QUYỂN HẠ
---o0o---
* Lễ dâng hương thời
sáng sớm
Núp thất! Bóng thỏ (2) vừa chìm; vầng ô (3) ló
rạng. Chiếu phạm họp giòng tịnh chúng; Cõi không lễ đấng Thánh
hiền. Mong thấu lòng thành; kính dâng hương báu.
Hương này: Trồng tự rừng giới, tưới bằng nước
thiền-na; đẵn ở Tuệ viên, róc bằng dao giải thoát. Rìu búa sức
người chẳng cần đến; hình, thế tự nó vẫn thiên nhiên. Hương
báu tri-kiến tỏa lên; Kết thành đài mây sáng vở (4). Hương bay
thơm lừng mọi chốn; Khói tỏa đượm ngát khắp trời. Nay dâng
hương cúng dường, vào khóa lễ buổi sáng sớm.
** Kệ dâng hương
Rừng thiền sực nức nước trầm hương,
Vườn tuệ chiên-đàn giống khác thường;
Dao giới vê thành hình chóp núi;
Lò tâm tỏa ngát khắp mười phương.
** Kệ hiến hoa
Hoa lòng rộ nở khắp nơi nơi,
Mưa rắc hoa trời vẫn kém tươi;
Đóa đóa nâng lên dâng cúng Phật,
Muôn đời gió nghiệp thổi không rơi.
(Hiến hương hoa rồi bạch rằng)
Kính dâng hương hoa này,
Biến khắp mười phương cõi.
Cúng dường hết thẩy Phật,
Tôn Pháp, chư Bồ-Tát,
Vô lượng Thanh-Văn chúng,
Và hết thảy Thánh-Hiền.
Trỗi lên đài quang minh,
Khắp cả vô biên cõi;
Trong cõi Phật vô biên,
Thọ dụng làm Phật sự.
Khiến tất cả chúng sinh,
Đều phát tâm Bồ-đề.
Cúng dường rồi, dốc lòng kính lễ Thập phương vô
thượng Tam-Bảo.
** Tâu Bạch
(Hồ quỳ bạch rằng)
Kính tâu: Thập phương Đại-Giác. Tam thế Hùng-Sư. Soi
đuốc tuệ nẻo tối tăm; Thả bè từ nơi biển khổ.
Trộm nghĩ: Canh gà vừa dứt; bóng thỏ đang chìm. Khói
mây phủ sông núi tan rồi; xe ngựa khắp đó đây nhộn nhịp. Tiếng
Mai-hoa (5) trên lầu mới dứt; chén Trúc-diệp (6) trước cửa hầu
tàn. Đong đưa mày liễu nắng ban mai; e thẹn mặt hoa ngưng móc sớm.
Gặp buổi tươi sáng; thương kẻ ngu mê. Trong đêm giấc mộng đã lờ
mờ; thức dậy trong lòng còn rạo rực. Mắt, tai mải theo thanh, sắc;
mũi, lưỡi say đắm vị, hương. Nhà lửa nung nấu triền miên; sông
ái đắm chìm mãi mãi. Mặc dầu sáng nay người thức tỉnh; cũng như
đêm trước kẻ say mê. Chẳng lo sinh, già, ốm, chết lăm le; chỉ bận
vợ, con, tiền tài trói buộc.
Các Phật-tử! Thân này chẳng vững; Mệnh cũng khó
yên. Phàm kẻ trên đầu đội trời; tránh sao ánh mắt rơi đất.
Một sớm xẩy tay mất mạng; muôn kiếp khó lại thân người. Cần
phải mau mau gieo giống lành; đừng có khư khư tìm quả ác. Mọi
người tỉnh gấp; ai nấy siêng tu. Dốc lòng lễ vô thượng Từ-Dung;
trước mắt thấy Đại quang minh tạng. Đệ tự chúng con, kính tưởng
thời này, lấy làm khóa lễ buổi sáng.
Tâu bạch rồi, dốc lòng kính lễ Thập phương vô
thượng Tam-Bảo.
* Sám hối tội căn mắt
(Lại hồ quỳ bạch rằng)
Đệ tử chúng con, dốc lòng sám hối! Kể từ vô
thủy, vô lượng kiếp rồi. Bỏ mất bản tâm, chẳng theo chánh đạo.
