CÁC
BÀI VĂN TẾ - CẢNH SÁCH
156
- VĂN CẢNH SÁCH BUỔI SÁNG
Bài
cảnh sách trong nhà tịnh nghiệp,
Tuân
lời
vàng cổ triết Thiền tông,
Muốn
tu
Tịnh độ thành công,
Cốt
sao
ba nghiệp sạch không làu làu.
Thân
khẩu
ý trước sau tinh khiết,
Thời
hiện
tiền tịnh nghiệp mới nên,
Trau
dồi
ba nghiệp cho chuyên,
Vãng
sinh
Tịnh độ nhân duyên lu mờ.
Ngày
đến
phải sáu thời tinh tiến,
Ý
miệng thân ba nghiệp cần chuyên,
Thân
cần
lễ bái tọa thiền,
Miệng
cần
phúng tụng lặng yên ít lời.
Ý
cần chuyên không rời tịnh niệm,
Đêm
và
ngày kế tiếp không ngơi,
Mới
hay
Tịnh độ hiện thời,
Rõ
ràng
tam muội sáng ngời tự tâm.
Ngoài
sáu
thời chuyên tâm tu tập,
Không
chuyện
trò đón tiếp vãng lai,
Nếu
còn
giao thiệp bề ngoài,
Chỉ
e
tịnh niệm phí hoài công phu.
Quy
ước
ấy ai dù không giữ,
Ngôi
chủ
đường xét xử phạt ngay,
Ba
lần
can gián cố chày,
Thời
mời
ra khỏi nhà này không dung.*
157
- VĂN CẢNH SÁCH PHÂN CÔNG
Đây
bài cảnh sách phân công,
Đảm
đang
chức sự trong tùng lâm ta,
Cúng
dàng
Phật Pháp Tăng già,
Làm
trong
nghĩa vụ lợi ta lợi người.
Nên
chẳng
quản hao hơi nhọc sức,
Cố
gắng
làm công đức vẹn tuyền,
Lẽ
đâu
ngại khó ngại phiền,
Mượn
điều
lẫn tránh ngồi yên sao đành ?
Lỡ
ra
khuyết điểm phát sinh,
Công
việc
chung cũng trở thành dở dang.
Nên
suy
xét đảm đang nghiêm túc,
Phục
vụ
người tức phục vụ mình,
Chăm
lo
củi nước hoàn thành,
Cũng
là
đường lối tu hành cần chuyên.
Giúp
ta
giác ngộ cơ huyền,
So
đo
hơn thiệt não phiền càng tăng.
Tổ
Tào
Khê siêng năng giã gạo,
Tổ
Tuyết
Phong tần tảo làm cơm,
Qui
Sơn
bếp nước chăm nom,
Kính
Sơn
quét tước thường làm vệ sinh,
Tổ
Bách
Trượng thanh minh trong chúng,
Ngày
không
làm thời cũng không ăn,
Thọ
Xương
cầy cấy chung thân,
Đều
là
những bậc vĩ nhân cửa Thiền.
Gương
xưa
mãi mãi còn truyền,
Cần
lao
phục vụ lực điền tận tâm.
Nay
đại
chúng tùng lâm cộng sư,ï
Chức
vụ
thường thiếu sự gắng công,
Ai
đủ
sức nên xung phong,
Rụt
rè
khoán phế việc chung sao đành,
Có
công
Phật Tổ mới thành,
Không
thời
biển khổ lênh đênh đời đời.*
158
- VĂN CẢNH SÁCH THẢO ĐƯỜNG
Bài
cảnh sách Thảo Đường phúng tụng,
Xin
bạch
cùng thất chúng Thiền gia,
Thế
giới
nào khác không hoa,
Thân
người
huyễn hóa như là chiêm bao.
Mọi
sự
vật trước sau đều thế,
Là
vô
thường không thể cậy trông,
Nhân
tu
nếu chẳng sớm trồng,
Thời
theo
cảnh huyễn mãi trong luân hồi.
Cũng
vì
vậy Như Lai thương xót,
Hiện
ra
đời thuyết pháp dạy khuyên,
Khiến
cho
tắt lửa não phiền,
Cạn
dòng
ái dục thoát miền hôn mê.
Hết
sinh
tử xa lìa phiền não,
Chứng
Niết
bàn vui đạo nhiệm mầu,
Phép
tu
giải thoát có nhiều,
Tóm
tắt
thì có ba điều như sau :
Tham
thiền
tu quán làm đầu,
Với
môn
niệm Phật để cầu vãng sinh,
Phép
tham
thiền không thành không lập,
Phải
tự
mình khế hợp chân như,
Túc
căn
nếu chẳng trồng sâu,
Đường
đi
lắm ngã dễ hầu tới nơi,
Huống
đời
mạt pháp lòng người,
Kém
phần
phúc tuệ trây lười ngả nghiêng.
Phép
tu
quán thâm huyền mầu nhiệm,
Xét
cho
cùng tâm niệm sát na,
Hữu
vô
hai chữ đều xa,
Nếu
không
trí huệ khó mà thành công.
Môn
niệm
Phật phổ thông đệ nhất,
Thực
rõ
ràng đường tắt không hai,
Kể
từ
cổ vãng kim lai,
Hiền
ngu
già trẻ gái trai đều thành.
Tứ
liệu
giản rành rành kể rõ,
Tu
môn
nào dễ khó phân minh,
Cốt
sao
chuyên nhất cho tinh,
Chớ
ngờ
rằng Phật với mình cách xa
Đem
sáu
chữ Di Đà đối tượng,
Tâm
tưởng
đều không vướng tạp duyên,
Tai
nghe
bụng nghĩ mắt nhìn,
Rõ
ràng
như Phật hiện tiền trước ta.
Ví
phút
chốc lơ là tản mạn,
Thời
hôn
trầm tán loạn hiện ngay,
Phát
tâm
tinh tiến cao dày,
Nối
liền
tịnh niệm đêm ngày chớ ngơi.
Dù
tịnh
niệm còn chưa kế tiếp,
Cứ
giữ
gìn tịnh nghiệp cho chuyên,
Tâm
tầm
Tịnh độ tưởng liền,
Dốc
lòng
cứ niệm thường xuyên Di Đà.
Thời
hiện
tại không xa gang tấc,
Ngay
chốn
này Cực lạc rồi đây,
Không
cần
đợi đến sau này,
Thân
về
an dưỡng tháng ngày thanh cao.
Được
thắng
lợi dồi dào đến thế,
Há
lại
không quyết chí tu trì,
Đem
thân
giả tạm suy nghi,
Sinh
già
bệnh chết thọ kỳ bấp bênh,
Mà
đổi
lấy thân vô lượng thọ,
Là
pháp
thân không có động dao,
Vui
này
há chẳng vui sao,
Vãng
sinh
Tịnh độ vui nào còn hơn.
Tụng
rằng
:
Trong
ba
cõi lửa phiền nóng bức,
Nước
tám
dòng công đức thanh lương,
Muốn
xa
cõi uế vô thường,
Đem
thân
an trụ Lạc bang quê nhà.
Thời
sáu
chữ Di Đà kế niệm,
Như
bánh
xe liên tiếp quay hoài,
Di
Đà
Phật chẳng riêng ai,
Trí
nhân
ngày tháng hôm mai tự cường.
Kìa
tám
vạn bốn ngàn hảo tướng,
Vốn
không
ngoài tâm tưởng người ta,
Há
phiền
đức Phật Thích Ca,
Ấn
chân
biến cõi Sa Bà trang nghiêm.*
159
- VĂN CẢNH TỈNH THẾ NHÂN
Hỡi
ôi !
Ta
nên
hiểu rằng :
Quang
cảnh
trăm năm,
Chỉ
trong
giây phút,
Huyễn
thân
tứ đại,
Há
được
lâu dài.
Tháng
ngày
vất vả lắm thay,
Một
sớm
nghiệp duyên nặng chĩu,
Không
biết
viên minh nhất tính,
Chỉ
ham
tham dục sáu căn.
Công
danh
lừng lẫy,
Đều
là
đại mộng, một trang;
Phú
quý
vinh hoa,
Khó
tránh
vô thường hai chữ.
Tranh
nhân
tranh ngã,
Rốt
cuộc
thành không.
Khoe
giỏi
khoe tài,
Cuối
cùng
chẳng thực.
Lửa
phun,
gió thổi,
Khi
thiêu
không kể trẻ già;
Hốc
núi,
khe sâu,
Vùi
xác
anh hùng không ít !
Tóc
xanh
chưa được mấy,
Mà
tóc
trắng đã đầy đầu,
Việc
mừng
vừa tới nơi,
Mà
việc
buồn đã xâm đến;
Một
bao
máu đặc,
Quanh
năm
ngậm đắng nuốt cay,
Bảy
thước
thân còm,
Nảy
ý
tham tiền tiếc của.
Hơi
thở
ra, khó đã hít được vào,
Nay
còn
đây, ngày mai khôn giữ được.
Sóng
ái
hà, chìm nổi nổi chìm,
Lửa
hỏa
trạch, nấu nung nung nấu,
Chẳng
muốn
xa rời lưới nghiệp.
Chỉ
rằng
: Chưa có công phu,
Lệnh
vua
Diêm la đã sai đòi bắt.
Thì
Thôi
tướng công đâu dám dung tha,
Ngoảnh
cổ
lại thân nhân đều chẳng thấy.
Chung
quy
tạo nghiệp,
Báo
sự
mình mang;
Quỷ
vương
ngục tốt,
Coi
thường
xâu xé.
Rừng
kiếm
núi đao,
Khổ
sở
không cùng.
Hoặc
vào
Thiết tiêu ngục thẳm,
Hoặc
ở
băng giá núi cao,
Bị
nấu
nung muôn tử ngàn sinh,
Chịu
kìm
cặp một dao hai đoạn.
Đói
ăn
sắt nóng,
Khát
uống
đồng sôi,
Mười
hai
giờ cam chịu đắng cay,
Năm
trăm
kiếp bóng hình chẳng thấy !
Chịu
đủ
tội nghiệp,
Lại
vào
luân hồi,
Thân
này
từ trước mất đi,
Đổi
lấy
túi cơm giá áo,
Hàm
sắt
đóng yên,
Mang
lông
mang vẩy.
Đem
thịt
dâng người,
Dùng
thân
trả nợ.
Sống
bị
búa rìu,
Cay
đắng
lửa bỏng nước sôi.
Chết
đi
oan khiên,
Chồng
chất
hối sao cho kịp.
Chi
bằng
thẳng tới kêu van,
Chớ
đợi
muôn vàn tội lỗi.
Trộm
nghĩ
:
Người
sinh
cõi thế,
Cũng
như
cánh bướm bông hoa,
Vận
hạn
tới nơi,
Nào
khác
móc chiều sương sớm.
Đức
Phật
mình cao trượng sáu,
Cũng
còn
tịch diệt chốn Song Lâm.
Lão
Quân
thuốc luyện chín viên,
Trót
hết,
hồn quy nơi Thệ Thủy.
Thương
thay
! Bành Tổ,
Sống
tám
trăm năm;
Xót
vậy
! Nhan Hồi,
Tuổi
hơn
ba chục;
Trẻ
già
dẫu khác,
Sống
chết
hơn chi !
Lại
như
: Tam Hoàng tuổi thọ,
Chẳng
khỏi
luân hồi,
Ngũ
Đế
sống lâu,
Chưa
là
bất tử.
Thần
Nông
thuốc giỏi,
Chữa
sao
cho lại số trời;
Biển
Thước
tài hay,
Khôn
cứu
người về cõi đất.
Tần
Thủy
Hoàng dời non lấp biển,
Rồi
ra
mệnh táng đất Sa Khâu;
Sở
Bá
Vương sức lực bạt sơn,
Cũng
đến
phải Ô Giang tự vẫn.
Tề
Cảnh
Công nuôi chín nghìn ngựa Tứ,
Cũng
thành
công cốc hơn chi !
Hán
Hàn
Tín mười việc công lao,
Há
có
được còn mãi mãi ?
Mạnh
Thường
Quân ba nghìn kiếm khách,
Cũng
chết
dần mòn;
Khổng
Phu
Tử trò giỏi bảy hai,
Nay
ai
sống nữa ?
