Trong kinh Pháp Hoa Phật dạy: “Người tu Phật phải vào nhà Như Lai,
mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai.” Chúng ta tu theo Phật thì phải vào
nhà Phật, mặc y Phật và ngồi tòa của Phật. Như vậy mới trung thành với
đức Phật, mới có thể thành công được sở nguyện tu hành của mình.
Vào nhà Như Lai là gì? Đức Phật dạy vào nhà Như Lai là thực hành lòng
từ bi. Chúng ta muốn vào nhà Phật phải mở rộng lòng thương đối với tất
cả mọi người. Nếu người tu hành mà không có tâm từ bi thì không phải là
đệ tử của Phật. Cho nên tâm từ bi là bước đầu để đem lợi ích cho chúng
sanh. Đó là tâm nguyện của người Phật tử tu theo Phật. Thế thì thương
chúng sanh bằng cách nào và thương những ai? Tôi sẽ lần lượt dẫn cho quí
vị thấy.
Thứ nhất, chúng ta thương mến những người thân cùng sống chung quanh
với mình. Giới xuất gia thì những người cùng tu trong một viện, một
chùa, huynh đệ phải thương nhau, bảo bọc nhau. Vì sao? Vì tất cả chúng
ta cùng một lý tưởng tu hành cầu giải thoát, cầu giác ngộ. Đã đồng một
lý tưởng, vô lý chúng ta lại không thương nhau? Thương nhau để mà đùm
bọc, thương nhau để mà tha thứ cho nhau, đừng làm phiền lụy, đừng làm
khổ đau cho những người chung sống với mình.
Giới cư sĩ tại gia, quí Phật tử phải thương những người trong gia
đình, những người thân tộc của mình, những ai chung quanh có công, có
nghĩa với mình, chúng ta đều thương, đều mến, đừng bỏ sót người nào, xử
sự với tất cả trong tình thương yêu kính trọng.
Thứ hai, nếu là giới xuất gia, các vị phải thương mến các vị thí chủ
đã bỏ công, bỏ của giúp đỡ chúng ta có phương tiện tu hành. Chúng ta
phải nỗ lực tu sao cho đủ phước, đủ đức để độ những vị đó, không thể thọ
nhận của thí chủ rồi ăn chơi vui vẻ qua ngày. Như thế là phụ ân của
đàn-na thí chủ.
Trong kinh Phật thường dạy: Phật tử cúng dường Tam Bảo giống như
người nông phu làm ruộng vậy. Trước hết chúng ta phải lựa những thửa
ruộng phì nhiêu đất tốt để gieo giống. Cũng vậy, Phật tử cúng dường Tăng
Ni cũng phải nghĩ chỗ nào tu hành chân chánh, những vị tiến lên theo
con đường Phật chỉ dạy… đó là những vị gánh vác Phật sự đáng quí, đáng
kính. Gieo giống những thửa ruộng tốt hết rồi mới tiếp theo những thửa
ruộng vừa phải, không tốt lắm và cuối cùng là những thửa ruộng khô cằn.
Như vậy người tu là người tạo phước đức cho chúng sanh, nhận của
đàn-na thí chủ có nghĩa là chúng ta nhận phần giúp đỡ bằng vật chất để
rồi chúng ta tu, chúng ta sẽ giúp đỡ lại, cứu độ lại phần tinh thần cho
Phật tử. Nên chúng ta thương những vị thí chủ. Nếu là Phật tử tại gia
thì phải thương mến những người có công giúp đỡ cho mình sống, có công
đem lại sự tốt đẹp, an lành cho mình. Luôn nhớ ơn và đền ơn cho xứng
đáng.
Thứ ba, thương tất cả những người còn mê lầm. Chúng ta được phước
duyên lớn nên mới xuất gia, bởi vì xuất gia là đã thức tỉnh, nếu không
tỉnh thì mình cứ đi trên đường đời chớ không trở gót vào chùa đi trên
đường giải thoát. Còn người đời vì bận bịu thế gian, chuyện gia đình
thân quyến nên cứ say mê làm ăn cho có tiền của, không nghĩ tới đạo lý
thức tỉnh, nên chúng ta thương xót những người si mê ấy, làm sao đánh
thức để họ tỉnh, như vậy mới tròn bổn phận một người tu. Đức Phật thường
dạy người tu phải có đủ tự giác và giác tha. Nếu chỉ tự giác đó là xong
phần mình nhưng còn phải giác tha nữa, làm sao cho những người chung
quanh mình cùng giác ngộ. Như thế mới tròn bổn phận của một tu sĩ tu
Phật.
