Phật pháp ứng dụng
Thiền trong đời thường
Tác giả: Thích Thông Huệ
24/02/2010 05:01 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Chương 4: THIỀN TRONG ĐỜI THƯỜNG

I. THIỀN TRONG NHỮNG HOÀN CẢNH THUẬN NGHỊCH.

   Vì Thiền không xa rời sự sống, nên Thiền cũng muôn màu muôn vẻ theo sự sinh động của dòng sống luân lưu. Người sống với bản tâm chân thật biết ứng xử linh hoạt tùy hoàn cảnh tùy đối tượng, không theo một khuôn mẫu cố định nào.

   Ngày xưa có hai ngôi đền Thiền, mỗi đền có một chú tiểu hầu cận. Một lần, thiền sinh ở ngôi đền phương bắc gặp thiền sinh phương nam giữa đường, bèn hỏi:

   - Huynh đi đâu vậy ?

   Thiền sinh phương nam đáp:

   - Đôi chân nầy đưa đến đâu, tôi đi đến đó.

   Thiền sinh bắc không biết nói sao, về trình lại sư phụ. Sư phụ bày : “Nếu lần sau nó nói vậy, con hãy hỏi lại : Nếu không có chân thì huynh đi đến đâu?”

   Hôm sau hai chú gặp nhau, thiền sinh bắc hỏi lại câu trên, nhưng chú kia lại trả lời:

   - Gió cuốn đi đâu, tôi đi đến đó.

   Thiền sinh bắc lại bí, về cầu cứu sư phụ, được chỉ dạy: “Con hỏi lại: nếu không có gió, huynh đi đâu?”

   Không ngờ lần gặp sau, thiền sinh nam lại đáp một cách đơn giản:

   -Tôi đi chợ.([1])

Câu chuyện trên cho thấy rõ sự khác biệt giữa hai người. Thiền sinh phương nam sống với tâm Thiền nên ứng xử một cách linh hoạt và hồn nhiên. Thiền sinh bắc thì sắp dặt trước với sự hỗ trợ của thầy, nhưng vì không có vốn thật của mình, nên không thể đối phó kịp thời. Như thế, vốn sống thật sự là do tâm mỗi người lưu xuất, không nhờ sự giúp đỡ tiếp sức của một ai, và hiện thực thế nào thì ứng cơ tiếp vật thế ấy.

1. Trong đau khổ - nghịch cảnh:

Theo quan niệm của người xưa, có ba mức độ ở ẩn: Tiểu ẩn là tu hành trong tu viện; Trung ẩn là sống đời tục gia cư sĩ; Đại ẩn là làm quan trong triều. Môi trường tự viện ít náo động, tăng ni sống theo tinh thần lục hòa cộng trụ; ấy là ngôi nhà chung êm đềm ấm cúng, là môi trường tốt cho sự tu tập. Nhưng hoàn cảnh quá thuận tiện nên người tu ít được thử thách, ít được rèn giũa nghị lực và ít có điều kiện phát huy khả năng đối phó với ngoại trần; cho nên gọi là Tiểu ẩn. Đời sống gia đình nhiều ràng buộc hệ lụy, phải lo toan nhiều bề cho cuộc sống bản thân và quyến thuộc, phải lo toan nhiều bề cho cuộc sống bản thân và quyến thuộc. Phải làm tròn nghĩa vụ với xã hội và đất nước. Nếu người tu được trong hoàn cảnh này là có đạo lực khá, tu có kết quả lại càng khá hơn, vì thế là Trung ẩn. Đặc biệt nhất là trường hợp người giữ chức vụ cao trong triều đình, trong chính phủ. Quyền lực càng lớn, trách nhiệm càng nặng nề, một quyết định ban ra làm ảnh hưởng biết bao người. Công việc dồn dập và căng thẳng mà có thể tu được thì vị ấy quá siêu xuất, tu hành mà ngộ lại càng kỳ tuyệt, nên gọi là Đại ẩn.

Những người luyện khinh công, đầu tiên đào một hố sâu dưới đất, đổ đất vào ống quần và buộc túm lại cho người nặng thêm, tập nhảy từ hố lên mặt đất. Lần lần hố đào sâu hơn, đổ cát nặng hơn. Khi tập thuần thục, trở lại trang phục bình thường, người ấy có thể nhảy rất cao. Đây là cách luyện võ trong nghịch duyên. Người tu chúng ta cũng thế, đôi khi hoàn cảnh khó khăn giúp ta tiến nhanh trên đường đạo, vì đây là cơ hội để ta phát huy trí sáng tạo, khả năng ứng phó, và cũng là thước đo định lực của mình. Nhà Thiền quan niệm, tu không phải trốn chạy nghịch cảnh mà là dũng cảm đương đầu với mọi tình huống; là trong mọi cảnh ngộ đều biểu hiện sức tự chủ kham nhẫn; là thể hiện sự tự do tự tại trước những ràng buộc của tiền trần. Trong đời, nhiều lúc bình thường ta thấy tâm thanh tịnh an lạc, ta nghĩ mình tu có kết quả. Nhưng khi gặp việc không hay xảy đến, những kiết sử lâu nay ngủ ngầm bỗng sống dậy, phát tác; vỡ lẽ ra rằng, ta vẫn còn tâm thị phi nhân ngã, vẫn còn nguyên là phàm phu với mọi nỗi phiền não khổ đau. Cho nên, chúng ta cần duy trì sức cảnh giác liên tục, phát hiện ngay những vọng niệm từ lúc mới manh nha. Câu chuyện sau đây đáng để chúng ta suy gẫm : Có một chàng thanh niên nghèo khổ, cha mẹ không còn, vợ con không có. Nghe nhà vua ban chiếu chống giặc ngoại xâm, chàng hăng hái gia nhập quân ngũ. Nhờ chiến đấu dũng cảm, chàng lập nhiều công trận, được vua phong làm quan. Một thời gian sau lại có giặc, chàng phụng mệnh vua lãnh quân đi dẹp, nhưng đánh trận nào thua trận ấy. Nhà vua tức giận, triệu chàng về hỏi nguyên do. Chàng thật thà tâu rằng: “Muôn tâu bệ hạ, ngày xưa hạ thần là kẻ vô gia cư vô nghề nghiệp, không có gì để mất, nên không sợ chết; do vậy vào chỗ quân địch như chỗ không người. Ngày nay được bệ hạ ban cho phẩm lộc, hạ thần thấy mình là quan trọng, đâm ra sợ chết, vì thế không còn tinh thần chiến đấu nữa”.

   Bài pháp đầu tiên Đức Phật dạy tại Lộc Uyển là Tứ Diệu Đế, trong đó Khổ đế được đặt lên hàng đầu. Trong Phạn ngữ, Dukkha ngoài nghĩa Khổ còn có nghĩa là Bất toàn, bất như ý, Vô thường … Tựu trung, con người có tám điều khổ chính: Sanh-Già-Bệnh-Chết-Cầu mong không thành tựu-Thương mà phải xa lìa-Ghét mà gặp gỡ - Thân năm ấm lẫy lừng. Trong văn học Việt Nam cũng có nhiều lời thơ rất hay diễn tả nỗi khổ của kiếp người. Ngay từ phút đầu làm quen với cuộc sống, có phải em bé đã biết khổ nên mới cất tiếng khóc chào đời, như Nguyễn Công Trứ đã tự hỏi:

               Thoạt sinh ra thì đà khóc choé

               Trần có vui sao chẳng cười khì?

Khi lớn lên, trải qua nhiều phen thăng trầm vinh nhục, con người thấy rõ việc đời mình có khác gì việc của trăng :

Tuy là soi khắp mọi nơi

Khi mờ  khi tỏ, khi vơi khi đầy.

(Nguyễn Đình Chiểu)

Dù vất vả đua tranh với đời suốt kiếp, cuối cùng sẽ còn lại những gì ngoài những nếp nhăn trên trán và hố thẳm trong tâm hồn ?

   Nếu chỉ dừng lại nơi phạm vi ý thức về sự khổ, chúng ta có cái nhìn bi quan yếm thế về cuộc đời. Đạo Phật với tinh thần tích cực và tôn trọng sự thật, nhận chân về cái khổ nhưng còn đi xa hơn, biết rõ nguyên nhân của khổ, cách thoát khổ và kết quả cuối cùng của việc làm ấy. Nhìn chung, khổ là do tập khí chấp ngã quá nặng. Chấp ngã thô là Phân biệt ngã chấp, có tính chất nông cạn trên mặt ý thức; chấp ngã tế là Câu sanh ngã chấp, rất khó nhận diện và khó tẩy trừ. Tập khí là thế lực hùng mạnh vô biên, làm chuyển động bánh xe luân hồi, lôi cuốn con người vào guồng máy sanh tử không cách nào thoát khỏi, nếu không biết đường tu. Chính vì chấp ngã nên ta thích khen sợ chê, thích sướng sợ khổ. Ta thương người nhưng muốn người ta thương phải là sở hữu của riêng ta; nên khi xa người, ta lại như Hàn Mặc Tử :

               Làm sao giết được người trong mộng,

               Để trả thù duyên kiếp bẽ bàng.

Một thi sĩ có bốn câu thơ sau đây :

               Không đau khổ lấy chi làm chất liệu

Không buồn thương sao biết chuyện con người

               Không nghèo đói làm sao thi vị hoá

               Không lang thang sao biết gió mưa nhiều.

   Đau khổ là chất liệu của cuộc sống, vì nhờ đau khổ con người mới có kinh nghiệm trên trường đời, mới thức tỉnh tìm cách thoát khổ. Trong bốn châu nhân gian, chỉ có cõi Diêm-phù-đề là Nam-thiệm-bộ-châu, nơi chúng ta đang ở là có đủ điều kiện tu hành; trong khi Bắc-câu-lô-châu quá sung sướng, người ở đó không có cơ hội thức tỉnh. Mặc khác, nhờ những khi mưa nắng dãi dầu, ta mới hiểu rõ nỗi khổ của người nghèo khó. Nếu suốt đời chỉ sống trong nhung lụa, luôn được thành công đắc ý, làm sao ta thấm thía sự bần cùng thất chí của kẻ khác, làm sao thông cảm được tội lỗi của người ? Cho nên sự từng trải đủ mùi đắng cay của cuộc sống cũng là một điều kiện phát khởi tình thương và lòng bao dung đối với đồng loại.

   Nhưng có khi nào ta tự hỏi : những cảnh thuận nghịch vui buồn ấy có phải do từ bên ngoài đưa đến? Cũng cùng một cảnh giới, sao bậc đạt đạo luôn an lạc mà chúng ta lại thấy phiền não khổ đau? Cùng một buổi chiều trên sông, người vui cho là êm đềm thơ mộng, người buồn lại cảm thấy cô đơn trống vắng : “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thi hào Nguyễn Du đã có nhiều kinh nghiệm sống, nên diễn tả thật sâu sắc tâm trạng con người. Tất cả hoàn cảnh trên đời đều do tâm ta vẽ vời hết thảy; và nếu ta có  sự an lạc nội tâm, ta có thể trực diện với mọi tình huống, giải quyết tốt đẹp mọi vấn đề. Nguyễn Công Trứ khi còn hàn vi, dù trong cảnh nghèo cùng cực vẫn thi vị hoá cuộc sống của mình :

               Ngày hai bữa vỗ bụng rau bình bịch,

               Người quân tử ăn chẳng cầu no.

               Đêm năm canh ngon giấc ngáy pho pho,

               Thời thái bình ngủ thường mở cửa.

Đến khi làm quan lại thăng trầm nhiều nỗi, có lúc tột đỉnh là Tể tướng, có khi bị giáng xuống làm lính thú, ông vẫn bình thản bảo rằng: “ Lúc làm Tể tướng ta không cho đó là vinh, thì khi làm lính sao gọi là nhục?”. Đôi lần thấm thía mùi đời, ông cũng đã cay đắng thốt lên :

Kiếp sau xin chớ làm người,

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.

Nhưng những lúc khủng hoảng ấy cũng qua đi, ông trở lại con người thật của mình, bằng lòng với những gì đang có, bởi vì hạnh phúc hay đau khổ cũng chỉ ở nơi mình.Cho nên:

Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc

Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.([2])

               Cầm kỳ thi tửu với giang sơn

               Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế.

Chúng ta hiểu thực chất của cuộc đời là khổ, không phải để buông xuôi phó mặc dòng đời đưa đẩy, mà phải dùng trí tuệ để giải quyết mọi công việc, để chiến thắng mọi nghịch cảnh một cách hiệu quả nhất. Nhờ công phu thiền tập, biết thiểu dục tri túc nên gặp khó khổ, ta có sức định tĩnh để vượt qua; ta không mất nhiều thời giờ lo cho cái ăn cái mặc, dành tâm trí giải quyết việc lớn của đời mình. Chánh niệm trên từng biến chuyển của thân, trên từng vận hành của tâm và trên từng đổi thay của cảnh, ta thấy rõ tất cả đều như huyễn.Tất cả đều như huyễn, nghĩa là tuy huyễn mà vẫn ở trong Như tánh, do vậy ta được bình an trước mọi cảnh ngộ, dù xấu nhất, và đặc biệt trước sự tráo trở của lòng người. Ví như lúc ta giàu có, nhiều người nhờ vả kính trọng; khi ta nghèo, họ ngoảnh mặt khinh khi. Ta vẫn là ta, sao có lúc được trọng có lúc bị khinh? –Ấy là do họ khinh trọng cái nghèo giàu của ta, chứ con người thật tuyệt đối trong ta có gì dính dáng ? Vả lại, trong đời người đâu phải lúc nào cũng an ổn hạnh phúc, ngay Đức Phật còn chịu nạn kim thương mã mạch, huống gì là phàm phu chúng ta. Đã mang thân năm uẩn thì phải gặp những cảnh ngộ thuận nghịch vui buồn khác nhau, vì đó là bản chất của cuộc đời. Trong Luận Bảo Vương tam muội, Đức Phật dạy Mười điều tâm niệm là cách đối phó với những hoàn cảnh khó khổ. Tu không phải là trốn chạy chính mình để tìm an ủi nơi ngoại duyên, nơi người khác- mà cũng không thể chạy trốn được. Người tu phải gan dạ trực diện với nỗi khổ trong tâm, với tình huống khó khăn bên ngoài; chánh niệm soi rọi từng ngõ ngách của tâm thức và thực trạng của hoàn cảnh, để cuối cùng chuyển hoá.