Đọa ba đường khổ, bởi sáu căn sai. Trước chẳng sám trừ, sau
hối khó kịp. Nghiệp căn mắt ấy: Nhân ác nhìn kỹ, nghiệp thiện xem
qua. Nhận lầm đốm hoa không, quên đi mất trăng thật. Ghét yêu nổi
dậy, tốt xấu chen nhau. Mắt liếc sinh càn, lu mờ chánh kiến. Xanh đi
trắng lại, tía phải vàng sai. Nhìn bao thứ tà, như người đui mắt.
Gặp kẻ sắc đẹp, liếc trộm nhìn ngang. Đui mù chưa sinh, bản lai diện
mục. Thấy người giầu có, mắt dán chằm chằm; gặp kẻ bần cùng,
tảng lờ chẳng đoái. Nhà người mai táng, nước mắt dửng dưng;
thân quyến thường vong, khóc tràn ra máu. Hoặc thấy Tam-Bảo, hoặc
vào Già-Lam; gần tượng đối kinh, bỏ qua không đoái. Nhà Tăng
điện Phật, trai gái gặp nhau, mắt trước mắt sau, mê hoang sắc dục.
Chẳng kính Hộ-Pháp, chẳng sợ Long-Thần; thỏa mắt ham vui, từng
không kính lễ. Những tội như thế, vô lượng vô biên. Từ căn
mắt sinh, đọa vào địa ngục. Trải Hằng-sa kiếp, mới được thọ
sinh. Dù được thọ sinh, lại bị mù chột. Nếu chẳng sám hối, khó
được tiêu trừ. Nay đối trước Phật, hết đều sám hối.
Sám hối rồi, dốc lòng kính lễ thập phương vô
thượng Tam-Bảo.
* Dốc lòng Khuyến thỉnh
(Lại quỳ bạch rằng)
Khuyến thỉnh mười phương tam thế Phật,
Cùng chư Bồ-Tát Thánh-Hiền Tăng;
Mở lòng từ bi rộng vô cùng,
Độ hết chúng sinh lên bờ giác.
Khuyến thỉnh rồi, dốc lòng kính lệ thập phương vô
thượng Tam-Bảo.
* Dốc lòng tùy hỷ
(Lại quỳ bạch rằng)
Con nay theo Phật sinh hoan hỷ,
Sớm hôm thành kính sám lỗi lầm;
Nấc thanh Thập-Địa (7) nguyện bước lên,
Bồ-Đề chân tâm không thoái chuyển.
Tùy hỷ rồi, dốc lòng kính lệ thập phương vô
thượng Tam-Bảo.
* Dốc lòng hồi hướng
(Lại quỳ bạch rằng)
Chúng con hồi tâm nương Thánh-Chúng,
Rập đầu đảnh lễ Đức Từ-Tôn;
Nguyện đem công đức tới quần sinh,
Nhờ nhân tốt này thành chính-giác.
Hồi hướng rồi, dốc lòng kính lễ thập phương vô
thượng Tam-Bảo.
* Dốc lòng phát nguyện
(Lại quỳ bạch rằng)
Một - Nguyện mở toang đường chánh kiến.
Hai - Nguyện lau sạch hết bụi trần.
Ba - Nguyện thấy hình không luyến ái.
Bốn - Nguyện nhìn sắc chẳng quang tâm.
Năm - Nguyện đường mê cần thấy rõ.
Sáu - Nguyện mắt tuệ tự viên thành.
Bảy - Nguyện xoay đời mê hiện tại.
Tám - Nguyện mãi được bản lai minh.
Chín - Nguyện khi nhìn trừ mọi huyễn.
Mười - Nguyện thấy hết hoa đốm sinh.
Mười một - Nguyện nhìn xem mây "chướng' cuốn.
Mười hai - Nguyện chớp mắt nghiệp trong ngần.
Phát nguyện rồi, dốc lòng kính lễ thập phương vô
thượng Tam-Bảo.
* Kệ vô thường buổi sáng
Vừa lúc màn đêm mở
Vầng hồng ló rạng dần
Đầu xanh chen tóc bạc
Má phấn đổi lần lần
Đâu biết xuân xanh ngắn
Còn tranh nghiệp quả nhân
Thân như băng trước nắng
Tựa đuốc gặp phong luân
Chớ mải làm người khách
Mau về với tính chân.
* Chú thích:
(1) Sáu niệm - Nhớ nghĩ về 6 thứ:
1. Niệm Phật.
2. Niệm Pháp.
3. Niệm Tăng.
4. Niệm Giới.
5. Niệm Thí (bố thí).
6. Nhiệm Thiên (nghĩ sinh cõi trời). Nghĩa là người
quy-y Tam-Bảo rồi cần phải giữ giới, làm hạnh bố thí để mong cầu
sinh Thiên. Chủ đích của giáo pháp này để dạy cho hàng
Ưu-Bà-Tắc, như ông Tu-Đạt-Đa trưởng giả, khi Đức Phật còn tại
Thế. Nhưng 6 niệm đây, theo ý của Trần-Thái-Tông, còn có ý nghĩa
phải chuyên niệm nhớ nghĩ 6 chữ Hồng-Danh là "Nam Mô A-Di-Đà
Phật".
(2) Bóng thỏ - Dịch nghĩa bóng của chữ
"Thiềm Luân", là tên khác của mặt trăng, còn gọi là
"Thiềm Thỏ" (Bóng đen của mặt trăng). Chữ Thiềm gọi đủ
là Thiềm-Từ, có nghĩa là con cóc. Vì lý do Hằng-Nga ăn trộm thuốc
tiến của Tây-Vương-Mẫu rồi chạy trốn vào trong mặt trăng mà hóa
thánh đốm đen. Nên gọi mặt trăng là Thiềm-Luân, Thiềm-Thỏ hay
Thiềm-Cung.
(3) Vầng ô - Dịch nghĩa bóng của chữ
"Long-chúc", tên khác của mặt trời. Long-Chúc là tên vị
thần núi Chung-Son. Còn gọi l2 "Chúc-Long" hay
"Chúc-Âm", đều là tên riêng của mặt trời. Theo
Sơn-Hải-Kinh thì phương Tây-Bắc của bầu trời, có một nước không
có ánh mặt trời, rất tối tăm, vì có con rồng ngậm lửa lại phung
cho sáng, nên có tên gọi mặt trời "Long-Chúc".
(4) Đoạn này nói dâng "Ngũ Phận Hương",
tức 5 phần hương: 1. Giới-hương 2. Định-hương 3. Tuệ-hương 4.
Giải-Thóat-Hương 5. Giải Thóat Tri-Kiến Hương. Dâng 5 phần hương để
cúng đường 5 phần Pháp-Thân là Giới-Thân, Định-Thân, Tuệ-Thân,
Giải-Thoát-Thân và Giải-Thoát Tri-Kiến Thân..
(5) Tiếng Mai-Hoa: - Dịch ở chữ
"Mai-Hoa-Thanh", lấy từ chữ "Mai-Hoa-Dẫn". Mai-Hoa-Dẫn
là tên một co khúc cổ điển cho ống sáo biểu diễn trong khi vui
mừng chúc tụng. Ca khúc này nói đủ là "Giang-Thành
Mai-Hoa-Dẫn".
(6) Chén Trúc-Diệp: - Trúc-Diệp là tên một
thứ rượu, khi nấu có thêm gia-vị của lá cây trúc, nên gọi là
"Trúc-Diệp-Tửu".
(7) Thập-Địa: - 10 thứ trụ-xứ của Bồ-Tát (3
thừa cộng thông): Theo Đại-Phẩm Bát-Nhã, Bồ-Tát đầy đủ được
10 ngôi địa này chứng được đạo Vô-thượng chánh-đẳng
chánh-giác:
1. Can-Tuệ-địa
2. Tính-địa
3. Bát-Nhẫn-địa
4. Kiến-địa
5. Bạc-địa
6. Ly-dục-địa
7. Dĩ-tác-địa
8. Bích-Chi Phật-địa
9. Bồ-Tát-địa
10. Phật-địa
Đại-Thừa Bồ-Tát Thập-Địa:
1. Hoan-hỷ-địa
2. Ly-cấu-địa
3. Phát-Quang-địa
4. Diễm-Tuệ-địa
5. Cực-Nan-Thắng-địa
6. Hiện-Tiền-địa
7. Viễn-Hàng-địa
8. Bất-Động-địa
9. Thiện-Tuệ-địa
10. Pháp-Vân-địa.
---o0o---