Với người cư sĩ, quí Phật tử cũng phải có trách nhiệm vì mình đã biết
đạo, đã nếm được mùi vị thâm trầm của Phật pháp, chúng ta cũng phải đem
chia xẻ cho huynh đệ mình cùng hưởng, cùng nếm. Đó là tinh thần tự
giác, giác tha. Tinh thần thương yêu này không riêng gì người xuất gia
mà kể cả người tại gia cũng mở lòng từ bi thương những người mê lầm hơn
chúng ta và cố gắng đánh thức họ cùng tỉnh, cùng tiến tu, cùng hết khổ
như mình.
Thứ tư, từ bi là thương tất cả chúng sanh từ loài người cho đến loài
vật. Vì vậy mùa Vu Lan Phật tử thường mua chim thả để thể hiện lòng từ
bi của mình, nhưng việc làm này nếu không khéo sẽ trở thành ích kỷ. Vì
quí vị nhốt chim trong lồng chờ quí thầy tụng kinh cầu nguyện cho mình
được an vui hạnh phúc rồi mới thả, trong khi mấy chú chim muốn chết ngộp
hết cả. Đó là trái với lòng từ bi, vô tình chúng ta trở thành ích kỷ là
vậy.
Khi đã tu hoặc xuất gia, hoặc tại gia chúng ta đều mở lòng thương vì
người, vì chúng sanh. Đó mới thật là lòng từ bi. Còn tình thương ích kỷ
gọi là lòng thương vị ngã.
Đến phần mặc áo Như Lai. Áo Như Lai là gì? Phật dạy áo Như Lai là
lòng nhu hòa nhẫn nhục. Chữ nhẫn nhục này có nhiều người hiểu theo nghĩa
tiêu cực, cho rằng nhẫn là nhục. Vì nhẫn nên chịu thua, vì thua nên
nhục. Nghĩ như vậy là sai lầm.
Chữ nhẫn trong đạo Phật nghĩa là có sức chịu đựng, có sức an nhẫn. An
nhẫn những điều trái tai, gai mắt, chúng ta không tức giận, không bực
bội. An nhẫn được những sự đòi hỏi, những nhu cầu thèm khát của thân,
chúng ta đều an nhẫn được. An nhẫn được hoàn cảnh khó khăn, thời tiết
nóng lạnh bất thường. Nên chữ nhẫn nhục trong nhà Phật nói lên một sức
chịu đựng mạnh mẽ phi thường. Như có người chọc giận mình, làm trái ý
mình thì chúng ta mạnh mẽ làm chủ, đừng để cơn sân dấy lên, hiện ra ở
miệng, ở tay. Do đó phải có sức chịu đựng cứng cỏi, gan dạ, không thể
yếu đuối được.
Kinh Pháp Cú có câu: “Thắng một vạn quân không bằng thắng mình. Thắng
mình mới là chiến công oanh liệt.” Cơn tức giận dấy lên mà chúng ta
thắng được tức là công phu tu hành mạnh mẽ, sức chịu đựng cứng cỏi chớ
không phải tầm thường. Như vậy sao gọi là nhục nhã được! Thắng được mình
còn hơn một ông tướng thắng cả một vạn quân. Người nhẫn nhục thắng được
mình thì đâu phải yếu đuối.
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta gặp rất nhiều điều bất như ý. Nếu
chúng ta không có sức chịu đựng, không có sức kham nhẫn thì chúng ta sẽ
đau khổ liên miên. Ngược lại chúng ta đủ sức kham nhẫn chịu đựng thì
chúng ta sẽ được an vui tự tại. Vì vậy Phật dạy người tu phải tập đức
nhẫn nhục. Đức nhẫn nhục đã được đầy đủ gọi là mặc áo Như Lai.
Cho nên người tu không nên có thái độ nóng giận, lúc nào cũng e dè sợ
sệt một cơn giận nổi lên. Nó là cái họa lớn, thiêu đốt công đức bao
nhiêu năm tu hành khổ cực của mình. Đức Phật dạy “chỉ một đốm lửa sân
làm cháy cả rừng công đức”. Nếu chúng ta luôn nghĩ tới đạo đức, nghĩ tới
công phu của mình thì phải khéo dè dặt, đừng cho những cơn nóng giận
khởi lên.
Nhẫn nhục có chia làm ba.
Một là nhẫn với người. Đối với lời nói trái tai, hành động gai mắt
hoặc người mắng chửi đánh đập mà chúng ta nhẫn được, bỏ qua hết, không
buồn giận, đó là chúng ta nhẫn nhục với người khác. Trong kinh A-hàm có
câu chuyện ngài Phú-lâu-na. Khi Ngài xin đức Phật về phương Bắc giáo
hóa, đức Phật liền hỏi: Này Phú-lâu-na, người phương Bắc hung hăng lắm,
nếu ông về đó giáo hóa họ sẽ chửi mắng ông, ông nghĩ thế nào?