   Mặt khác, hành giả tu Thiền phải trực diện với những phút giây cô đơn. Một mình đối diện với chính mình, ta mới có cơ hội thấy lại con người thật từ muôn thuở. Chúng ta thường sợ sự cô đơn trống vắng, lúc nào cũng muốn có bạn bè, người thân bên cạnh; nhất là khi có chuyện đau buồn, phải tìm người để tâm sự hoặc tìm những thú vui tạm bợ để giải khuây. Nếu gặp bạn tốt, có trí tuệ đạo đức, ta có thể khuây khỏa hay được góp ý để giải quyết vấn đề. Nhưng nếu gặp bạn không tốt, không có trí tuệ thì nỗi đau ấy lại càng nhân lên, đôi khi bị xúi dục làm điều càn quấy. Cho nên, thiền tập là chánh niệm trên những nỗi buồn niềm đau ấy, là nhận rõ bản chất không thật của chúng và thực hiện sự chuyển hoá, chứ không phải tô đậm thêm nỗi đau khổ đã có. Người tu đúng theo chánh pháp, càng ngày càng thấy bình an tươi mát, và có thể đứng vững trước mọi thử thách nghiệt ngã của cuộc đời. Những bậc đạt đạo, khi đã nhận ra và sống hoàn toàn với lẽ thật tuyệt đối, sẵn sàng thỏng tay vào chợ, lăn lộn trong sáu nẻo luân hồi làm lợi ích cho chúng sanh. Tâm thênh thang không hình tướng nên bụi trần không thể bám, như mưa gió bão bùng cỡ nào cũng chẳng hề dính dáng đến hư không.

2. Trong hạnh phúc - thuận cảnh:

   Tuy đau khổ là bài học cần thiết cho con người, nhưng không ai không muốn mình hạnh phúc. Mỗi người quan niệm về hạnh phúc theo suy nghĩ tưởng tượng của mình, theo hoàn cảnh mình đang sống; nhưng tựu trung, ít ai bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Người nghèo muốn giàu, người giàu muốn giàu thêm; người có thứ nầy mong được thêm thứ khác. Họ cứ phóng tâm theo một ngày mai không thực, chẳng biết ngày mai ấy liệu có đến không; mà dù có đến, họ lại tiếp tục mơ về một ngày mai khác với những điều kiện tiêu chuẩn cao hơn. Tất cả đều do lòng tham, và tham chính vì vô minh mà có.

   Cũng vì vô minh, con người tự chui vào lưới ngũ dục, cho đó là hạnh phúc, là cứu cánh của đời mình, gọi đó là Thú đau thương, dù đau thương nhưng vẫn thú vị, vẫn cám dỗ không cùng. Nhiều người biết tứ đổ tường là những thứ cần lánh xa vì tác hại rất lớn cho bản thân và cho xã hội, nhưng vẫn nhắm mắt lao vào. Đây là do tập khí thúc đẩy, khiến họ cảm thấy hạnh phúc trong những đam mê ấy. Chư Phật nhìn thấy chúng sanh lặn hụp trong ngũ dục một cách say sưa, chẳng khác nào đám côn trùng chui rúc trong phân rác, thấy rất tội nghiệp nên tận tình cứu vớt không hề mệt mỏi.

   Một triết gia Tây phương nói: “Hạnh phúc là cái gì khi bạn đuổi bắt thì nó vuột khỏi tầm tay; nhưng khi bạn dừng lại thì nó cùng với bạn”. Có ý niệm truy đuổi tìm cầu tức không bằng lòng với hiện tại, như kẻ thả mồi bắt bóng, tìm đến bao giờ mới thấy hạnh phúc. Biết dừng lại tức ổn cố được tâm, không dính mắc với trần cảnh bên ngoài, biết vui với những gì mình đang có, ta sẽ thấy hạnh phúc tại hiện tiền. Có lần, Đức Phật đã khuyên những người dân Kalamas: “Hãy dùng trí tuệ như tấm gương soi lại chính mình, xem còn tham lam sân hận không. Khi tham lam sân hận không còn trong tâm ta thì niềm hạnh phúc an lạc hiện bày”. Ta hiểu rằng đau khổ là do mình tự tạo, nên không huân tập những hạt giống tham lam sân hận là những yếu tố phá hoại hạnh phúc. Thiền sinh chúng ta có quyền hoạch định tương lai, vạch chương trình cho cuộc sống, nhưng làm sao không để tham sân chi phối, không đánh mất thực tại sinh động, đó là cái khéo của mỗi người. Có chủ trương tu là không nghĩ đến tương lai, không màng đến mọi chuyện bên ngoài. Chủ trương ấy e là tiêu cực không tưởng. Thiền sinh cần nhịp nhàng theo dòng sống đang vận hành, cần phù hợp với đà tiến hoá của xã hội; quan trọng là ở chỗ biết phản quan tự kỷ, chánh niệm tỉnh giác và an trú nơi đương xứ. Khi đạt đến mục đích mà không mục đích, ấy mới là sự minh triết đời đời, là bình an vĩnh cửu, là hạnh phúc chân thật. Hạnh phúc ấy không đến từ bên ngoài, không phụ thuộc vật chất, không có tính cách nhất thời, mà do từ nội tâm an định, có tính vĩnh cửu và siêu việt thọ tưởng. Thọ là cảm giác, Tưởng là hy vọng tưởng tượng. Chỉ trong trạng thái thiền định ta mới vượt thoát mọi cảm thọ đối đãi và quan niệm hình dung, và hạnh phúc vĩnh cửu ấy là cảnh giới của riêng hành giả tự thầm nhận biết.

   Lão Tử nói : “Vinh nhục phải đều sợ”. Khi vinh hiển, được nhiều người xưng tụng, nếu ta thấy đó là hạnh phúc thì lỡ khi bị sỉ nhục, ta sẽ đau khổ vô cùng. Chúng ta có công phu, quán chiếu thân tâm cảnh đều không thật, sự vinh nhục cũng như những chiếc áo khoác bên ngoài, thì bất cứ lời khen chê nào, bất cứ tình huống nào ta đều phải tỉnh giác. Không kiêu mạn khi được tôn vinh, không buồn đau khi bị hạ nhục; một bề ta sống với bản tâm thênh thang thanh tịnh, từng bước thảnh thơi trước mọi biến đổi thuận nghịch của dòng đời.

   Chúng ta đang từng bước điều phục con trâu tâm, nên dễ choáng ngợp trước những niềm vui sướng bất ngờ. Ví như một người thân tưởng đã mất bây giờ gặp lại; được thăng chức tăng lương trước thời hạn; con cái báo tin vui đã đỗ đạt thành danh hay vừa hạ sanh quý tử; hoặc hôm nào đó đẹp trời, Thần tài gõ cửa mang cho ta một phần thưởng độc đắc nằm mơ cũng chưa thấy… Nhưng rồi, sự vui sướng ấy cũng qua mau khi xung quanh ta còn nhiều bộn bề chưa giải quyết; hoặc bất hạnh hơn, chính cái hạnh phúc trước đó lại đưa đến cho ta những hệ luỵ khó lường, cũng như tấm huy chương nào cũng có mặt trái của nó. Chúng ta đã thấy nhiều trường hợp được của bất ngờ, đâm ra tiêu xài phung phí, hoặc tranh chấp tiền bạc gây cãi vã, thậm chí sát hại nhau. Có người được đề bạt lên một chức vị cao, có quyền thế sanh ra hủ hoá, phạm tội và cuối cùng thân bại danh liệt. Cho nên, không có đạo đức dẫn đường, bất cứ cám dỗ nào của ngũ dục cũng làm con người sa ngã; và người biết tu càng phải cảnh giác trước những viên đạn bọc đường ấy.



([1]) Phỏng theo: “Đối thoại Thiền”. Góp nhặt cát đá. Thiền sư Muju. Đỗ Đình Đồng dịch.

([2]) Tạm dịch: Biết đủ ấy là đủ, đợi đủ bao giờ mới đủ

Biết nhàn ấy là nhàn,đợi nhàn bao giờ mới nhàn.

 

Bao Hiem BSH
» Video
» Ảnh đẹp
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch