Phật pháp ứng dụng
Bài Pháp Cho Người Già Bịnh
01/02/2010 09:47 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Mục lục
  • Trang 2

Như vậy cái cận tử nghiệp rất là quan trọng. Nếu mà tất cả chúng ta không biết, để cho cái cận tử nghiệp nó chuyển thành ác thì đưa chúng ta tới cõi ác. Còn nếu chúng ta biết dù trước kia có làm ác mà bây giờ chúng ta chuyển thành thiện thì nó cũng đưa chúng ta tới cõi lành. Do đó người Phật tử chân chính phải nhớ, phải biết rõ cái quan trọng của cận tử nghiệp.

Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận cái tích lũy nghiệp. Tích lũy nghiệp là cái nghiệp mình chất chứa từ khi có mặt mình cho tới già. Nếu mà từ nhỏ tới lớn mình làm điều lành nhiều, đó gọi là cái tích lũy nghiệp thiện. Nếu từ nhỏ tới lớn mình làm điều ác nhiều thì gọi đó là tích lũy nghiệp ác. Cái tích lũy nghiệp đó, nếu mà khi mình sắp lâm chung, mình không khởi những niệm ác thì con đường thiện, nhất định mình đi tới luôn. Còn nếu tích lũy nghiệp thiện, mà khi sắp lâm chung lại khởi niệm ác thì con đường thiện của mình phải bị quanh co. Có khi nó dẫn mình tới chỗ dữ. Ngược lại, nếu cái tích lũy nghiệp ác mà tới khi sắp lâm chung mình lại khởi cái niệm thiện, thì cái con đường ác, lý đáng mình phải chịu mà bây giờ mình lại chuyển ra con đường lành. Do đó cho nên cái cận tử nghiệp rất là mạnh, rất là đáng sợ. Tất cả các vị nào mà tuổi lớn, hay bịnh hoạn, phải nghĩ tới cái cận tử nghiệp mà dè dặt tối đa, chớ không nên để cho nó tạo cái ảnh hưởng lớn gây cho chúng ta cái đau khổ sau này. Ðó là tôi nói về cái sức mạnh của cận tử nghiệp.

Bây giờ nói những điều cấm kỵ của người khi sắp lâm chung. Những điều cấm kỵ là những điều không bao giờ nên làm, nên có, khi chúng ta biết đạo lý. Một là khi sắp lâm chung cấm kỵ không nên sanh giận. Tức là khi chúng ta sắp tắt thở thì dầu có cái gì trái ý, chúng ta cũng bỏ qua. Lo cho cái chết của mình, chớ không có buồn, có giận làm gì. Nếu sân giận thì chúng ta phải đọa vào những cõi dữ, làm những con vật hung dữ. Khó mà tránh khỏi. Ðó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai là phải dứt cái tâm oán thù. Nếu ôm cái tâm oán thù thì khi nhắm mắt chúng sẽ đi theo cái nghiệp oán thù mà đền đền trả trả không có ngày cùng. Tức là mình thù người thì sanh ra gặp khắc nhau, hại nhau. Tức là cái đau khổ nó chồng chất không biết đến đâu cho hết. Vì vậy mà cái tâm oán thù chúng ta phải dứt.

Cái thứ ba là cái tâm yêu tiếc. Tức là yêu mến con cháu, tiếc của cải, vân vân. Ðó cũng là cái nguy hiểm. Nghĩa là càng yêu tiếc thì tức nhiên lại có thể bị trầm luân. Ðó là bị chết, rồi trở lại làm những con vật không tốt. Như trong sử các vị tổ, ba mươi ba vị tổ, ở Ấn Ðộ có một vị tổ, tôi không nhớ tên rõ. Một hôm ngài đi khất thực, đi ngang nhà một ông trưởng giả. Khi đó ông trưởng giả đi khỏi, có con chó chạy ra sủa. Nó sủa to lên. Ngài nhìn nó ngài mới quở: "Ngươi vì cái bịnh tiếc của mà phải sinh trở lại làm chó giữ của mà ngươi không biết thân, còn sủa om sòm".

