QUYỂN THƯỢNG
---o0o---
Bài Tựa Sách Thiền Tông Chỉ
Nam
Trẫm trộm nghĩ: Phật không chia Nam, Bắc, đều có thể
tu cầu. Tính đều có trí ngu, cùng giúp phần giác-ngộ. Đó là,
Phương-tiện dụ dẫn quần mê, đường tắt tỏ nẻo sinh tử, là
đại-giáo của đức Phật ta. Làm cán cân cho hậu thế, làm khuôn
phép cho tương lai, là trọnh trách của bậc tiên thánh. Nên Lục-Tổ
nói: "Bậc Thánh-nhân xưa cùng với đại-sư không khác".
Thời biết, giáo pháp của đức Phật ta, lại nhờ vào thánh-nhân
xưa để truyền ở đời. Nay trẫm sao lại chẳng lấy cái trách nhiệm
của tiên thánh làm trách nhiệm của mình. Đem giáo-lý của đức
Phật làm giáo-lý của mình vậy ư!
Vả lại, Trẫm khi còn trẻ thơ, ở tuổi hiểu biết,
hễ được nghe lời dạy của thiền-sư, thời trầm tư mặc tưởng,
hồn-nhiên thanh-tịnh, lưu tâm ở nội-giáo, tham cứu ở Thiền-tông,
quên mình tìm thầy, tinh thành mến đạo. Tuy cái ý hồi tâm hướng
đạo đã manh nha, nhưng cái cơ cảm-xúc vẫn chưa đạt được.
Vừa lúc 16 tuổi, Thái-hậu từ giã cõi đời, trẫm
thường nằm rơm gối đất, lệ huyết tuôn rơi, ruột đau như cắt.
Ngoài nỗi buồn khổ ra, chưa rảnh rỗi làm việc khác. Chỉ khoảng vài
năm sau, Thái-Tổ Hoàng-đế (1) lại kế tiếp yên-giá (qua đời).
Mến tiếc mẹ chưa khuây, xót thương cha càng thiết. Thê thảm bồn
chồn, khôn nguôi lòng dạ. Trẫm nghĩ công cha mẹ đối với con, nuôi
nấng vỗ về, chăm sóc đủ thứ, dù có thân xát xương tan cũng
chưa đủ để báo đền công ân đó trong muôn một. Hơn nữa, Trẫm
nghĩ Thái-Tổ Hoàng-đế, rất gian nan việc mở nền dựng nhiệp, rất
quan-trọng việc trị nước giúp đời, đem đại-khí trao cho trẫm khi
còn thơ dại, ngày đêm nơm nớp lo sợ, đứng ngồi không yên (2).
Trẫm tự nhủ rằng: "Trên đã không cha mẹ để nương nhờ,
dước sợ chẳng đủ đáp lòng mong ngóng thành thật của lê-dân,
vậy biết làm thế nào đây"? Trẫm suy nghĩ: "Chi bằng hãy lui
về chốn núi rừng, tìm hiểu Phật-giáo, để tỏ rõ việc lớn của
sinh tử, để báo đáp đức cức cù-lao, chẳng cũng tốt lắm
sao"!
Bởi thế, chí Trẫm đã quyết định. Năm thứ 5, niên
hiệu Thiên-ứng Chính-Bình vào đêm mồng 3 tháng 4 năm Bính-thân
(1236), Trẫm mặc áo thường đi ra cửa cung, bảo tả hữu rằng:
"Trẫm muốn ra ngoài thành du-ngoạn, lắng nghe tiếng nói của dân,
xem chí nguyện của dân, ngõ hầu mới biết được sự gian-nan của
họ". Lúc đó tả hữu theo bên Trẫm chẳng quá bẩy tám người.
Vào giờ Hợi đêm ấy, Trẫm một mình một ngựa cất bước ra đi.
Sang sông đi về phía đông, Trẫm mới thật tình bảo
cho những người theo hầu biết. Họ rất ngạc nhiên đều ứa hai
hàng lệ. Giờ Mão ngày hôm sau, đi đến bến đò Đại-Than núi
Phả-Lại, Trẫm sợ có người biết, phải lấy áo che mặt qua sông,
rồi theo đường núi mà đi. Núi hiễm suối sâu, trèo lội chật
vật, ngựa mệt mỏi không thể tiến bước, Trẫm phải bỏ ngựa, vịn
vào vách đá mà đi mãi tới giờ Mùi mới đến sườn núi
Yên-Tử. Sáng hôm sau, Trẫm leo thẳng lên đỉnh núi, tham-kiến
Trúc-Lâm Đại Sa-môn Quốc-sư (3). Quốc-sư chợt thấy mừng rỡ, ung
dung bảo Trẫm rằng:
"Lão-Tăng ở nơi núi rừng, xương cứng dáng
gầy, ăn quả cây, nếm lá ngọt, uống nước suối, vui cảnh rừng,
tâm tựa mây trôi, theo gió mà đến. Nay Bệ-hạ bỏ cái thể
nhân-chủ, nghĩ đến cảnh núi rừng, hẳn có điều mong cầu chi mà
đến đây vậy"! Trẫm nghe lời Quốc-sư nói, bỗng nhiên nước
mắt ràn rụa, thưa với Quốc-sư rằng:
"Trẫm tuổi còn thơ dại, vội mất song thân. Đứng
một mình trên đám sĩ dân, không chỗ nương tựa. Lại nghĩ tới
sự-nghiệp của đế-vương đời trước, hưng phế, thịnh suy bất
thường, nên Trẫm nay vào núi đây, chỉ mong cầu làm Phật, chẳng
cầu vật gì khác".
Quốc-sư đáp: "Trong núi vốn không có Phật, Phật
chỉ có trong tâm. Tâm vẳng lặng mà biết, đó gọi là Chân-Phật.
Nay Bệ-hạ nếu ngộ được tâm ấy, thời tức khắc thành Phật,
không phải nhọc công tìm đâu xa".
Bấy giờ, Trần-Công (4) là thúc-phụ của Trẫm, em họ
đấng tiên-quân, được tiên quân ký thác con côi, sau khi ngài từ
giã cõi đời và quần thần, được Trẫm phong chức Thái-sư tham
chính việtc nước. Nghe tin Trẫm ra đi, Thái-sư bèn sai tả hữu chia
ngả đi khắp nơi để tìm tung tích. Tất cả mọi người đã tìm đến
núi này, đã cùng gặp nhau.
Trần-Công thống thiết nói: "Bầy tôi chịu lời
ủy thác của đấng tiên-quân, thờ Bệ-hạ làm chủ thần-dân, dân
trông chờ mong đợi ở Bệ-hạ, như con đỏ mong cha mẹ. Nữa là
hiện nay bậc cố-lão trong triều-đình, đều là những người trong
họ hàng thân thích. Lê-dân sĩ-thứ đều cùng vui mừng qui thuận.
Ngay như đứa trẻ 7 tuổi, 8 tuổi cũng đều biết Bệ-hạ làm cha mẹ
dân. Vả lại, Thái-Tổ bỏ bày tôi ra đi, đất trên nấm mồ chưa
khô, lời di chúc còn vẳng bên tai. Mà nay, Bệ-hạ lại dấu
hình-tích trong núi rừng, ẩn-cư để thỏa chí riêng mình. Cứ theo ý
thần, Bệ-hạ làm kế tự-tu có thể được, nhưng còn quốc-gia
xã-tắc thì sao? Xem ra, lấy lời nói suông để chỉ bảo người sau,
chi bằng lấy thân mình vì thiên-hạ làm trước. Bệ-hạ nếu không
nghĩ lại, bọn thần cùng mọi người, xin cùng chết ngày nay, quyết
chí không quay trở về.
Trẫm thấy Thái-sư và các cố-lão quần thần, không
có ý định bỏ Trẫm. Trẫm bèn đem lời nói đó thưa với Quốc-sư.
Quốc-sư nắm tay Trẫm và nói: "Phàm làm đấng nhân-quân, phải
lấy ý muốn của thiên-hạ làm ý mình. Nay thiên-hạ muốn đón
Bệ-hạ về triều, Bệ-hạ không thể không trở về được. Song,
việc tham cứu nội điển, xin Bệ-hạ luôn luôn để tâm, chớ quên.
Bởi thế, Trẫm cùng mọi người lại trở về Kinh,
miễn-cưỡng bước lên ngôi báu. Trong khoảng thời gian mười mấy
năm, phàm gặp cơ hội việc nước nhàn rỗi, Trẫm thường tụ tập
các bậc kỳ đức để tham thiền hỏi đạo và nghiên cứu các kinh
điển đại-giáo. Trẫm thường đọc kinh Kim-Cương, có lần đọc đến
câu: "Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm" (không nên trụ
trước nơi nào, mới sinh được tâm chân chính), vừa lúc bỏ
quyển trầm ngâm, bỗng nhiên tự ngộ. Trẫm đem chỗ ngộ đó mà
làm ra bài ca ca này, đề tên là "Thiền-Tông Chỉ-Nam". Năm
ấy, Quốc-sư từ núi Yên-Tử về Kinh, Trẫm thỉnh ở chùa
Thắng-Nghiêm, chủ trì việc khai ván in các Kinh. Trẫm lấy tác phẩm
ấy đưa Quốc-sư xem. Quốc-sư xem xong, ba lần tán thán rằng: "Tâm
của chư Phật hết ở trong sách này, sao không đem khắc ván in với
chư Kinh để dạy kẻ hậu học"?
Trẫm nghe nói thế, liền sai thợ viết lối chữ
chân-phương (giai thư) sắc truyền khắc ván đem in. Sách này không
những riêng để chỉ chỗ mê lầm cho đời sau, mà còn muốn nối theo
cái công truyền bá rộng của bậc thánh-nhân đời trước. Nhân
thế tự làm bài tựa này:
* Chú thích:
(1) Thái-Tổ: Tức Thái-Tổ nhà Trần. Trần-Thừa
được tôn làm Thái-Tổ. Con Trần-Thừa là Trần-Cảnh, tức
Trần-Thái-Tông.
(2) Đứng ngồi không yên: Dịch câu: Bất hoàng
khải sử. Khải sử nghĩa là chiếc chiếu có vị trí quỳ, nơi đứng,
nơi ngồi, dịch ý là đứng ngồi không yên.
(3) Trúc-Lâm Đại Sa-Môn Quốc-sư: Có thể là
Phù-Vân Quốc-sư, trụ-trì chùa Hoa-Yên lúc bấy giờ (theo
Nguyễn-Lang).
(4) Trần-Công: Tức Trần-Thủ-Độ, em họ
Trần-Thừa.
---o0o---