Ngao
ngán
nhẽ ! Chu, Tần, Hán, Ngụy, Chốn lâu đài này hóa chốn
hoang vu :
Tiếc
thương
thay ! Tấn, Tống, Tề, Lương,
Nơi
thành
quách cũng là nơi quạnh quẽ.
Nào
những
bậc Tiền Hiền Cổ Thánh !
Ai
đã
từng chất ngọc chứa vàng ?
Ai
đã
từng lưng đai áo tía ?
Ai
đã
từng đoạt lợi tranh danh ?
Ai
đã
từng khoe văn diễu võ ?...
Hỡi
ôi
!
Đời
người
ví tựa nước trôi xuôi,
Trí
dậy
anh hùng ở khắp nơi,
Hơi
thở
lúc còn lừng lẫy lắm,
Vô
thường
hạn đến việc buông trôi !
Vậy
nên
có bài kệ rằng :
Tất
cả
núi non đều tan vỡ hết,
Tất
cả
biển sông đều sẽ khô kiệt,
Tất
cả
cỏ cây đều sẽ tàn lụi,
Tất
cả
muôn vật đều sẽ bại hoại,
Mọi
sự
ái ân rồi sẽ ly biệt,
Mọi
sự
phiền não cũng dần tan hết,
Tình
thân
gia đình,
Một
sớm
đoạn tuyệt,
Duy
có
Pháp thân,
Thường
còn
chẳng diệt.
Than
hỡi
!
Đời
người
trăm tuổi,
Mau
như
việc gảy móng tay.
Có
khác
gì chiếc bách trôi xuôi,
Hay
tương
tự trời Tây thỏ lặn.
Đập
hòn
đá mong tìm ánh lửa,
Bóng
ngựa
câu bên cửa sổ thoáng qua,
Ngọn
đèn
lu trước trận phong ba
Hạt
móc
sớm treo trên đầu ngọn cỏ.
Thuyền
đã
tới bờ,
Cây
vừa
độ mục,
Chớp
mắt
ôi thôi !
Chỉ
thấy
sáng loè.
Sao
tình
nghĩa còn nhiều vương vít,
Mà
ý
hoài rối rít tơi bời ?
Lưới
trần
gian khin khít muôn trùng,
Trí
vẫn
để trong vòng lăn lộn !
Cảnh
ái
thằng nút thắt nghìn khoanh,
Tình
vẫn
hướng vào nơi trói buộc.
Núi
Mạn
chất chồng,
Gò
đống
chỗ chỗ trưng bày;
Lòng
tham
sâu thẳm,
Biển
khơi
dòng dòng cuộn đến.
Chỉ
còn
cách sớm hôm niệm Phật,
Mới
mong
về cõi Tịnh yên vui.*
160
- KHUYẾN TU TỊNH ĐỘ
Tu
hành phương tiện nhiều đường,
Niệm
Phật
một pháp lạ thường dễ thay.
Gọi
là
cầu sinh Tây phương,
Cực
lạc
thế giới ta nay nương về.
Gọi
là
Tịnh độ tu trì,
Nghĩa
là
thanh tịnh tội thì không sinh.
Ba
tạng
mười hai bộ kinh,
Kinh
nào
cũng nói phân minh pháp này.
Tám
muôn
bốn ngàn môn nay,
Môn
nào
cũng khuyến vãng rày Tây phương.
Niệm
Phật
một pháp rõ ràng,
Hơn
cả
mọi pháp chẳng đường nào hơn.
Cổ
đức
bàn rằng các môn,
Học
đạo
như kiến lên non bao giờ.
Niệm
Phật
tu hạnh nhất thừa,
Chóng
như
gió thổi buồm nhờ nước xuôi.
Tây
phương
mà đã sinh rồi,
Chỉ
phần
lên chẳng phần lui sau này.
Thượng
phẩm
Phật quả chứng ngay,
Hạ
phẩm
thì cũng hơn dầy Thiên cung.
Công
đức
lớn rộng chẳng cùng,
Tu
thời
dễ vậy nào chưng khổ gì.
Gái
trai
già trẻ mới khi,
Sang
hèn
Tăng tục cũng thì mặn chay.
Ai
ai
tu cũng được dầy,
Ngày
mười
câu niệm công nay cũng thành.
Niệm
rồi
khấn nguyện phân minh,
Sau
này
đến lúc Phật nghinh tiếp về.
Xin
người
niệm Phật với tôi,
Cùng
sinh
nước Phật rất vui thay là.
Thấy
Phật
rồi khỏi luân hồi,
Cùng
như
đức Phật độ loài quần sinh.
Thấy
đời
mà tiếc cho đời,
Có
thân
bất hoại mà người chẳng tu.
Trải
trong
thế giới Diêm Phù,
Dưới
trời
mấy kẻ thoát lò hoá thi,
Chỉ
có
đạo Phật từ bi,
Muốn
qua
đường khổ tu trì lấy thân.
Tụng
kinh
niệm Phật chủng nhân,
Tam
quy
ngũ giới giữ phần quả sau.
Muôn
ngàn
ức kiếp vui lâu,
Khỏi
vòng
quanh lại được mầu kim thân,
Tu
Tịnh
độ cứ một bề,
Chăm
chăm
lòng chỉ cầu về Tây phương.
Công
phu
một chốc ngày thường,
Sau
rồi
ức kiếp rộng trường được lâu.
Ví
người
buôn bán mãi đâu,
Một
quan
lợi hoá ra hầu làm hai.
Trong
lòng
mừng rỡ chẳng thôi,
Ấy
là
lợi nhỏ lòng thì hỷ hoan.
Hay
là
mất vốn một quan.
Trong
lòng
cũng tiếc lo toan ngại ngần,
Ấy
là
vật ở ngoài thân,
Được
nhỏ
mất nhỏ thường thần lo toan.
Bụng
sáng
ta chẳng nghe bàn,
Lặn
lội
mất lớn chẳng toan lo gì.
Pháp
tu
nay khó gặp kỳ,
May
mà
biết được lớn khi thế nào.
Mừng
nay
lại biết là bao,
Thế
gian
như mộng chiêm bao ra gì.
Phật
nói
kinh Di Đà khi,
Ta
thấy
thế lợi ta thì nói ra,
Sáu
phương
chư Phật đều là,
Bảo
rằng
thành Phật nên mà tín khen.
Phật
bảo
ta ở thế gian,
Nói
pháp
xa rộng khó bàn khó tin.
Pháp
này
phúc lớn nhân duyên,
Ai
mà
gặp được quả nhiên thoát trần.
Người
thế
gian tiểu khí thân,
Thấy
lời
kinh giáo phân vân hững hờ.
Ấy
là
bụng dạ hèn sơ,
Còn
nhiều
tội chướng bơ vơ trong lòng.*
161
- VĂN TẾ CHƯ CHIẾN SĨ TRẬN VONG
CHƯ
LƯƠNG DÂN TỬ NẠN
Hỡi
chư chiến sĩ trận vong !
Hỡi
chư
lương dân tử nạn !
Nhơn
sanh
tự cổ thùy vô tử,
Lưu
thủ
đan tâm chiếu hãn thanh.
Người
sanh
trên thế ai không chết,
Để
tấm
lòng son rạng sử xanh.
Ngọc
tuy
nát vẫn còn trong sạch,
Tre
cháy
tiêu, mắt nọ cũng còn.
Chí
trung
cang nghĩa khí sắc son,
Gương
Thánh
Đế nay còn nêu đó !
Nợ
nước
non ai ai cũng có,
Phận
công
dân giao phó phải mang.
Hễ
đứng
làm nghĩa sĩ anh trang,
Phải
đáng
bực trung thần liệt nữ.
Chí
Quang
Trung đâu màng sanh tử,
Chuyện
Trưng
Vương thanh sử còn ghi.
Nay
tuy
là u hiển biệt ly,
Lòng
tưởng
nhớ các vì tha thiết,
Tưởng
là
tưởng đức dày oanh liệt,
Chốn
chiến
trường sương tuyết hy sinh.
Nhưng
chẳng
may vì nước bỏ mình,
Ấy
cũng
bởi trọn gìn trung đạo.
Thôi
nợ
nước nay đà tận báo,
Xin
hồi
đầu chánh đạo tu thân.
Nương
cửa
thiền phủi sạch trược trần,
Sớm
kinh
kệ chiều lần chuỗi hột,
Lấy
cam
lộ nhành dương nước Phật,
Rửa
cừu
oan diệt tất não phiền.
Khá
nguyện
về Cực lạc Tây thiên,
Mà
an
dưỡng thiêng liêng Bổn giác
Sen
chín
phẩm nở ra trước mắt,
Hết
tử
sanh quả Phật thấy liền.
Hỡi
các
vì hồn có linh thiên,
Nơi
chín
suối khá liền sám hối,
Cầu
Trời
Phật xá tha tội lỗi,
Dắt
dìu
ra khỏi lối u minh.
Một
lòng
thiềng Phật Pháp trọn gìn,
Hộ
thí
chủ khương ninh phước thọ.
Giúp
lê
thứ, trợ an quốc tộ,
Lập
đức
công báo bổ tứ ân,
Lời
thiết
tha đạo đức phân trần,
Xin
liệt
vị hiển linh chứng chiếu.*
Nam
Mô A Di Đà Phật.
162
- VĂN TẾ CHIẾN SĨ TRẬN VONG
ĐỒNG
BÀO TỬ NẠN.
Hỡi
ôi !
Cơn
tạo
hóa xoay vần khó tránh,
Cuộc
trần
gian hết thạnh đến suy,
Chúng
sanh
phải chịu khổ nguy,
Sanh
già
bịnh tử biệt ly thảm sầu.
Việc
may
rủi biết đâu chọn lánh,
Nhận
làm
người mang gánh sự trần,
Tam
cang
mới nặng muôn cân,
Ngũ
thường
xử vẹn là phần tu mi.
Lẽ
sống
thác là tùy số phận,
Nghĩa
vụ
tròn đâu quản gì thân,
Mình
là
bổn phận con dâu,
Quốc
gia
hữu sự báo ân đã đành.
Vì
tổ
quốc lợi quyền chủng tộc,
Giận
quân
thù chí dốc tòng quân,
Ra
đi
dạ luống bâng khuâng,
Màn
sương
gối tuyết vô chừng gian nan.
Khi
lặn
suối trèo non vượt bể,
Khi
lên
truông qua ải xuống đèo,
Đai
cơm,
bầu nước, gươm đeo,
Chút
thân
sống thác do theo số trời.
Ra
nhập
ngũ thân thời chẳng kể,
Khổ
thay
vì cha mẹ ở nhà,
Nhớ
con
thổn thức canh gà,
Thương
con
dựa cửa trông mà sầu đau.
Khi
sớm
tối ai vào thăm viếng,
Lúc
ốm
đau lo chuyện thuốc thang ?
Đêm
ngày
giọt lệ chứa chan,
Cầu
trời
con đặng thoát nàn đao binh.
Chữ
trung
đặng, mất tình hiếu thảo,
Đánh
liều
theo máy tạo vần xoay,
Trước
cờ
da ngựa bọc thây,
Tiếng
kêu
cứu nước làm khuây sao đành!
Còn
thương
hỡi gia đình thảm cảnh,
Vợ
cùng
con hiu quạnh trước sau,
Con
thơ
vợ yếu lao nhao,
Lấy
ai
bảo bọc đói đau cơ hàn ?
Đêm
tủi
phận dở dang duyên nợ,
Ngày
gượng
vui qua đỡ thời gian,
Trông
cho
chiến thắng khải hoàn,
Dưỡng
nuôi
con dại hiệp đoàn phu thê.
Nhớ
đến
cảnh ủ ê tấc dạ,
Cùng
anh
em chung chạ một nhà,
Xóm
làng
cô bác ông bà,
Nguyện
cầu
binh cách hết mà về quê.
Người
muốn
vậy không hề được vậy,
Bãi
trường
sa thịt nát máu tơi,
Tên
rơi
đạn lạc hết đời,
Nắm
xương
vô chủ lạc nơi chiến trường!
Người
nằm
chết ngổn ngang bờ bụi,
Dưới
hố
hầm chân núi cội cây,
Kẻ
thời
ngọn lửa thiêu thây,
Người
thời
trôi lấp sông nầy rạch kia.
Ai
có
phước thi hài chôn lấp,
Kẻ
nợ
phần phó mặc cá chim,
Hỡi
ơi
! Nợ nước trọn niềm,
Đến
ngày
chung cuộc xác tìm đâu ra ?
Vợ
con
với mẹ cha đâu biết,
Chừng
hay
tin thì việc đã rồi,
Nợ
trần
phủi sạch ai ôi,
Ghi
vào
lịch sử muôn đời ngợi khen !
Khen
anh
dũng xông pha tên đạn,
Liều
thân
sinh cứu nạn quốc dân,
Sống
làm
Tướng, thác làm Thần,
Non
sông
gánh vác tử phần đao binh.
Chùa
thỉnh
Phật lập đàn chẩn tế,
Tụng
cầu
siêu cáo lễ Phật trời,
Trận
vong
chiến sĩ vì đời,
Thoát
vòng
lục đạo về nơi trai đàn.
Nén
hương
đốt gội nhuần trước án,
Tế
anh
linh tỏ rạng danh thơm,
Ít
nhiều
hoa quả kỉnh đơm,
Gọi
là
tưởng nhớ người ơn giúp đời.
Dạ
thương
tiếc anh hùng dũng cảm,
Nguyện
vong
hồn sinh ký tử qui,
Hồi
đầu
nương cửa từ bi
Về
miền
Cực lạc Liên trì hoá sinh.
Chúng
tôi
đã lòng thành khấn vái,
Phật
mười
phương quảng đại độ siêu,
Nương
đàn
chẩn tế tiêu dao,
Chư
vong
chiến sĩ đồng bào chứng tri.*
*
163
- MÔNG SƠN THÍ THỰC DIỄN NGHĨA
Trên
kính thỉnh thập phương chư Phật,
Tận
hư
không pháp giới mười phương ;
Kim
cương
Hộ pháp thần vương,
Thiên
long
bát bộ dẫn đường chúng sinh.
Nhớ
Địa
Tạng u minh giáo chủ,
Phóng
hào
quang cứu khổ độ mê;
Từ
bi
bản nguyện lời thề,
Chúng
sinh
độ tận Bồ đề chứng nên.
Xin
Đại
thánh Át Nan Tôn giả,
Dẫn
cô
hồn sáu ngả chúng sinh ;
Mười
phương
thập loại hữu tình,
Bảo
nhau
cùng đến nghe Kinh kệ vàng.
Cam
lộ
hiến hai hàng nam nữ,
Lễ
vật
bày các thứ đầy mâm ;
Hôm
nay
trai chủ thành tâm,
Thỉnh
chư
Hiền Thánh giáng lâm đàn tràng.
Nhờ
phép
mầu tựa nương chư Phật,
Tụng
chân
ngôn bí mật tối linh ;
Cô
hồn
mười loại chúng sinh,
Về
đây
thụ hưởng cơm canh cúng dàng.
Không
hóa
có sẵn sàng ăn uống.
Ít
biến
nhiều nhờ lượng phép mầu;
Cô
hồn
già trẻ cùng nhau,
Hãy
nghe
sự tích trước sau mấy lời.
1.
Thiết trai hội do ai mà có ?
Lập
đàn
tràng bá thí vì đâu ?
Tự
Ngài
Khánh Hỷ khởi đầu,
Quan
Âm
cứu khổ phép mầu hiện ra.
Tiêu
Diện
quỷ đấy là Bồ Tát,
Hóa
thân
ra cứu vớt chúng sanh ;
Khuyên
nên
niệm Phật tụng kinh,
Nhờ
câu
Thần chú oai linh nhiệm mầu.
Cô
hồn
đâu đấy tới mau,
Thụ
Cam
lộ vị còn đâu hơn này.
Đao
binh
kệ tán sau đây :
2.
Những ai vua chúa xưa nay,
Phân
chia
biên giới tháng ngày giữ nhau;
Võ
văn
các bậc anh hào,
Vì
dân
vì nước cùng nhau giữ gìn.
Cành
vàng
lá ngọc bao phen,
Ngựa
xe
rong ruổi trận tiền tử sinh.
Ai
thay
sống chết cho mình,
Số
chung
hạn tận u minh rước mời.
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị đêm dài còn lâu !
3.
Những ai khanh tướng công hầu,
Nhà
cao
cửa rộng biết bao công trình ;
Kinh
luân
chất chứa bên mình,
Trí
nhân
lễ nghĩa tuyển sinh thí trường.
Văn
chương
lỡ bước lầm đường,
Học
tài
thi phận nhỡ nhàng công danh.
Thiệt
mình
riêng chịu đã đành,
Khó
khăn
nhà cửa tan tành đôi nơi.
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị cho đời nên thơ !
4.
Những ai mưu lược binh cơ,
An
bang
định quốc cõi bờ chí cao ;
Đánh
đông
dẹp bắc anh hào,
Tướng
binh
thống lĩnh ra vào trong tay.
Tiểu
trừ
giặc cướp tan ngay,
Quên
nhà
bỏ mạng kế hay cứu đời.
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị của người cúng dâng.
5.
Những ai cậy thế binh hùng,
Sa
cơ
thất thế bên sông thiệt đời.
Hiền
ngu
già trẻ gái trai,
Số
cùng
mệnh tận quê người bơ vơ.
Không
quen
đất nước bao giờ,
Cho
nên
đói khát bên bờ lả lơi.
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị cho đời quang vinh !
6.
Những ai uổng tử trong thành,
Gió
mưa
sấm chớp hoành hành thảm thê ;
Ma
kêu
quỷ rú bốn bề,
Khóc
than
dậy đất ủ ê oán hờn.
Biết
ai
danh phận kém hơn,
Thương
thay
mười loại cô hồn là ai ?
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị tuyệt vời thơm ngon !
7.
Những ai binh tướng kinh hồn,
Hai
bên
chiến trận mưa tuôn mây sầu ;
Âm
vang
chiêng trống hồi lâu,
Xé
gan
vỡ mật khí hào bốc lên.
Rợp
trời
cờ kiệu hai bên,
Chúng
sinh
nghiệp chướng não phiền thở than.
8.
Trận tiền thành đống tro tàn,
Tướng
không
chỗ trốn nguy nan bỏ đời.
Ngựa
xe
tên đạn bời bời,
Đội
binh
tán loạn khắp nơi tan tành.
Lại
còn
gươm giáo vây quanh,
Đạn
tên
bắn xé thân hình đôi nơi.
Khổ
đau
lắm cô hồn ơi !
Lại
đây
sám hối tội thời tan ngay.
9.
Sa vào trận địa nguy thay,
Chiến
trường
bỏ mạng ai hay thế nào.
Xe
đè
ngựa kéo lộn nhào,
Máu
trôi
thịt nát chó vào tha xương.
Đoạt
mồi
hổ đói đón đường,
Tranh
nhau
cắn xé thảm thương mạng người.
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị cho đời giải oan !
10.
Những ai sinh chỗ vua quan,
Trung
tâm
văn hoá mãi ham quê người.
Trai
lành
gái tốt những ai,
Bán
làm
tôi tớ cho người phương xa.
Họ
hàng
tìm kiếm chẳng ra,
Chết
nơi
đất khách xót xa ngậm ngùi.
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lồ vị ngọt bùi mới cam !
11.
Những ai con Bắc cha Nam,
Ngựa
xe
tan vỡ biết làm sao đây ?
Nhà
tan
nước mất khổ thay,
Đường
đi
cách trở đắng cay muôn phần.
Họ
hàng
thân thích xa gần,
Biết
ngày
nào được quây quần gặp nhau.
Cô
hồn
thủy lục những đâu ?
Mau
về
truy điếu nguyện cầu sạch trong.
12.
Tuyệt
đường lương thực tay không,
Lại
còn
chết đói ngoài đồng tha ma.
Bị
quân
cướp giật không tha,
Giết
người
cướp của cùng là tranh nhau.
Thương
thay
ác nghiệp cơ cầu,
Một
khi
đã đến tránh đâu tội trời.
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị cho đời ung dung !
13.
Những ai đói rét lạnh lùng,
Mùa
đông
tháng giá hãi hùng gớm ghê !
Tên
rơi
đạn lạc tứ bề,
Đầy
trời
mưa tuyết đi về khó khăn.
Áo
quần
che chẳng kín thân,
Rét
run
cầm cập tử thần đến nơi.
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị cho đời ấm no !
14.
Những ai rắn cắn hổ vồ,
Thiên
lôi
dịch lệ cơ đồ nát tan.
Tường
siêu
nhà đổ ngập tràn,
Trôi
sông
thắt cổ chết oan đầy đường.
Ai
người
thân thích xót thương,
Gọi
là
cúng tiến nắm xương rã rời.
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị thảnh thơi lắm mà !
15.
Những ai cướp của đất nhà,
Lại
còn
sát hại chẳng tha mạng người.
Kẻ
này
hung ác nhất đời,
Phép
vua
luật nước chẳng coi ra gì.
Bắt
giam
vào ngục một khi,
Gậy
roi
đánh đập thân thì nát tan.
Lại
còn
cắt thịt moi gan,
Để
đền
tội ác hết van lạy trời.
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị cho đời tỉnh ra !
16.
Những ai hiếu thuận mẹ cha,
Cưu
mang
chín tháng khó mà báo ân.
Công
lao
cúc dục ân cần,
Tu
trì
hiếu đễ được phần nào chăng.
Oan
gia
ngỗ nghịch hung hăng,
Rồi
ra
mệnh táng hết đường nào đi.
Một
mai
về cõi âm ty,
Tội
kia
phúc nọ biết gì đúng sai.
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị cho đời thanh cao !
17.
Những ai mang nặng đẻ đau,
Lâm
bồn
một sớm ai vào thăm nom.
Tấm
thân
sinh nở gầy còm,
Đau
như
dao cắt sớm hôm hãi hùng.
Sinh
không
tử lại hoàn không,
Thương
thay
số phận mảnh mongmột đời.
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị sau đời dài lâu !
18.
Những ai buôn quán bán cầu,
Sông
Ngô
bể Sở gặp đâu là nhà.
Tham
tài
bỏ mạng phương xa,
Hồn
đường
phách sá biết là cậy ai.
Vợ
con
vái đất kêu trời,
Cũng
đành
vĩnh biệt ngậm ngùi mà thôi !
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị tuyệt vời ngon ghê !
19.
Những ai sông nước đi về,
Lênh
đênh
sóng gió thuyền bè ngả nghiêng.
Đắm
chìm
trôi giạt một phen,
Còn
đâu
xuôi ngược xuống lên nữa mà.
Xác
trôi
chim mổ quạ tha,
Thương
thay
chôn cất biết là cậy ai ?
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị tuyệt vời cao sang !
20.
Những ai là kẻ lang thang,
Cửa
nhà
chẳng đoái xóm làng chẳng trông.
Sinh
nhai
nghề nghiệp cũng không,
Vui
chơi
ca hát lầu hồng sớm khuya.
Xóm
đào
ngõ hạnh đi về,
Đêm
trường
mờ mịt say mê nói cười.
Bơ
vơ
góc bể chân trời,
Bạn
bè
dư đãng biết người là ai ?
Cô
hồn
hỡi cô hồn ơi !
Thụ
Cam
lộ vị tuyệt vời biết bao !
21.
Những ai cạo bỏ tóc râu,
Tìm
thầy
để học đạo mầu từ bi.
Dù
gặp
phải gian nguy hiểm trở,
Vẫn
một
lòng quyết chí theo thầy ;
Chân
không
chưa ngộ lý hay,
Vô
thường
hai chữ thoát ngay khó mà.
Nguyện
giác
linh Phật Đà tiếp dẫn,
Chứng
vô
sinh pháp nhẫn cao siêu.
22.
Khoa nghi diễn đọc mấy điều,
Gọi
là
hồi hướng ít nhiều chúng sinh.
Nay
trai
soạn lòng thành cúng tiến,
Cùng
hương
hoa phẩm vật kính dâng ;
Cầu
cho
vong giả siêu thăng,
Phúc
lưu
tín chủ số hằng hà sa.
Xin
kính tạ các tòa chư vị,
Cùng
Thiên
Long hoan hỷ hộ trì ;
Cát
tường
như ý từ bi,
Nhân
duyên
công đức độ trì chúng sinh.
A
Di Đà chứng minh,
Cùng
thành
Phật đạo cùng sinh liên đài.*
164
- VĂN TẾ CÔ HỒN
Hỡi
ôi !
Miền
U
cảnh lạnh lùng tăm tối,
Chốn
Huỳnh
tuyền nhiều lối nhọc nhằn.
Ẩn
dạ
đài đợi dứt kiếp căn,
Cõi
Tịnh
độ siêu thăng chưa được.
Ấy
bởi
tội lỗi gây kiếp trước,
Nhiều
nghiệt
oan, ít phước đức công.
Nên
phải
mang phiền não dập dồn,
Chịu
thống
khổ, phách hồn xiêu lạc.
Cầu
chư
Phật oai thần tế bạt,
Lên
Thiên
đàng, siêu thoát trần ai.
Nay
trai
diên đạm bạc kỉnh bày,
Xin
chư
vị tề lai thọ hưởng.
Giúp
lê
thứ quốc gia thạnh vọng,
Hộ
đạo
tràng tăng trưởng cơ duyên,
Độ
mười
phương sanh chúng bình yên,
Cùng
thí
chủ diên niên hạnh phúc.
Lụy
trào đế hầu vương đáng kính,
Vận
nước
vong khó tính mưu thành.
Xưa
cửu
trùng điện các liệt oanh,
Rủi
một
phút tan tành cơ nghiệp.
Chư
tướng soái binh cơ quyền nhiếp,
Chốn
chiến
trường nhiều dịp tận trung.
Vì
sa
cơ hồn xuống Diêm cung,
Nơi
dương
thế âm dung đà khuất.
Tài
bút nghiên văn thần báo quốc,
Tấm
lòng
son công chất nhà vàng.
Nào
hay
đâu dị lộ tìm đàng,
Rồi
một
thuở danh vang tể tướng.
Nhà
cơ cẩn thấy trời bốn hướng,
Lo
bút
nghiên vụ tưởng công danh.
Mười
năm
ngồi cửa sổ lạnh tanh,
Ba
thước
đất vùi danh tài tử.
Nhàm
cuộc thế lánh thân am tự,
Nương
Phật
đường gắng giữ kệ kinh.
Đèn
tắt
khuya Thiền thất hư minh,
Hồn
theo
gió đăng trình âm cảnh.
Thảm
cho đấng tu chơn dưỡng tánh,
Chốn
lâm
tòng đói lạnh không màng.
Lòng
dốc
trông nhập đặng Tiên bang,
Chí
chưa
toại tầm đàng Địa phủ.
Những
sĩ tốt tùng chinh đội ngũ,
Tại
trận
tiền củ củ oai hùng.
Chịu
tuyết
sương mưa nắng lạnh lùng,
Lằn
tên
đạn không dung tánh mạng.
Lo
đồ lợi thương hồ buôn bán,
Nương
thủy
triều ngày tháng kinh thương.
Sóng
ba
đào phong võ khó lường,
Thân
trôi
nổi gởi xương bụng cá.
Mười
tháng chẵn mang con trong dạ,
Lúc
lầm
bồn mạng đã tìm Tiên.
Thị
huyết
hồ nạn sản chi khiên,
Hoa
mới
nở vội liền mưa gió.
Tánh
ngỗ nghịch hiếu trung chẳng có,
Công
sanh
thành chưa rõ cao dày.
Hoặc
huyền
lương độc dược ra tay,
Bị
lôi
chấn đọa đày ngục thất.
Người
bóng quáng thêm mang bịnh tật,
Thác
giữa
đàng không đất gởi thây.
Hồn
dật
dờ theo gió theo mây,
Thành
Uổng
tử đêm ngày đói lạnh.
Người
nghèo khó đốn cây non lãnh,
Chịu
nhọc
nhằn khổ hạnh cơ hàn.
Bị
độc
trùng ác thú hổ lang,
Hoặc
hỏa
thán tầm phong dị lộ.
Người
lương thiện tao phùng tật đố,
Bị
ngọt
ngon dụ dỗ hại thầm.
Oan
hồn
tìm đến chốn u thâm,
Còn
mắc
phải gian cầm gìn giữ.
Gái
khuê các giai nhơn mỹ nữ,
Chẳng
trọn
tình cư xử nợ khiên.
Xưa
hương
xông phấn ướp phấn duyên,
Nay
đến
chốn Huỳnh tuyền sở ỷ.
Kẻ
tù tội mắc vòng lao lý,
Chúng
tôi
đoài nô tỷ khổ thân.
Thêm
phạt
hành độc thủ bất nhân,
Hồn
lìa
cách dương trần rất thảm.
Bị
hỏa hoạn tâm hồn mê ám,
Lúc
kinh
hoàng khổ thảm biết bao !
Tìm
đường
ra khỏi ngọn lửa cao,
Rủi
một
phút thân thiêu tro bụi.
Cơn
thủy nạn hoảng kinh bối rối,
Họa
lụt
tràn trôi nổi cửa nhà.
Mạng
số
suy, thần tử chẳng tha,
Theo
dòng
nước hồn ma vĩnh biệt.
Khi
bão tố đá cây ngã liệt,
Sập
cửa
nhà đè chết nào hay.
Hồn
dật
dờ theo cảnh gió mây,
Chịu
đau
đớn đọa đày nẻo tối.
Cuộc
tang thương tuần hoàn thay đổi,
Chấn
động
miền non núi đất liền.
Bị
lấp
chôn hồn phách đảo điên,
Chịu
muôn
nỗi não phiền đau đớn.
Bị
xe cán nát thây rùng rợn,
Vận
kiếp
xui họa lớn nào hay.
Bà
con
trông than khóc thảm thay,
Cơn
hoảng
hốt hồn lai uổng tử.
Vì
ái dục si tình tự tử,
Cơn
đắm
mê nào sợ tội mang.
Gieo
mình
nơi biển nghiệp sông oan,
Hồn
phách
chịu muôn vàn lạnh lẽo.
Ít
phước đức họa tai lôi kéo,
Đời
lao
công nhiều nẻo hiểm nguy,
Trên
giàn
cao ngã té bất kỳ,
Thân
tan
nát hồn phi phách tán.
Nơi
chiến địa lâm cơn tạc đạn,
Thi
hài
tiêu tứ tán khó nhìn.
Thảm
thương
cho hồn phách linh đinh,
Miền
âm
cảnh muôn nghìn khổ não.
Người
lương thiện chết oan điên đảo,
Vì
đạn
tên lạc náo xóm làng.
Oan
hồn
cam vào chốn nguy nan,
Chịu
u
ám, xa đàng giải thoát.
Bị
khổ bức vì tình đen bạc,
Tự
hủy
mình cam chác nghiệp sâu.
Mũi
đạn
xuyên, muôn kiếp khổ sầu,
Hồn
phưởng
phất biết đâu nương dựa !
Bị
cướp giặc lòng tham hung dữ,
Đoạt
của
rồi giết chủ thác oan.
Hồn
dật
dờ thảm khổ muôn đàng,
Kết
thù
oán khôn toan siêu độ.
Đời
mạc kiếp loạn ly tội lỗi,
Bị
hiếp
dâm đến nỗi bỏ mình.
Phách
hồn
oan lạc lối u minh.
Lòng
khổ
bức muôn nghìn oán hận.
Đời
giặc giã nghịch thù vô tận,
Chôn
sống
người giữa đám đồng hoang.
Tiếng
khóc
la oán khí đầy tràn,
Trong
giây
phút dương gian cách biệt.
Giặc
bất lương giết người chẳng tiếc,
Trói
lương
dân thù ghét quăng sông.
Lặn
hụp
nơi nước cuốn giữa dòng,
Thân
trôi
nổi, oan hồn thơ thẩn.
Bị
oán chạ chém đâm tàn nhẫn,
Hoặc
thù
hiềm giết lẫn mạng vong.
Hồn
phất
phơ nơi chốn long đong,
Biết
bao
thuở thoát vòng khổ não.
Xe
lật đổ, đụng nhau táo bạo,
Chết
giữa
đàng khôn bảo toàn thi.
Thây
nằm
phơi, hồn đã biệt ly,
Bà
con
thấy, ai bi thống thiết !
Người
tắm biển tắm sông biệt tích,
Kẻ
lội
chìm, tê liệt tay chân.
Cơn
rủi
ro dòng nước gởi thây,
Hồn
lạnh
lẽo tháng ngày thảm khổ.
Trong
cơ xưởng nhơn công phục vụ,
Bị
máy
lôi vào chỗ hiểm nguy.
Hoặc
điện
hơi giựt ngã cấp kỳ,
Rủi
một
phút hồn phi phách tán.
Còn
nhiều loại hồn oan ta thán,
Nơi
suối
vàng thê thảm ngậm ngùi,
Các
hồn
chưa mãn kiếp Phong đô,
Đương
xiêu
lạc khắp nơi khổ não.
Lời
thiển bạc nay đà trần tố,
Thương
xót
thay nỗi khổ các vì.
Hồn
linh
thiêng hiển hích chứng tri,
Xin
sám
hối tiền phi hậu quá.
Xét
tội lỗi oan khiên vay trả,
Giác
ngộ
tua diệt cả ác duyên,
Ý
tịnh thanh dứt sạch não phiền,
Giữ
ba
nghiệp vẹn tuyền trong sạch.
Quy
y Phật tịnh yên hồn phách,
Nhẫn
tâm
tồn, giải sạch cừu oan.
Phật
dạy
rằng tạo tội, tội mang,
Luật
nhân
quả rõ ràng khó tránh.
Muốn
giải thoát, noi gương Phật Thánh,
Chưởng
Bồ
đề, xa lánh tội căn.
Nguyện
Từ
Tôn Tam Bảo mười phang,
Độ
chư
vị thoát đàng khổ não.
Dẫn
Hồn Vương lòng thương khuyên bảo,
Thập
Điện
đồng mở đạo Từ bi.
Giảm
phạt
hành, ân huệ bố thi,
Đức
Địa
Tạng đại bi cứu rỗi.
Linh
hồn
đặng xa nơi ngục tối,
Vãng
sinh
miền Tịnh Độ thảnh thơi.
Hết
lòng
thương nay tỏ mấy lời,
Xin
chư
vị khắp nơi chứng chiếu.
Nam
mô A Di Đà Phật.*
165
- BÁT NHÃ TÂM KINH
Quán
Tự Tại thực hành trí tuệ,
Bát
Nhã
ba la mật sáng ngời ;
Bấy
giờ
Bồ Tát quán soi,
Thấy
rằng
năm uẩn ba đời đều không.
Độ
tất
cả qua vòng khổ ách,
Hãy
nghe
này, Xá Lợi Phất ông !
Sắc
nào
có khác gì không,
Không
nào
khác sắc, sắc không vốn đồng.
Cả
thọ
tưởng thức hành cũng thế,
Tánh
chân
không các pháp viên thành ;
Thảy
đều
chẳng diệt, chẳng sanh,
Chẳng
nhơ
chẳng sạch chẳng tăng giảm gì.
Trong
chân
không chẳng hề có sắc,
Chẳng
thọ,
hành, tưởng, thức trong không,
Mắt,
tai,
mũi, lưỡi, ý, thân,
Sắc,
thanh,
vị, xúc, pháp, hương không còn.
Không
nhãn
thức đến không ý thức,
Không
vô
minh hoặc hết vô minh,
Không
điều
già chết chúng sanh,
Hết
già
hết chết thực tình cũng không.
Không
trí
tuệ cũng không chứng đắc ;
Bởi
có
gì là chỗ đắc đâu,
Bấy
lâu
Bồ Tát dựa vào,
Ba
la
mật ấy, đi sâu thực hành.
Mọi
chướng
ngại, quanh minh tan biến,
Mọi
việc
đều chẳng khiến hoảng kinh ;
Xa
lìa
mộng tưởng đảo điên,
Niết
bàn
rốt ráo an nhiên thanh nhàn.
Ba
la
mật rõ ràng trí tuệ,
Mà
ba
đời chư Phật nương qua ;
Bồ
đề
vô thượng chứng ra,
Nên
coi
Bát Nhã ba la mật là :
Lời
thần
chú sâu xa bậc nhất,
Lời
chú
thần rất mực quang minh ;
Chú
thần
cao cả anh linh,
Là
lời
thần chú thực tình cao siêu.
Trừ
dứt
được mọi điều đau khổ,
Đúng
như
vầy, muôn thuở không sai ;
Ngài
liền
đọc lại chú này,
Để
người
trì niệm sáng bày chân tâm :
Yết
đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề
tát bà ha.* (3 lần)