Ngài quở nó như vậy rồi nó buồn. Nó bỏ ăn. Ông trưởng giả về, ông rất là yêu mến con chó. Bây giờ thấy nó bỏ ăn, ông tức quá. Ông hỏi lý do thì người nhà nói sáng mai có một ông sa môn đi ngang qua. Nó sủa rồi không biết ông nói gì với nó. Cho nên bây giờ nó bỏ ăn. Ông trưởng giả hỏi ông sa môn đó ở đâu. Người nhà chỉ và nói vị đó khất thực rồi về ở đàng đầu làng. Ông mới tìm tới nhà. Khi tìm tới nhà rồi với cái tâm sân hận, ông nói:
--"Có phải ông khi sáng mai nói gì con chó của tôi mà bây giờ nó giận, nó buồn, nó bỏ ăn. Tại sao vậy?"

Ngài nói:
--"Ông đừng có nóng giận. Ta sẽ nói cho ông nghe."

Ông trưởng giả mới dịu lại. Ngài mới nói rằng:
--"Con chó đó nó là cha của ông."

Ông trưởng giả càng tức hơn nữa. Ông nói:
--"Tại sao con chó là cha tôi?"

Ngài mới nói:
--"Nếu ngươi không tin ta thì về ngay cái chỗ giữa cái giường của ông thân ngươi ngủ mà bây giờ con chó nó hay nằm ở dưới đất, ông đào xuống, ông sẽ thấy một chén (?) vàng. Bởi vì cha ông khi chết chôn cái chén (?) vàng ở đó mà không có trối trăn được với ông, cho nên bây giờ, vì tiếc của, nên phải sanh trở lại làm chó để giữ của. Nếu ông không tin ta thì về nhà đào sẽ thấy."

Khi đó ông hoảng hốt, ông liền không lớn tiếng với tổ nửa. Ông trở về ông đào, thì quả nhiên ông đào xuống thì ông thấy một chén (?) vàng. Ông đem lên. Chừng đó ông mới hoảng, ông chạy tới, cầu xin tổ cứu cha ông. Tổ mới khuyên ông bây giờ đem của đó bố thí vào những việc phải thì cha ông hết nghiệp. Ông liền đem của đó bố thí, thì sau đó con chó mới chết. Như vậy, chính vì cái yêu tiếc của mà rồi phải trở lại làm chó để giữ của. Cái điều đó là cái điều đáng sợ.
Cho nên ở đây tôi gọi là ba điều cấm kỵ trước khi lâm chung, người Phật tử phải nhớ đừng bao giờ cho xảy ra. Tôi nhắc lại, điều thứ nhứt là tâm sân giận. Ðiều thứ hai là tâm oán thù. Ðiều thứ ba là tâm yêu tiếc. Yêu con, tiếc của. Phải đừng có ba cái tâm đó, thì như vậy mới khỏi có những cái đọa những đường khổ. Chớ còn ôm ba cái tâm đó là nguy hiểm.

Nhắc lại, khi sắp lâm chung cần khởi cái tâm thiện. Nếu khi lâm chung mà khởi tâm thiện thì chúng ta sẽ được những điều lành, điều tốt. Những tâm thiện là tâm gì? Hoặc là khi sắp lâm chung liền khởi cái tâm bố thí, tức là giúp đỡ người nghèo, kẻ bệnh. Mình có phương tiện tới đâu, mình phát tâm tới đó. Khuyên con cháu phải làm việc bố thí, giúp đỡ cho người nghèo, kẻ bệnh, ... (?) Ðiều thứ hai là phát tâm cúng dường tam bảo, nếu người đã qui y rồi. Nếu người chưa qui y thì phát tâm qui y tam bảo. Ðể cho cái tâm thiện của mình tăng trưởng. Như vậy sẽ được cái hướng tiến đến cái điều thiện, rồi sẽ đi con đường thiện. Ba nữa là phát tâm phóng sanh, tức là cứu những con vật bị người ta bắt, người ta giết. Mình có thể cứu nó, nghĩa là mua, hoặc là tìm cách nào đó, dùng phương tiện nào đó, để giúp những con vật không bị chết. Ðó gọi là phát cái tâm phóng sanh.

Như vậy bố thí, cúng dường, phát tâm phóng sanh là cái tâm lành. Mà phát cái tâm lành như vậy thì tự nhiên lần lần chúng ta sẽ đi con đường lành. Ðó là cái điều cần phải khởi tâm trong lúc sắp lâm chung.

Bây giờ nói đến người Phật tử biết tu thì khi sắp lâm chung cần phải có những điều mà mình ứng dụng để gìn giữ cái tâm mình luôn luôn đi đúng đường, không có lệch lạc. Nếu cái người tu tịnh độ lâu nay chuyên niệm Phật, thì khi mình càng bệnh nặng, bệnh nhiều, thì mình phải ráng nhớ niệm Phật không quên. Lúc nào tâm mình cũng hướng về Phật, chớ không có lơi lỏng. Không có nghĩ tới con, nghĩ tới cháu, nghĩ tới tài sản gì hết. Chỉ nhớ Phật thôi. Như vậy nhứt định sẽ đi theo Phật, không nghi ngờ. Ðó là điều thứ nhứt cho những người biết niệm Phật, chuyên về niệm Phật, thì phải nhớ niệm Phật chớ đừng quên.

Còn hai là người không chuyên niệm Phật mà thường coi kinh sách, bây giờ gần chết thì phải nhớ một bài kệ. Tỉ dụ như quí vị thường tụng kinh Kim Cang chẳng hạn, thì quí vị phải nhớ một bài kệ, tức là nhớ tới Pháp. Hồi nãy là mình nhớ Phật, như người niệm Phật Di Ðà, thì nhớ tới Phật Di Ðà, niệm hoài. Còn ở đây, chúng ta nghiên cứu kinh điển, học Pháp của Phật, thì bây giờ nhớ Pháp, tức là tụng một bài kệ. Như bài kệ nói rằng "nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán", trong kinh Kim Cang. Nghĩa là tất cả pháp hữu vi, như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng. Không có cái gì là thiệt hết. Như sương, cũng như điện chớp. Chớp nhoáng rồi mất, nó không có còn lâu dài. Mà phải luôn luôn quán như thế đó. Chúng ta tụng mãi cái bài kệ đó thì tâm hồn chúng ta được trong sáng, nó không có kinh hoàng trong khi mình sắp lâm chung. Ðó là trường hợp thứ hai.

Trường hợp thứ ba, nếu người biết tu thiền, tâm mình đã yên tĩnh phần nào thì nhớ lúc sắp lâm chung mình hằng sống với cái tâm thanh tịnh. Chớ đừng có chạy theo cái tâm vọng tưởng điên đảo. Nghĩa là nhớ ngay trong con người bại hoại này có cái không bại hoại để mình không có kinh hoàng, không có sợ sệt, mà mình sống với cái tâm bất sanh bất diệt của chính mình. Thân này chẳng qua là như một cái tướng hư ảo, có đó rồi mất, chớ không có bền. Chỉ có cái thể thanh tịnh, chân thật của mình, cái đó muôn đời không sanh không diệt. Vì vậy cho nên chúng ta sống với cái thường, không sanh không diệt. Ðó là chúng ta biết tu.

Như vậy trong ba trường hợp mà tôi kể ở đây, người chuyên niệm Phật thì phải nhớ câu niệm Phật, chớ không nhớ chuyện đời. Người chuyên nghiên cứu pháp thì nhớ một bài kệ. Còn người chuyên thiền thì phải nhớ ngay nơi mình có cái chẳng sanh diệt hằng thanh tịnh, để mà sống. Như vậy khi mình chết thì không có gì đáng sợ, không có cái gì đáng lo hết. Ðó là những điều cần yếu trong khi sắp lâm chung. Người nào biết tu nhớ được những điều này thì không có cái gì gọi là mê muội, không có cái gì sợ hãi, được ra đi một cách êm ái nhẹ nhàng và sáng suốt. Ðó là tôi nhắc cho quí vị trong khi sắp lâm chung.

Bây giờ nói tới hậu sự. Hậu sự tức là sau khi mình chết. Nhiều vị thường hay nghĩ mình chết rồi, trối trăn với con cháu phải làm thế này, làm thế kia cho mình. Ðiều đó tôi thấy nó dư. Tại sao vậy? Bởi vì mình phải biết cái thân này là do tứ đại hòa hợp mà thành. Chúng ta sống cũng mượn tứ đại mà sống. Uống nước tức là giúp cho cái thủy đại. Aên thì giúp cho địa đại. Thở thì giúp cho phong đại, vân vân. Thì như vậy, trong bốn đại đó, nhờ mình vay mượn ở bên ngoài mà nó còn, nó tồn tại. Ðến khi chết, tức là mình không vay mượn nữa, thì trả về cho tứ đại. Tứ đại trả về cho tứ đại, thì ở chổ nào cũng là tứ đại hết.

Ở tại xứ người, tứ đại cũng là tứ đại. Về quê hương mình, tứ đại cũng là tứ đại. Chớ đừng có nghĩ, giả sử bỏ tứ đại ở xứ người rồi đó là có chuyện thiệt thòi. Ðừng nghĩ như vậy. Mà tứ đại trả ở đâu cũng được hết. Cái thiệt thòi nhứt là cái tâm, cái tinh thần của mình khi ra đi mà không sáng suốt. Ðó là cái thiệt thòi. Chớ còn cái thân tứ đại này bỏ ở đâu cũng được hết. Cho nên người ta hay nói rằng thân này là thân cát bụi. Cát bụi chỗ nào cũng trở về cát bụi hết. Chớ không phải về xứ mình mà nó sẽ thành cái gì. Không thành vàng, thành ngọc gì cả. Vì vậy cho nên đừng quan trọng, để cho cái thân này, tự gia đình, tự con cháu giải quyết bằng cách nào miễn thấy tiện, có lợi. Hay là giải quyết bằng cách nào thấy thuận lợi nhứt thì con cháu làm. Mình khỏi cần phải dặn dò gì, khỏi cần bắt buộc gì hết. Chớ còn dặn dò bắt buộc, làm cho con cháu nhiều khi nó phải lúng túng. Thí dụ như ở chỗ đó không có lò thiêu mà bảo rằng chết phải thiêu. Khi đó có đất để chôn mà không chịu chôn. Kiếm chỗ thiêu thì chạy cùng hết không có. Hoặc chỗ đó có lò thiêu mà không có đất chôn mà mình không chịu, nói rằng chết thiêu nóng lắm, phải tìm đất chôn. Con cháu hoảng sợ, nó không biết đất ở đâu mà tìm. Như vậy chỉ là cái khổ cho người sống, chớ không có lợi gì hết.

Mà thân tứ đại nó là đất nước gió lửa còn có biết gì nữa mà sợ nóng, hay còn biết gì nữa mà đòi về quê hương. Cái biết chăng là cái tinh thần, cái tâm của mình. Do đó cho nên quí vị đừng có lầm lẫn mà nghĩ rằng thân này phải trở về quê hương mình mới tốt. Ðó là một cái sai lầm. Chính cái tâm hồn của mình trong sáng, mình đi đến chỗ nào mình thích. Cái đó mới là cái quan trọng. Còn tứ đại ở đâu trả cũng được hết. Bỏ ở chỗ nào cũng thành tứ đại. Chớ không bỏ ở chỗ nào mà thành vàng thành ngọc.

Ðó là những lời nhắc nhở để quí vị biết sau khi chúng ta có trăm tuổi, không làm phiền hà cho con cháu. Như vậy ở đây tôi chỉ nói một thời gian ngắn để cho quí vị nghe những điều cần thiết trong khi bệnh và già, sắp lâm chung, mình có cái hướng để chọn lựa. Chớ đừng có bị những cái tâm phàm tục, nó làm cho mình phải đau khổ ngay trong khi đó, khi sắp lâm chung, rồi nó lại kéo dài cái đau khổ sau khi mình đã lâm chung. Ðó là cái điều thiết yếu. Mong rằng tất cả quí Phật tử nghe rồi nhớ ứng dụng. Thì đó là tự cứu mình, mà cũng là lời Phật dạy để chúng ta thoát khổ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Thích Thanh Từ

Bao Hiem BSH
» Video
» Ảnh đẹp
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch