược, này Con.
 
Gia chủ Jotika nghe lời cư sĩ Dìghàvu, đi đến 
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
 
4) Ngồi một bên, gia chủ Jotika bạch Thế Tôn:
 
-- Bạch Thế Tôn, cư sĩ Dìghàvu bị bệnh, đau 
đớn, bị trọng bệnh. Vị ấy cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và 
thưa như sau: "Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đi 
đến trú xứ cư sĩ Dìghàvu vì lòng từ mẫn!"
 
Thế Tôn im lặng nhận lời.
 
5) Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát đi đến trú 
xứ cư sĩ Dìghàvu; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. 
Ngồi xuống rồi, Thế Tôn nói với cư sĩ Dìghàvu:
 
-- Này Dìghàvu, Ông có kham nhẫn được chăng? Ông có 
chịu đựng được chăng? Có phải khổ thọ giảm thiểu, không có tăng 
trưởng? Có phải có dấu hiệu giảm thiểu, không tăng trưởng?
 
-- Bạch Thế Tôn, con không có thể kham nhẫn, con 
không có thể chịu đựng. Ðau đớn kịch liệt nơi con không có giảm 
thiểu, chúng tăng trưởng. Chúng có dấu hiệu tăng trưởng, không có 
dấu hiệu giảm thiểu.
 
6) -- Do vậy, này Dìghàvu, Ông hãy học tập như sau: 
"Ta sẽ thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: "Ðây là  
bậc Ứng Cúng... Phật, Thế Tôn. Ðối với Pháp... Ðối với chúng Tăng... 
Tôi sẽ thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến 
Thiền định"". Như vậy, này Dìghàvu, Ông cần phải học tập.
 
7) -- Bạch Thế Tôn, đối với bốn Dự lưu phần  
do Thế Tôn thuyết giảng, tất cả các pháp ấy đều có ở trong con. Con thực  
hiện chúng đầy đủ. Bạch Thế Tôn, con thành tựu lòng tin bất động đối với  
Phật: "Ðây là bậc Ứng Cúng... Phật, Thế Tôn... 
Ðối với Pháp... đối với chúng Tăng... Tôi thành tựu các giới được các 
bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định".
 
-- Do vậy, này Dìghàvu, sau khi Ông đã an trú trong bốn 
Dự lưu phần này, Ông hãy tu tập thêm sáu minh phần pháp (chavijjà-bhàgiye 
dhamme).
8) Ở đây, này Dìghàvu, Ông hãy trú, quán vô 
thường trong tất cả hành, quán khổ tưởng trong vô thường, quán vô ngã 
tưởng trong khổ, quán tưởng đoạn tận, quán tưởng ly tham, quán tưởng đoạn 
diệt. Như vậy, này Dìghàvu, Ông cần phải học tập.
 
-- Bạch Thế Tôn, đối với sáu minh phần pháp được 
Thế Tôn thuyết giảng này, chúng đều có ở trong con và con thực 
hiện chúng đầy đủ. Bạch Thế Tôn, con trú, quán vô thường trong tất 
cả hành, quán khổ tưởng trong vô thường, quán vô ngã tưởng trong khổ, quán 
tưởng đoạn tận, quán tưởng ly tham, quán tưởng đoạn diệt.
 
9) Nhưng, bạch Thế Tôn, con có ý nghĩ sau đây: 
"Ta không có muốn gia chủ Jotika, ở đây khi ta chết phải rơi vào khốn 
khổ (vighàta)".
 
-- Này Dìghàvu, chớ có tác ý như vậy! Hãy nhìn, 
này Dighàvu! Những gì Thế Tôn đang nói cho con, con hãy khéo tác ý.
 
10) Rồi Thế Tôn sau khi giáo giới cho cư sĩ Dìghàvu 
với lời giáo giới, từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.
 
11) Cư sĩ Dìghàvu, sau khi Thế Tôn ra đi không bao 
lâu liền mệnh chung.
 
12) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; 
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, 
các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
 
-- Bạch Thế Tôn, người cư sĩ tên là Dìghàvu; sau 
khi được nghe Thế Tôn giáo giới một cách tóm tắt, đã mệnh chung. 
Sanh thú cư sĩ ấy thế nào? Sanh xứ cư sĩ ấy chỗ nào?
 
-- Hiền minh, này các Tỷ-kheo, là cư sĩ 
Dìghàvu! Cư sĩ Dìghàvu thực hiện các pháp và tùy pháp, không làm 
phiền nhiễu Ta với những kiện tụng về pháp.
 
13) Cư sĩ Dìghàvu, sau khi đoạn diệt năm hạ phần 
kiết sử, được hóa sanh nhập diệt ở tại đấy, không còn trở lui 
thế giới này nữa.
 
4. IV. Sàriputta (1) (S.v,346)
 
1) Một thời, Tôn giả Sàriputta và Tôn giả 
Ànanda trú ở 
Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika.
 
2) Rồi Tôn giả Ànanda, vào buổi chiều, từ chỗ 
Thiền tịnh đứng dậy... ngồi xuống một bên, Tôn giả Ànanda 
thưa với Tôn 
giả Sàriputta:
 
3) -- Thưa Hiền giả Sàriputta, do nhân thành tựu bao 
nhiêu pháp, chúng sanh ở đời này được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự 
lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ?
 
-- Này Hiền giả, do nhân thành tựu bốn pháp nên 
chúng sanh ở đời này được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn 
bị thối đọa, quyết chắc sẽ chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?
 
4) Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử 
thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật... đối với Pháp... đối với 
chúng Tăng... đầy đủ các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa 
đến Thiền định.
 
5) Này Hiền giả, do nhân thành tựu bốn pháp này 
nên các chúng sanh ở đời này được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, 
không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.
 
5. V. Sàriputta (2) (S.v,347)
 
1) ...
2) Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến Thế Tôn; sau 
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói 
với Tôn giả Sàriputta đang ngồi một bên:
 
3) -- "Dự lưu phần, dự lưu phần", này 
Sàriputta, được nói đến như vậy. Này Sàriputta, thế nào là Dự lưu 
phần?
-- Thân cận bậc Chân nhân, bạch Thế Tôn, là Dự 
lưu phần. Nghe diệu pháp là Dự lưu phần. Như lý tác ý là Dự lưu 
phần. Thực hành pháp và tùy pháp là Dự lưu phần.
 
-- Lành thay, này Sàriputta! Lành thay, này Sàriputta! 
Thân cận bậc Chân nhân là Dự lưu phần... thực hành pháp và tùy pháp là Dự 
lưu phần.
 
4) "Dòng sông, dòng sông", này Sàriputta, 
được nói đến như vậy. Này Sàriputta, thế nào là dòng sông?
 
-- Bạch Thế Tôn, đây là dòng sông Thánh đạo Tám 
ngành. Tức là chánh tri kiến... chánh định.
 
-- Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Này Sàriputta, 
đây là dòng sông Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến... chánh 
định.
5) "Dự lưu, Dự lưu", này Sàriputta, được 
gọi là như vậy. Này Sàriputta, thế nào là Dự lưu?
 
-- Bạch Thế Tôn, ai thành tựu Thánh đạo Tám ngành 
này, người ấy gọi là Dự lưu, vị Tôn giả với tên như vậy, với họ 
như vậy.
 
-- Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Này Sàriputta, ai 
thành tựu Thánh đạo Tám ngành này, người ấy được gọi là bậc Dự lưu, 
vị Tôn giả với tên như thế này, với họ như thế này.
 
6. VI. Các Người Thợ Mộc (Thapataye) (S.v,348)
 
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
 
2) Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo đang làm y cho 
Thế Tôn, nghĩ rằng: "Khi y xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ ra đi, du 
hành".
3) Lúc bấy giờ, Isidatta và Puràna, hai người thợ mộc 
trú ở Sàdhuka vì một vài công việc phải làm. Hai người thợ mộc Isidatta 
và Puràna nghe rằng nhiều Tỷ-kheo đang làm y cho Thế Tôn, khi y làm 
xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ ra đi, du hành.
 
4) Rồi hai thợ mộc Isidatta và Puràna đặt một người 
đứng ở giữa đường và dặn:
 
-- Này Ông, khi nào Ông thấy Thế Tôn, bậc A-la-hán, 
Chánh Ðẳng Giác đi đến, hãy báo tin cho chúng tôi biết.
 
5) Sau khi đứng hai, ba ngày, người ấy thấy Thế Tôn 
từ xa đi đến, thấy vậy liền đi đến hai người thợ mộc Isidatta 
và Puràna và nói với họ:
 
-- Thưa Quý vị, bậc Thế Tôn ấy đã đến, 
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Nay là thời Quý vị nghĩ phải làm gì.
 
6) Rồi hai người thợ mộc Isidatta và Puràna đi đến 
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đi theo sau lưng 
Thế Tôn.
 
7) Rồi Thế Tôn đi xuống đường, đến một gốc 
cây; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Isidatta và Puràna 
đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, hai người thợ 
mộc Isidatta và Puràna bạch Thế Tôn:
 
8) -- Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: 
"Thế Tôn sẽ đi khỏi Sàvatthi để du hành giữa dân chúng 
Kosala"; khi ấy, chúng con không được hoan hỷ, có sự ưu buồn,  nghĩ 
rằng: "Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta". Và khi, bạch Thế Tôn, 
chúng con được nghe: "Thế Tôn đã đi khỏi Sàvatthi, đang du hành 
giữa dân chúng Kosala"; khi ấy, chúng con không được hoan hỷ, có sự 
ưu buồn, nghĩ rằng: "Thế Tôn đã ở xa chúng ta".
 
9) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: 
"Thế Tôn sẽ đi khỏi dân chúng Kosala để du hành giữa dân chúng 
Malla"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: 
"Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta". Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con 
được nghe: "Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Kosala, và đang du hành 
giữa dân chúng Malla"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn,  
nghĩ rằng: "Thế Tôn đã ở xa chúng ta".
 
10) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: 
"Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Malla để du hành giữa dân chúng 
Vajji"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: 
"Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta"; Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con 
được nghe: "Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Malla, và đang du hành 
giữa dân chúng Vajji"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn,  
nghĩ rằng: "Thế Tôn đã ở xa chúng ta".
 
11) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: 
"Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Vajji để du hành giữa dân chúng 
Kàsi"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: 
"Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta". Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con 
được nghe: "Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Vajji, và đang du hành 
giữa dân chúng Kàsi"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ  
rằng: "Thế Tôn đã ở xa chúng ta".
 
12) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: 
"Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Kàsi để du hành giữa dân chúng 
Magadha"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: 
"Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta". Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con 
được nghe: "Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Kàsi, và đang du hành 
giữa dân chúng Magadha"; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn,  
nghĩ rằng: "Thế Tôn đã ở xa chúng ta".
 
13) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: 
"Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Magadha để du hành giữa dân 
chúng Kàsi"; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, nghĩ rằng: "Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta". Khi chúng con được nghe: 
"Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Magadha và đang du hành ở 
Kàsi"; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, (nghĩ rằng): 
"Thế Tôn đã ở gần chúng ta".
 
14) ... "khỏi dân chúng Kàsi để du hành ở giữa 
dân chúng Vajji..".
 
15) ... "khỏi dân chúng Vajji để du hành ở giữa 
dân chúng Malla..".
 
16) ... "khỏi dân chúng Malla để du hành ở giữa 
dân chúng Kosala..".
 
17) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: 
"Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Kosala, để du hành giữa dân 
chúng Sàvatthi"; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, (nghĩ 
rằng): "Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta". Khi chúng con được nghe: 
"Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Thắng Lâm, khu vườn ông Anàthapindika"; 
khi ấy vô lượng là sự vui vẻ của chúng con, vô lượng là hoan hỷ của 
chúng con (nghĩ rằng): "Thế Tôn đã ở gần chúng ta".
 
18) -- Do vậy, này các người Thợ mộc, chật hẹp là 
đời sống ở gia đình, đầy những bụi đời! Phóng khoáng giữa trời là đời 
sống người xuất gia! Như vậy là vừa đủ, này các người Thợ mộc, để 
các Ông không có phóng dật.
 
19) -- Nhưng bạch Thế Tôn, ở đây chúng con có đàn 
áp khác, còn áp bức hơn, còn bội phần áp bức hơn.
 
-- Thế nào là sự đàn áp khác, này các người Thợ 
mộc, còn áp bức hơn, còn bội phần hơn?
 
20) -- Ở đây, bạch Thế Tôn, khi vua Pasenadi 
nước Kosala muốn đi ra viếng thăm khu vườn, thời các con voi của vua 
Pasenadi nước Kosala cần phải được chúng con chuẩn bị và trang sức, và các 
cung phi khả ái, khả ý của vua Pasenadi nước Kosala cần phải có chúng con 
đặt ngồi một người ngồi trước, một người ngồi sau. Bạch Thế Tôn, mùi 
hương của các cung phi ấy thật là thơm ngọt như một hộp nước hoa vừa 
được mở ra, các cung phi của vua được ướp với mùi thơm như vậy. Lại nữa, 
bạch Thế Tôn, thân xúc các cung phi này thật là mềm dịu như một túm 
bông hoa hồng, vì họ được nuôi dưỡng rất an lạc. Bạch Thế Tôn, 
trong lúc ấy, chúng con cần phải hộ trì cho voi, cần phải hộ trì cho các cung 
phi, cần phải hộ trì cho tự ngã nữa.
 
21) Dầu vậy, bạch Thế Tôn, chúng con không rõ 
biết sự khởi lên ái tâm đối với các cung phi ấy. Ðây, bạch Thế 
Tôn, là đàn áp khác, còn áp bức hơn, còn bội phần áp bức hơn!
 
22) -- Do vậy, này các người Thợ mộc, chật hẹp là 
đời sống ở gia đình, đầy những bụi đời! Phóng khoáng giữa trời là đời 
sống người xuất gia! Như vậy là vừa đủ, này các người Thợ mộc, để 
các Người không có phóng dật!
 
23) Này các người Thợ mộc, thành tựu bốn pháp, vị 
Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc 
chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?
 
24) Ở đây, này các người Thợ mộc, vị Thánh 
đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: "Ðây là 
bậc Ứng Cúng, ... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với chúng Tăng... 
Vị ấy sống ở gia đình, với tâm gột sạch cấu uế, xan tham. Vị ấy 
thường bố thí, bàn tay rộng mở, ưa thích từ bỏ, thích được nhờ cậy, 
thích thú chia xẻ vật được bố thí. Thành tựu bốn pháp này, này các người 
Thợ mộc, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, 
quyết chắc chứng quả giác ngộ.
 
25) Này các người Thợ mộc, các Người thành tựu lòng 
tin bất động đối với đức Phật: "Ðây là bậc Ứng Cúng, 
... Phật, Thế 
Tôn"... đối với Pháp... đối với chúng Tăng. Trong gia đình các Người, 
phàm có vật được bố thí nào, tất cả đều được chia xẻ hoàn toàn và 
vô tư cho những vị có trì giới và các thiện nhân.
 
26) Các Ông nghĩ thế nào, này các người Thợ mộc, 
có bao nhiêu người ở tại Kosala có thể ngang bằng các Ông về phần 
chia vật bố thí?
 
27) -- Thật lợi đắc cho chúng con, bạch Thế Tôn! 
Thật khéo lợi đắc cho chúng con, bạch Thế Tôn, được Thế Tôn 
biết chúng con như vậy!
 
7. VII. Những Người Ở Veludvàra (S.v,352)
 
1) Như vầy tôi nghe.
 
Một thời, Thế Tôn đang đi du hành giữa Kosala cùng 
với đại chúng Tỷ-kheo và đi đến một làng Bà-la-môn của dân chúng 
Kosala tên là Veludvàra.
 
2) Các Bà-la-môn gia chủ ở Veludvàra được nghe: 
"Sa-môn Gotama là Thích tử, đã xuất gia từ gia tộc họ Thích, đang đi 
du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo và đã đến 
Veludvàra". Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về 
Thế Tôn Gotama: "Ðây là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh 
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng 
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ 
thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với 
chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Sau khi chứng ngộ, Ngài 
thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện có nghĩa, có văn. 
Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn, đầy đủ, trong sạch. Tốt lành thay, 
sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy!"
 
3) Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Veludvàra đi đến 
Thế Tôn. Sau khi đến, một số đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một 
bên; một số nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm sau khi 
nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên; một 
số chấp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên 
với Thế Tôn tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên; một số im lặng 
ngồi xuống một bên.
 
4) Ngồi một bên, các Bà-la-môn gia chủ ở Veludvàra 
bạch Thế Tôn:
 
-- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi có ước vọng như 
thế này, có ước muốn như thế này, có chú tâm (adhippàya) như 
thế này: "Mong rằng chúng tôi được sống trong một nhà chật đầy trẻ 
con! Mong chúng tôi được sử dụng các hương chiên đàn từ Kàsi! Mong rằng 
chúng tôi được trang sức bằng vòng hoa và phấn sáp! Mong rằng chúng tôi 
được sử dụng vàng và bạc! Sau khi thân hoại mạng chung, mong rằng chúng tôi 
được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này!" Mong rằng Tôn giả 
Gotama hãy thuyết pháp cho chúng tôi, những người có ước vọng như 
vậy, có ước muốn như vậy, có chú tâm như vậy. Hãy thuyết pháp như 
thế nào để chúng tôi được sống trong một nhà chật đầy trẻ con, 
để chúng tôi được sử dụng các hương chiên đàn từ Kàsi... để 
chúng tôi, khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, thiên giới, cõi 
đời này.
 
5) -- Vậy này các Gia chủ, Ta sẽ thuyết cho các Ông 
một pháp môn đưa đến lợi ích (tự lợi cho tự ngã) (attuupanàyikam). Hãy 
nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
 
-- Thưa vâng, Tôn giả.
 
Các Bà-la-môn ở Veludvàra vâng đáp Thế Tôn. 
Thế Tôn nói như sau:
 
-- Này các Gia chủ, thế nào là pháp môn đưa 
đến lợi ích cho tự ngã?
 
6) Ở đây, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy 
nghĩ như sau: "Ta muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ. 
Nếu có ai đến đoạt mạng sống của ta, một người muốn sống, không 
muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, như vậy là một việc không khả ái, 
không khả ý đối với ta. Nhưng nếu ta đoạt mạng sống một người muốn 
sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, như vậy là một việc không 
khả ái, không khả ý đối với người ấy. Một pháp này không khả ái, 
không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho 
người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao 
ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy 
từ bỏ sát sanh, khuyến khích người khác từ bỏ sát sanh, nói lời tán 
thán từ bỏ sát sanh. Như vậy, về thân hành, vị ấy được hoàn toàn thanh 
tịnh (kotiparisuddham).
 
7) Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy 
tư như sau: "Nếu có ai lấy của không cho của ta, gọi là ăn trộm, 
như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu 
ta lấy của không cho của người khác, gọi là ăn trộm, như vậy là một 
việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả 
ái, không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý 
cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời 
sao lại đem cột pháp ấy cho người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy từ 
bỏ lấy của không cho, khuyến khích người khác từ bỏ lấy của không cho, 
nói lời tán thán từ bỏ lấy của không cho. Như vậy, về thân hành, vị ấy 
được hoàn toàn thanh tịnh.
 
8) Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy 
nghĩ như sau: "Nếu ai có tà hạnh với vợ của ta, như vậy là một 
việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta có tà hạnh 
với vợ của người khác, như vậy là một việc không khả ái, không khả 
ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời 
pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này 
không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho 
người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ tà hạnh trong các 
dục, khuyến khích người khác từ bỏ tà hạnh trong các dục, nói lời tán 
thán từ bỏ tà hạnh trong các dục. Như vậy, về thân hành, vị ấy được 
hoàn toàn thanh tịnh.
 
9) Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy 
nghĩ như sau: "Nếu có ai làm tổn hại lợi ích ta với lời nói láo, 
như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu 
ta cũng làm tổn hại lợi ích người khác với lời nói láo, như vậy là một 
việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời 
pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này 
không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho 
người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ nói láo, 
khuyến khích người khác từ bỏ nói láo, nói lời tán thán từ bỏ nói 
láo. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
 
10) Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy 
tư như sau: "Nếu có ai chia rẽ bạn bè ta bằng lời nói hai lưỡi,như 
vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta 
chia rẽ bạn bè người khác bằng lời nói hai lưỡi, như vậy là một việc 
không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời 
pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này 
không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho 
người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ 
bỏ nói hai lưỡi, khuyến khích người khác từ bỏ nói lời hai lưỡi, nói 
lời tán thán từ bỏ nói lời hai lưỡi. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy 
được hoàn toàn thanh tịnh.
 
11) Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy 
tư như sau: "Nếu có ai đối xử với ta bằng thô ác ngữ, như vậy là 
một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta cũng đối 
xử với người khác bằng thô ác ngữ, như vậy là một việc không khả ái, 
không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời 
pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này 
không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho 
người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ thô ác 
ngữ, khuyến khích người khác từ bỏ thô ác ngữ, nói lời tán thán từ bỏ 
thô ác ngữ. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
 
12) Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy 
tư như sau: "Nếu có ai đối xử với ta với lời tạp ngữ, với lời phù 
phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. 
Nhưng nếu ta cũng đối xử với người khác với lời tạp ngữ, với lời phù 
phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người 
ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời 
pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này 
không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho 
người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ lời nói phù phiếm, 
khuyến khích người khác từ bỏ nói lời phù phiếm, tán thán từ bỏ 
nói lời phù phiếm. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn 
thanh tịnh.
 
13) Vị ấy thành tựu lòng tin bất động đối với đức 
Phật: "Ðây là bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn".
 
14) ... đối với Pháp...
 
15) ... đối với chúng Tăng...
 
16) Vị ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh ái 
kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị điểm ố, không bị 
uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp 
thủ, đưa đến Thiền định.
 
17) Này các Gia chủ, khi nào vị Thánh đệ tử thành 
tựu bảy pháp này và bốn lời nguyện xứ này, nếu vị ấy muốn, vị ấy 
có thể tuyên bố về mình: "Ta đã đoạn tận địa ngục, đoạn tận 
khỏi sanh vào loại bàng sanh, đoạn tận cõi ngạ quỷ, đoạn tận ác sanh, 
ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, không có bị thối đọa, quyết 
chắc chứng quả giác ngộ".
 
18) Ðược nói vậy, các Bà-la-môn gia chủ ở Veludvàra 
bạch Thế Tôn:
 
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn... từ nay cho 
đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!
 
8. VIII. Giảng Ðường Bằng Gạch (1) (S.v,356)
 
1) Như vầy tôi nghe.
 
Một thời Thế Tôn ở Nàtika, trong ngôi giảng đường 
bằng gạch.
 
2) Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế Tôn; sau khi 
đến... bạch Thế Tôn:
 
-- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Sàlha đã mạng chung, 
sanh thú thế nào, thọ sanh chỗ nào? Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo-ni 
Nànda mệnh chung, sanh thú thế nào, thọ sanh chỗ nào? Bạch 
Thế Tôn, cư sĩ Sudatta mệnh chung, sanh thú thế nào, thọ sanh 
chỗ nào? Nữ cư sĩ Sujàtà mệnh chung, sanh thú thế nào, thọ 
sanh chỗ nào?
 
3) -- Tỷ-kheo Sàlha, này Ànanda, đoạn tận các lậu 
hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt 
và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Tỷ-kheo-ni Nànda, 
này Ànanda, mệnh chung, sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, 
được hóa sanh, từ chỗ ấy nhập Niết-bàn, không phải trở lui thế 
giới này. Cư sĩ Sudatta, này Ànanda, do đoạn diệt ba kiết sử, làm cho 
muội lược tham, sân, si, là bậc Nhất Lai, sau khi trở lui thế giới này một 
lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau. Nữ cư sĩ Sujàtà, này Ànanda, mạng chung, sau 
khi đoạn tận ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, 
quyết chắc chứng quả giác ngộ.
 
4) Này Ànanda, thật không có gì lạ vấn đề con 
người phải mệnh chung. Nhưng mỗi lần có người mệnh chung lại 
đến hỏi Như Lai về vấn đề này, thời này Ànanda, như vậy làm 
phiền nhiễu Như Lai. Này Ànanda, vì vậy Ta sẽ giảng pháp môn Pháp kính 
(gương Chánh pháp) để vị Thánh đệ tử sau khi thành tựu pháp môn 
này, nếu muốn, sẽ tự tuyên bố về mình như sau: "Ta đã đoạn tận 
địa ngục, đoạn tận khỏi sanh vào loài bàng sanh, đoạn tận cõi ngạ quỷ, 
đoạn tận ác sanh, ác thú, đọa xứ. Ta đã chứng quả Dự lưu, không còn 
bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ".
 
5) Này Ànanda, pháp môn Pháp kính ấy là gì mà Thánh 
đệ tử thành tựu pháp môn ấy, nếu muốn, sẽ tự mình tuyên bố về 
mình như sau: "Ta đã đoạn tận địa ngục... Ta đã chứng quả Dự lưu, 
không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ"?
 
6) Ở đây, này Ànanda, vị Thánh đệ tử thành 
tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: "Ðây là bậc 
Ứng Cúng, ... Phật, Thế Tôn"... với Pháp... với Tăng.... thành tựu các 
giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định.
 
7) Ðây là pháp môn Pháp kính, này Ànanda, thành tựu 
pháp môn này, vị Thánh đệ tử nếu muốn, tự mình tuyên bố về 
mình như sau: "Ta đã đoạn tận địa ngục, đoạn tận khỏi sanh vào loài 
bàng sanh, đoạn tận cõi ngạ quỷ, đoạn tận ác sanh, ác thú, đọa xứ. 
Ta là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác 
ngộ".
8) (Kinh này và hai kinh sau đều cùng một nhân 
duyên).
9. IX. Giảng Ðường Bằng Gạch (2) (S.v,358)
 
1-2) ... ngồi xuống một bên, Tôn giả 
Ànanda bạch Thế 
Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Asokà đã mệnh 
chung, sanh thú của vị ấy thế nào, sanh xứ chỗ nào? Bạch Thế Tôn, 
Tỷ-kheo-ni Asokà đã mệnh chung... Nam cư sĩ Asokà đã mệnh chung... 
Nữ cư sĩ Asokà đã mệnh chung, sanh thú của vị ấy thế nào, sanh xứ 
chỗ nào?
 
3-6) -- Này Ànanda, Tỷ-kheo Asokà đã mệnh chung, 
sau khi đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng 
trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải 
thoát... (như kinh trên 8, đoạn số 3 với Tỷ-kheo-ni Asokà, nam cư sĩ Asokà 
và nữ cư sĩ Asokà) ...
 
7) Này Ànanda, đây là pháp môn Pháp kính, thành tựu 
pháp môn này, vị Thánh đệ tử nếu muốn, tự mình tuyên bố về 
mình: "Ta đã đoạn tận địa ngục, ta đã đoạn tận khỏi sanh vào loài 
bàng sanh, ta đã đoạn tận cõi ngạ quỷ, ta đã đoạn tận ác sanh, ác 
thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết 
chắc chứng quả giác ngộ".
 
10. X. Ngôi Nhà Bằng Gạch (3) (S.v,358)
 
1-2) ... ngồi xuống một bên, Tôn giả 
Ànanda bạch Thế 
Tôn:
-- Cư sĩ ở Nàtika tên Kakkata đã mệnh chung, sanh 
thú của vị ấy thế nào, sanh xứ chỗ nào? Cư sĩ ở Nàtika tên Kàlinga, 
bạch Thế Tôn, đã mệnh chung, sanh thú của vị ấy thế nào, sanh xứ 
chỗ nào? Cư sĩ ở Nàtika tên Nikata... Cư sĩ Katissaha... Cư sĩ Tuttha... 
Cư sĩ Santuttha... Cư sĩ Dhadda... Cư sĩ Subhadda ở Nàtika, bạch Thế Tôn, 
đã mệnh chung, sanh thú của vị ấy thế nào, sanh xứ chỗ nào?
 
3) -- Cư sĩ Kakkata, này Ànanda, đã mệnh chung, sau 
khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ đấy nhập 
Niết-bàn, không còn phải trở lui cõi đời này. Cư sĩ Kàlinga, này 
Ànanda... Cư sĩ Nikata, này Ànanda... Cư sĩ Katissaha, này Ànanda... Cư sĩ Tuttha, 
này Ànanda... Cư sĩ Santuttha, này Ànanda... Cư sĩ Bhadda, này Ànanda... Cư 
sĩ Subhadda, này Ànanda, sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được 
hóa sanh, từ đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui cõi đời này 
nữa. Tất cả đều cùng một sanh thú.
 
4) Hơn năm mươi cư sĩ ở Nàtika, này 
Ànanda, đã 
mệnh chung, sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ 
đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui cõi đời này nữa. Hơn chín 
mươi nam cư sĩ ở Nàtika, này Ànanda, đã mệnh chung, sau khi đoạn diệt 
ba kiết sử, sau khi làm cho muội lược tham, sân, là bậc Nhứt Lai, sau khi 
trở lui thế giới này một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau. Năm trăm lẻ 
sáu nam cư sĩ ở Sàkata, này Ànanda, đã mệnh chung, sau khi đoạn diệt 
ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn thối đọa, quyết chắc chứng 
quả giác ngộ.
 
5-7) Này Ànanda, thật không có gì lạ vấn đề con 
người phải mệnh chung. Nhưng mỗi lần có người mệnh chung, Ông lại 
đến hỏi Như Lai về vấn đề này; thời này Ànanda, như vậy làm 
phiền nhiễu Như Lai... (xem trên 9, đoạn số 4,5,6,7) ... quyết chắc 
chứng quả giác ngộ. 
 
 
    II. Phẩm Một Ngàn, 
hay Vườn Vua 
 
11. I. Một Ngàn (S.v,360)
 
1) Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại khu vườn 
Ràjaka.
2) Rồi một chúng gồm một ngàn Tỷ-kheo-ni đi 
đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một 
bên.
3) Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo-ni đang đứng 
một bên:
 
-- Này các Tỷ-kheo-ni, vị Thánh đệ tử thành 
tựu bốn pháp là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc 
chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?
 
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo-ni, vị Thánh đệ 
tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: "Ðây là 
bậc Ứng Cúng, ... 
Phật, Thế Tôn".
 
5-6) ... đối với Pháp... đối với Tăng...
 
7) Vị ấy thành tựu các giới được bậc Thánh ái 
kính... đưa đến Thiền định.
 
8) Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo-ni, bậc 
Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc 
chứng quả giác ngộ.
 
12. II. Các Bà La Môn (S.v,361)
 
1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi.
 
3) -- Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn trình bày một 
đạo lộ hướng thượng (udayagàminim). Họ khuyến khích các đệ tử 
như sau: "Hãy đến, này các Ông! Sáng sớm dậy, hãy đi hướng mặt 
về phía Ðông. Chớ có tránh những lỗ hổng, lỗ trũng, khúc cây, 
chỗ có gai, hố nước nhớp, chớ có tránh đường mương. Nếu có rơi 
vào các chỗ ấy và đi đến chết, như vậy, này các Ông, sau khi 
thân hoại mạng chung, các Ông sẽ sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời 
này".
4) Nhưng này các Tỷ-kheo, con đường ấy của các 
Bà-la-môn là con đường của kẻ ngu, con đường của kẻ si, không đưa 
đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, 
Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, nay Ta trình bày một đạo lộ hướng thượng 
trong luật của bậc Thánh, và con đường ấy nhứt hướng đưa đến yếm 
ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và này 
các Tỷ-kheo, đạo lộ hướng thượng ấy là gì, đạo lộ đưa đến nhứt 
hướng yếm ly... Niết-bàn?
 
5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử 
thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: "Ðây là 
bậc Ứng Cúng, ...".... đối với pháp... đối với chúng Tăng... Vị ấy thành tựu các 
giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định.
 
6) Ðây là đạo lộ đưa đến hướng thượng, này 
các Tỷ-kheo,... nhứt hướng yếm ly... đưa đến Niết-bàn.
 
13. III. Ànanda (S.v,362)
1) Một thời, Tôn giả Ànanda và Tôn giả Sàriputta trú ở 
Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.
 
2) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi chiều, từ 
chỗ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Ànanda; sau khi đến, 
nói lên với Tôn giả Ànanda những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên 
những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, Tôn giả ngồi xuống một bên. Tôn giả 
Sàriputta nói với Tôn giả Ànanda:
3) -- Do đoạn tận những pháp nào, này Hiền giả 
Ànanda, do nhân thành tựu những pháp nào, quần chúng ở đời này được 
Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết 
chắc chứng quả giác ngộ?
 
4) -- Do đoạn tận bốn pháp, thưa Hiền giả, do nhân 
thành tựu bốn pháp, quần chúng ở đời này được Thế Tôn tuyên bố là 
bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ. 
Thế nào là bốn?
 
5) Kẻ vô văn phàm phu, này Hiền giả, không thành 
tựu tịnh tín đối với đức Phật, khi thân hoại mạng chung, sanh vào ác sanh, 
ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy là không có tịnh tín đối với đức 
Phật. Và vị Ða văn Thánh đệ tử, thưa Hiền giả, thành tựu tịnh tín 
bất động đối với đức Phật, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên 
thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Như vậy là tịnh tín bất động đối 
với đức Phật: "Ðây là bậc Ứng Cúng,... Phật, Thế Tôn".
 
6) Kẻ vô văn phàm phu, này Hiền giả, không thành 
tựu tịnh tín đối với Pháp, khi thân hoại mạng chung, sanh vào ác sanh, ác 
thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy là không có tịnh tín đối với Pháp. 
Và vị Ða văn Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với 
Pháp... Như vậy là tịnh tín bất động đối với Pháp: "Pháp được 
Thế Tôn khéo thuyết... chỉ người có trí mới giác hiểu".
 
7) Kẻ vô văn phàm phu, này Hiền giả, không thành 
tựu tịnh tín đối với chúng Tăng... Như vậy là tịnh tín bất động đối với 
chúng Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn... vô 
thượng phước điền ở đời".
 
8) Kẻ vô văn phàm phu, này Hiền giả, thành tựu ác 
giới... Như vậy là không có tịnh tín bất động... Như vậy tịnh tín bất 
động đối với các giới: "Các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa 
đến Thiền định".
 
9) Do đoạn tận bốn pháp này, này Hiền giả, do nhân 
thành tựu bốn pháp này, quần chúng ở đời này được Thế Tôn tuyên bố 
là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác 
ngộ.
14. IV. Ác Thú (1) (S.v,364)
 
1-2) ...
3) -- Do thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, 
vị Thánh đệ tử vượt qua sợ hãi của tất cả ác thú. Thế nào là 
bốn?
4-7) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ 
tử thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Ðây là 
bậc Ứng Cúng,... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với chúng 
Tăng... thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến 
Thiền định.
 
8) Do thành tựu bốn pháp này, vị Thánh đệ tử 
vượt qua sợ hãi của tất cả ác thú.
 
15. V. Ác Thú (2) (S.v,364)
 
1-2) ...
3) -- Do thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, 
vị Thánh đệ tử vượt qua sợ hãi của tất cả ác thú, đọa xứ. 
Thế nào là bốn?
 
4-7) ... (như đoạn số 4-7, kinh trên) ...
 
8) Do thành tựu bốn pháp này, vị Thánh đệ tử 
vượt qua sợ hãi của tất cả ác thú, đọa xứ...
 
16. VI. Thân Hữu (1) (S.v,364)
 
1-2) ...
3) -- Tất cả những ai, này các Tỷ-kheo, các Ông có 
lòng từ mẫn, và những người mà các Ông nghĩ cần phải nghe theo, những ai là 
bạn bè, hay thân hữu, hay bà con, hay cùng một huyết thống; tất cả những 
vị ấy, này các Tỷ-kheo, cần phải được khuyến khích, phải được áp 
đặt, phải được an trú trong bốn Dự lưu phần. Thế nào là bốn?
 
4) Họ cần phải được khuyến khích, phải được 
áp đặt, phải được an trú vào tịnh tín bất động đối với đức Phật: 
"Ðây là bậc Ứng Cúng,... Phật, Thế Tôn"... đối với 
Pháp... đối với Tăng... đối với các giới được các bậc Thánh ái kính... 
đưa đến Thiền định.
 
5) Những ai mà các Ông có lòng từ mẫn, này các 
Tỷ-kheo, những ai mà các Ông nghĩ là cần phải nghe theo, các bạn bè, hay 
thân hữu, hay bà con, hay cùng một huyết thống; các người ấy cần phải 
được khuyến khích, cần phải được áp đặt, cần phải được an trú trong 
bốn Dự lưu phần này.
 
17. VII. Bạn Bè Thân Hữu (2) (S.v,365)
 
1-2) ...
3) -- Những ai, này các Tỷ-kheo, các Ông có lòng từ 
mẫn, những ai mà các Ông nghĩ rằng cần phải nghe theo, các bạn bè, thân hữu, 
hay bà con, hay cùng một huyết thống; các người ấy cần phải được các 
Ông khuyến khích, áp đặt, an trú trong bốn Dự lưu phần. Thế nào là 
bốn?
4) Cần phải khuyến khích, cần phải áp đặt, cần 
phải an trú trong tịnh tín bất động đối với Phật: "Ðây là 
bậc Ứng Cúng,... Phật, Thế Tôn". Dầu cho, này các Tỷ-kheo, bốn đại 
chủng địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại có đổi khác, nhưng nhất 
định không có thay đổi trong vị Thánh đệ tử đã thành tựu tịnh tín 
bất động đối với đức Phật. Ở đây, sự đổi khác có nghĩa là: Một 
Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động như vậy sẽ sanh vào địa 
ngục, hay vào loài bàng sanh, hay vào hàng ngạ quỷ; sự kiện như vậy 
không xảy ra.
 
5-6) ... đối với Pháp... đối với Tăng.
 
7) Cần phải khuyến khích, cần phải áp đặt, cần 
phải an trú vào các giới được các bậc Thánh ái kính. Dầu cho, này các 
Tỷ-kheo, bốn đại chủng địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại có 
đổi khác; nhưng nhất định không có sự đổi khác trong vị Thánh đệ tử 
đã thành tựu tịnh tín bất động đối với các giới được các bậc Thánh ái 
kính. Ở đây, sự đổi khác có nghĩa là vị Thánh đệ tử thành tựu 
các giới được các bậc Thánh ái kính, sẽ sanh vào địa ngục, hay các loài 
bàng sanh, hay các ngạ quỷ; sự kiện như vậy không xảy ra.
 
8) Những ai mà các Ông có lòng từ mẫn, này các 
Tỷ-kheo,... an trú trong bốn Dự lưu phần.
 
18. VIII. Du Hành Chư Thiên (S.v,366)
 
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
 
2) Rồi Tôn giả Mahà Moggalàna, như nhà lực sĩ duỗi 
ra cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy, Tôn 
giả biến mất ở Jetavana và hiện ra ở cõi trời Ba mươi ba.
 
3) Rồi một số đông chư Thiên cõi Ba mươi ba đi 
đến Tôn giả Mohà Moggalàna; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Mahà 
Moggalàna rồi đứng một bên. Tôn giả Mahà Moggalàna nói với chư Thiên đang 
đứng một bên:
 
4) -- Lành thay, chư Hiền, là sự thành tựu tịnh tín 
bất động đối với đức Phật: "Ðây bậc Ứng Cúng,... Phật, Thế 
Tôn". Do nhân thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật, như 
vậy ở đây, một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên 
thiện thú, thiên giới, cõi đời này.
 
5-6) Lành thay, chư Hiền, là tịnh tín bất động 
đối với Pháp... đối với chúng Tăng...
 
7) Lành thay, chư Hiền, là sự thành tựu các giới 
được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định. Do nhân thành 
tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, chư Hiền, như vậy ở đây, 
một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, 
thiên giới, cõi đời này.
 
8) -- Lành thay, Tôn giả Moggalàna, là sự thành tựu 
lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Ðây là 
bậc Ứng Cúng,... Phật, 
Thế Tôn". Do nhân thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức 
Phật, thưa Tôn giả Moggalàna, như vậy ở đây, một số chúng sanh, sau khi thân 
hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này.
 
9-11) Lành thay, Tôn giả Moggalàna, là sự thành tựu 
tịnh tín bất động đối với Pháp... đối với chúng Tăng... các giới được 
các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định. Do nhân thành tựu các 
giới được các bậc Thánh ái kính, thưa Tôn giả Moggalàna, như vậy ở đây, 
một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, 
thiên giới, cõi đời này.
 
19. IX. Thăm Viếng Chư Thiên (1) (S.v,367)
 
1) Một thời Tôn giả Mahà Moggalàna trú ở Sàvatthi, 
Jetavana, tại khu vườn của ông Anàthapindika.
 
2-7) Rồi Tôn giả Moggalàna, như người lực sĩ... (như 
trên) ...
 
8-11) ... (như trên) ... một số chúng sanh, sau khi thân 
hoại mạng chung, được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này.
 
20. X. Thăm Viếng Chư Thiên (2) (S,v,357)
 
(Giống như kinh 18, chỉ khác, đây là Thế Tôn, 
không phải Mahà Moggalàna) ...