QUYỂN THƯỢNG
---o0o---
Nói Rõ Về
Sắc Thân
Vốn vĩ! Bốn đại (1) đều không, năm uẩn (2) chẳng
có. Do không dấy vọng, vọng thành sắc, sắc tự chân không: nên
vọng từ không, không hiện vọng, vọng sinh các sắc. Đã trái không
sinh không hóa, nên mãi có hóa có sinh. Không sinh hóa thời không
hóa không sinh; có hóa sinh, nên có sinh có hóa. Hoặc sinh thánh
hiền, ngu trí; hoặc hóa vẩy cánh lông sừng. Luôn luôn rạt đắm
ở bến mê, mãi mãi nổi chìm trong biển khổ. Lờ mờ mù mịt, nào
biết nào hay; lo lắng vội vàng, chẳng tình chẳng ngộ. Hết chỉ buông
lòng trôi khắp, đều không xỏ mũi kéo về. Khiến đến qua lại sáu
đường (3), xuống lên bốn núi. Bốn núi là: sinh, lão, bệnh, tử.
Nay lần lượt trình bày bốn núi để lại đời sau:
Kệ Bốn Núi
Tranh vanh bốn núi vạn cây tùng
Liễu ngộ đều không vạn vật không
Ba cẳng lừa kia mừng vướng đó (4)
Cỡi lên thẳng tới đỉnh non bồng.
Tứ Sơn kệ
Tứ sơn tiễu bích vạn thanh tùng
Ngộ liễu đô vô vạn vật không
Hỉ đắc lư nhi tam cước tại
Mịch k?đả sấn thướng cao phong
*
Núi thứ nhất là tướng sinh. - Vì sai một niệm, nên
hiện nhiều bề. Gởi hình hài nhờ tinh huyết mẹ cha, nuôi thai nghén
nhờ âm dương hai khí. Trong tam tài (5) người đứng giữa, đối vạn
vật loài rất thiêng. Chẳng kể kẻ trí người ngu, đều thuộc trong
bào thai nghén; hỏi chi một người trăm họ, cùng về lo bễ (trời
đất) nấu nung. Hoặc mặt trời nêu thánh chúa giáng sinh, hoặc các
sao ứng tôi hiền xuất hiện. Văn bút quét ngàn quân chiến địa,
võ lược thu trăm trận công lao. Trai khoe ném quả bởi dáng tươi
(6), gái cậy nghiêng thành (7) vì vẻ đẹp. Thoạt cười, người mất
nước; cười tiếp kẻ nghiêng thành. Tranh đẹp khoe danh, ganh hay giành
lạ. Xem ra vẫn vòng luân hồi, rốt cuộc cũng đường sinh hóa.
Tướng sinh người ấy, năm là mùa xuân. Ba dương (8) mở thêm vận
thái, muôn vật rực rỡ mầu tươi. Một trời trong sáng, nơi nơi
liễu thắm hoa hồng; muôn dặm phong quang, chốn chốn oanh kêu bướm
lượn.
Kệ Rằng:
Trời đất (9) nấu nung vạn vật thành
Bản lai không mống cũng không manh
Bởi sai có niệm quên vô niệm
Nên trái không sinh chịu hữu sinh
... Mũi lưỡi tham hương say đắm vị
Mắt tai ưa sắc chuộng âm thanh
Phong trần khách nọ lang thang mãi
Ngày vắng quê hương muôn dặm trình.
(Chân tể huân đào vạn tượng thành
Bản lai phi triệu hựu phi manh.
Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm
Khước bội vô sinh thụ hữu sinh
Tị trước chư hương, thiệt tham vi
Nhăn manh chúng sắc, nhĩ văn thanh
Vĩnh vi lăng đăng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý trình)
*
Núi thứ hai là tướng già. - Hình dung thay đổi, khí
huyết suy vi. Dáng gầy tuổi cao, ăn uống mắc nghẹn. Mái xanh má đỏ,
đổi thành tóc bạc da gà; ngựa trúc áo hoa, lại thêm gậy cưu (10),
xe cói (11). Ví khiến Ly-Lâu (12), mắt sáng, nhìn sắc không rành; Dẫu
rằng Sư-Khoáng tai thông (13) nghe tiếng chẳng biện. Tiều tụy như liễu
bồ thu tới, xác xơ tựa hoacỏ xuân qua. Trời chiều sắp gác non
đoài, nước chảy rót về đông hải. Tướng người già ấy, mùa
hạ trong năm. Trời nóng nứt đá, làm muôn vật đều khô; nắng
gắt chảy vàng, khiến trăm sông hầu cạn. Hoa tàn liễu rạc, trong
vườn bờ lạch há giữ lâu; bướm lượn oanh bay, dưới lá đầu
cành đâu nhộn mãi.
Kệ Rằng
Con người kiếp sống tựa phù âu
Thọ yểu an bài nõ phải cầu
Cảnh giục nương dâu trời ngả tối
Thân như bồ liễu tạm qua thâu (thu)
Chàng Phan (14) ngày ấy còn xanh tóc
Lã-Vọng (15) năm nay đã bạc đầu
Cuồn cuộn sự đời trôi chẳng đoái
Vầng ô gác núi nước suôi trào.
(Nhân sinh tại thể nhược phù âu
Thọ yểu nhân thiên mạc vọng cầu
Cảnh bức tang du tương hướng vãn
Thân như bồ liễu tạm kinh thâu
Thanh điêu tích nhật Phan-Lang mấn
Bạch biến đương niên Lã-Vọng đầu
Thế sự thao thao hồn bất cổ
Tịch dương tây khứ thủy đông lưu).
*
Núi thứ ba là tướng bệnh. - Tuổi cao gìa yếu, tật
ngấm cao hoang; Bốn chi mỏi mệt, mạch lạc khó thông; trăm đốt rã
rời lạnh nóng chẳng thuận. Tính chân thường đã mất, nguồn điều
xướng cũng sai. Đứng ngồi khó khăn, co ruỗi đâu khổ. Mạng tựa
ngọn đèn trước gió, thân như bọt nước trên ao. Tâm sinh bóng
quỷ lô nhô, mắt thấy hoa không lốm đốm. Hình hài gầy yếu, ai là
Biển-Thước (16) thuốc hay; dáng vóc suy vi, ai kẻ Lư-Nhân (17) chữa
khỏi. Bạn bè luống công thăm viếng, anh em uống sức phù-trì. Bệnh
nặng thì nhiều tháng chẳng lành, cảm xoàng cũng hàng tuần chưa
khỏi. Tướng bệnh người ấy, mùa thu trong năm. Gặp lúc sương muối
vừa rơi, tới kỳ cỏ cây đều héo. Xum xuê rừng rậm, gió thu một
trận thấy lơ thơ; biêng biếc non xanh, giọt móc mới sa thêm trơ
trụi.
Kệ Rằng:
Âm dương họa phúc vốn xoay vần
Reo rắc tai ương tới thế nhân
Đại để có thân thì có bệnh
Nhược bằng không bệnh cũng không thân
Thuốc tiên nào thấy ai còn mãi
Lương dược xem ra cũng hết xuân
Sớm nguyện lánh xa ma cảnh giới
Quay về tâm đạo dưỡng thiên chân
(Âm dương khiên đức bản tương nhân
Biến tác tai truân cập thế nhân
Đại để hữu thân phương hữu bệnh
Nhược hoàn vô bệnh diệc vô thân
Linh đan mạn thác trường sinh thuật
Lương dược nan linh bất tử xuân
Tảo nguyện viễn ly ma cảnh giới
Hồi tâm hướng đạo dưỡng thiên chân)
Núi thứ tư là tướng tử. - Bệnh khi trầm trọng,
mệnh mới cáo chung. Tuổi thọ mong hưởng hạn trăm năm, thân thể
bỗng thành trong giấc mộng. Thông minh trí tuệ, khó tránh đại hạn
đến ngày; sức mạnh oai hùng, sao chống vô thường khi tới. Vợ
trinh thiếp thuận, bỗng thành đặc biệt đau thương; anh kính em hiền,
vội phải trọn đời xa cách. Vật mình lăn đất, vỗ trán kêu
trời. Tường vẽ, nhà rộng để làm chi, chứa ngọc chất vàng dùng
gì nữa. Dạ đài (18) tối mịt, luống nghe gió bấc vi vu; tuyền lộ (19)
then cài, chỉ thấy mây sầu, ảm đạm. Tướng tử người ấy, mùa
đông trong năm. Càn Khôn ứng Thái-tuế trọn vòng (20), nhật nguyệt
hướng Huyền-hiều hội tụ (21). Âm tinh cực thịnh, khắp trời mưa
tuyết lại bay mù; dương khí dần tan, nơi chốn nước ngưng thêm buốt
lạnh.
Kệ Rằng:
Dồn dập cuồng phong khắp mọi nơi
Ngư ông say tứ mặc thuyền trôi
Bốn bề mây phủ mầu đen kịt
Một dải sóng gầm tiếng trống hồi
Xoay chuyển ỳ ầm xe sấm động
Tung bay sầm sập trận mưa rơi
Tạm thời bụi cuốn chân trời sáng
Đêm vắng trăng theo bóng nước soi
(Bãi đãng cuồng phong quát địa sinh
Ngư ông túy lý điếu chu hoành
Tứ thùy vân hợp âm mai sắc
Nhất phái ba phiên cổ động thanh
Vũ cước trận thôi phiêu lịch lịch
Lôi xa luân chuyển nộ oanh oanh
Tạm thời trần liễm thiên biên tĩnh
Nguyệt lạc trường giang dạ kỷ canh)
*
Chú Thích:
(1) Bốn đại: 1. Địa đại, 2. Thủy đại, 3. Hỏa
đại, 4. Phong đại.
(2) Năm uẩn: 1. Sắc uẩn, 2. Thụ uẩn, 3. Tưởng
uẩn, 4. Hành uẩn, 5. Thức uẩn.
(3) Sáu đường: 1. Trời, 2. Người, 3. A-tu-la, 4.
Địa ngục, 5. Ngã quỷ, 6. Súc sinh.
(4) Ba cẳng lừa kia: Dịch ở chữ "Lư nhi tam
cước". Xuất xứ từ câu chuyện: Có vị Tăng hỏi Dương-Kỳ
Thiền-Sư: Thế nào gọi là Phật? Thiền-sư đáp: "Con lừa ba cẳng
nhảy tung tăng" (Tam cước lư nhi để lộng hành). Vậy lư nhi tam
cước là nhân cách hóa cho linh tính, Phật-tính hay bản lai diện mục.
(5) Tam tài: Thiên, địa, nhân.
(6) Ném quả: Sách Tấn, truyện Phan-Nhạc. Nhạc
người rất đẹp trai, lúc thiếu thời, thường ôm đàn đi dạo
đường phố Lạc-Dương; phụ nữ gặp đều vây quanh, ném quả vào
đầy xe. Người sau nói về vẻ đẹp của thiếu niên phần nhiều dùng
điển này.
(7) Nghiêng thành: Dịch ở chữ "Khuynh quốc
Khuynh thành". Sách Hán chép: Phương bắc có một giai nhân tuyệt
đẹp mà vẫn ở một mình. Nở nụ cười đầu làm nghiêng thành
người, nụ cười tiếp làm nghiêng nước người (nhất tiếu khuynh
nhân thành, tái tiếu khuynh nhân quốc).
(8) Ba dương nở thêm vận thái: Dịch ở chữ
"Tam dương hanh thái" cũng gọi "Tam dương giao thái". Vì
tam dương thuộc quẻ Càn (hình)
có ba hào dương. Quẻ Càn thuộc tháng Giêng, lại giao với quẻ
Thái (hình) . Thái là quẻ hanh thông, ví có "càn" ở
dưới "khôn" ở trên, âm dương giao hòa, nên vạn sự
hanh-thông. Tam dương hanh thái cũng là lời chúc đầu xuân.
(9) Trời đất: Dịch ở chữ "Chân Tể",
nghĩa là tạo vật, chủ tể của trời đất (danh từ Đạo giáo).
(10 Gậy Cưu: Gậy của người già, đầu gậy có
khắc hình chim cưu.
(11) Xe cói: Lấy cỏ bọc bánh xe để người già
ngồi cho êm.
(12) Ly-Lâu: Tên người, cũng gọi là Ly-Chu,
người thời vua Hoàng-Đế, có con mắt sáng, nhìn xa ngoài trăm
bước, mà thấy từng mẩy lông.
(13) Sư-Khoáng: Tên một nhạc sư đời Tấn, thời
Xuân-Thu, tên chữ là Tử-Dã, có thể nghe tiếng nhạc mà biết
được cát, hung.
(14) Chàng Phan: Tức Phan-Nhạc đời Tấn.
(15) Lã-Vọng: Còn gọi là Thái-Công-Vọng
Lã-Thượng. Lã-Thượng người đất Đông-Hải thời nhà Chu, vốn
là họ Khương, trước đó được phong Lã, nhân thể gọi là
Lã-Thượng, tên chữ là Tử-Nha, hoặc Thái-công-vọng, quân-sư vua
Văn-Vương đánh Trụ, diệt nhà Ấn, có đại công bình đình thiên
hạ.
(16) Biển-Thước: Tên một danh y thời vua
Hoàng-Đế.
(17) Lư-Nhân: Cũng gọi là Biển-Thước, một
thầy thuốc giỏi, trị bệnh chẩn mạch, thấy suốt được ngũ tạng,
họ Tần tên là Việt-Nhân. Thầy thuốc ở đất Lư, nên đời gọi
là Lư-Y hoặc Lư-Nhân.
(18) Dạ-đài: Tức là mộ-địa, mả, tha ma.
(19) Tuyền-đài: Cũng là phần mộ.
(20) Thái-Tue? Sao Thái-Tuế, cũng là tên riêng
của Mộc-Tinh, cứ 12 năm xoay quanh mặt trời một vòng.
(21) Huyền-Hiều: Sao Huyền-Hiều, ở phương bắc
gồm một chòm sao: Hư, Nguy, Nữ, Tú. Sao Hư ở chính bắc, phương bắc
mầu huyền nên gọi là Huyền-Hiều. Hiều cũng gọi là hào, có ý
nghĩa hư hao, ngôi sao xấu. Lần lượt 12 sao ứng vào 12 tháng, là
những tháng nhật nguyệt tụ hội. Sao Huyền-Hiều ở tháng Tý tức
tháng 11, tháng trọng-đông.
---o0o---