Ngài trả lời: Bạch Thế Tôn, nếu họ chửi mắng con, con nghĩ họ cũng còn lương thiện vì chưa đánh đập con.
Phật nói: Giả dụ họ đánh đập ông thì ông nghĩ thế nào?
Ngài thưa: Bạch Thế Tôn, nếu họ đánh đập con, con nghĩ họ cũng còn lương thiện vì chưa giết con chết.
Phật bảo: Nếu họ giết ông chết thì ông nghĩ thế nào?
Ngài trả lời: Bạch Thế Tôn, nếu họ giết con chết thì họ là người ơn
của con vì nhờ họ mà con bỏ được cái thân tứ đại hôi thối này.
Phật nói: Được. Như vậy thì ông nên đến đó giáo hóa.
Quí vị thấy đức nhẫn nhục của Ngài cỡ nào? Trong đại chúng, chúng ta
chỉ nhẫn nhục các việc nói nặng, nói nhẹ với nhau thôi, vậy mà có khi
chịu không nổi. Còn Ngài bị chửi bới, đánh đập cũng nhẫn được cho đến
giết chết cũng nhẫn luôn, không thù hằn mà còn mang ơn nữa.
Đây là tấm gương cho chúng ta học. Tu là phải như vậy. Đừng nghĩ mình
cãi giỏi, nói hay là tốt. Càng cãi giỏi nói hay, lấn lướt người thì tội
lỗi càng tăng chớ không phải giảm. Đó là phần thứ nhất, nhẫn với người.
Hai là nhẫn với mình. Mình có gì đâu mà nhẫn. Thật ra là nhẫn với
mình rất khó. Nhẫn với mình là nhẫn sự đau đớn, bệnh hoạn. Có người nào
đau bệnh mà không rên không? Đó là cái bệnh. Nên chúng ta tu phải ẩn
nhẫn khi cơ thể bệnh hoạn, đau yếu, phải bình tĩnh cố gắng hạn chế, đau
trăm phần chúng ta chỉ nói đau hai mươi phần thôi. Chớ mỗi lần đau khóc
lên, khóc xuống rên rỉ om sòm cho mọi người chú ý đến mình. Trong đạo
như vậy là kẻ yếu đuối chớ không phải hay.
Kế là nhẫn với sự đòi hỏi của thân, thèm cái này, muốn cái nọ… những
sự thụ hưởng. Như người mới tu chừng một hai năm, đi ngang qua chỗ nướng
thịt cá thì phát thèm. Đó là nhẫn không được nên khởi niệm bậy. Ẩn nhẫn
những thứ thèm muốn, những đòi hỏi của mình gọi đó là nhẫn với mình.
Như vậy nhẫn nhục là có sức chịu đựng rất mạnh mẽ cứng cỏi chớ không
phải chuyện thường. Đối với những gì mình ưa thích cũng phải bỏ. Như
người xuất gia xem thân này là đãy da hôi thối, vậy mà lâu lâu cũng có
người nhìn mình xem đẹp hay không. Rồi sửa sang chút chút cho dễ coi.
Thậm chí ngày nay tôi nghe nói cũng có kẻ thoa kem cho da mịn. Việc đó
có trái với đạo lý không?
Người tu khi xuất gia, cạo tóc đã tự nguyện hủy hình thủ khí tiết.
Hủy hình là làm cho thân xấu đi. Phụ nữ ngoài đời, người ta sửa sang mái
tóc cho đẹp, cho duyên dáng. Còn người tu đã cạo bỏ phứt rồi, bây giờ
còn muốn thoa môi son hay đánh kem thì coi hết được! Đó là trái với lẽ
thật của mình. Những gì mình ưa thích trái với tư cách của người tu,
trái với bản nguyện của người xuất gia thì chúng ta phải ẩn nhẫn, dẹp nó
qua một bên, đừng để nó lôi kéo mình. Được như vậy mới là người khéo
tu. Nếu không chúng ta sẽ quên đi bản nguyện xuất gia cầu giải thoát ban
đầu.
Chẳng những người xuất gia mà hàng cư sĩ tại gia cũng vậy, thấy điều
gì mình thích mà trái với đạo lý thì phải giảm, phải hạn chế chớ đừng
theo nó. Như vậy là biết nhẫn với mình.
Ba là nhẫn với hoàn cảnh, thời tiết. Sống trong đạo cũng có khi gặp
nhiều hoàn cảnh khó khăn. Trong kinh Phật dạy nơi nào có Phật pháp, dù
cho đói rét cũng phải theo thầy tu học. Còn nơi có gạo dư thừa mà thiếu
đạo đức, cũng nên bỏ mà đi. Như vậy những nơi nào có Phật pháp chúng ta ở
đó gặp hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, nhiều phiền hà, bực bội cũng
phải ráng ẩn nhẫn, vì Phật pháp, vì sự tu chớ không vì sự ăn uống. Người
được như vậy là người chiến thắng bản thân mình, chiến thắng được hoàn
cảnh. Rồi còn phải nhẫn với thời tiết bức bách, chúng ta chịu đựng không
than van, vẫn thản nhiên tự tại. Đó là chúng ta biết nhẫn.
Như vậy người tu muốn mặc áo Như Lai phải nhẫn nhục, tức là nhẫn
người, nhẫn mình, nhẫn hoàn cảnh thời tiết v.v… Lúc nào cũng chấp nhận
khó khăn, không bao giờ chán nản. Người mạnh như thế mới sống đúng với
câu Phật dạy: “Thắng một vạn quân không bằng tự thắng mình.” Đó gọi là
mặc áo Như Lai.
Đến phần ngồi tòa Như Lai là quán tất cả pháp Không. Chúng ta dùng
trí tuệ quán chiếu tất cả các pháp trên thế gian này do nhân duyên hợp
thành, không có chủ thể cố định. Luôn dùng trí tuệ quán sát thấu triệt
như vậy.
Ví như nhìn một ngôi chùa, chúng ta quán xét xem cái gì là chủ ngôi
chùa. Trong đó nào là xi măng, cát, đá, ngói, gạch v.v… tụ hội lại.
Chúng ta hiện thấy ngôi chùa như vậy nhưng thật ra đó là một hợp thể do
nhiều thứ hợp lại, thì cái gì là chủ? Không có chủ, cũng không cố định.
Hiểu như vậy thì từ cái nhà, cái bàn cho tới con người của mình cũng
thế, do tứ đại hợp thành nên thân này không thật, cũng không có chủ.
Hiểu như vậy là hiểu được lý Không.
Chúng ta quán sát bằng trí tuệ, thấu suốt được sự vật bên ngoài đều
do nhân duyên hội hợp, không có thật thể cố định. Do không có thật thể,
không cố định nên nói nó không thật. Thấy như vậy là quán pháp Không.
Nói quán pháp Không là nói lý nhân duyên. Nhà Phật nói tất cả pháp đều
từ nhân duyên sanh, nên trong kinh A-hàm có đoạn đức Phật dạy: “Thấy
được lý nhân duyên, tức là thấy được pháp, thấy được pháp tức là thấy
được chân lý.”
Vì trên thế gian này không có vật gì tự nó thành mà phải do nhiều thứ
hợp lại. Tôi thường thí dụ, bàn tay của tôi, nếu co năm ngón lại thì
gọi là nắm tay. Nắm tay này thấy dường như có thật mà không phải thật.
Vì năm ngón co lại, nếu năm ngón buông ra thì còn gì là nắm tay? Do
duyên hợp tạm có, duyên tan trở về không.
Tất cả pháp trên thế gian đều do nhân duyên sanh, không có chủ thể
nên không thật, không cố định. Vì vậy nói là hư ảo. Trong Trung Quán
Luận ngài Long Thọ nói về lý nhân duyên như sau:
Nhân duyên sở sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc danh vi giả danh
Diệc danh trung đạo nghĩa.
Nghĩa là các pháp do nhân duyên sanh nên Phật nói tức là không. Tại
sao? Vì nó không có chủ thể, đâu có gì là cố định, duyên hợp thì có,
duyên tan thì mất, không thật, nên nói là không. Không đây là không có
chủ thể, không cố định chớ không phải không ngơ, không có gì hết cả.
Khi duyên hợp thì tạm có giả tướng, nên nói “diệc danh vi giả danh”.
Như nắm tay chưa có bao giờ, chỉ khi co năm ngón lại mới có nắm tay, như
vậy nắm tay là cái giả danh thôi. Nắm tay giả danh thì bàn tay có giả
danh không? Nắm tay chúng ta dễ thấy còn bàn tay hơi khó thấy hơn. Vậy
chúng ta hãy phân tích xem, bên ngoài bàn tay thì có da, trong năm đốt
xương ngón tay có thịt, gân, máu. Phân ra từng món có còn bàn tay không,
có còn từng ngón tay nữa không? Như vậy nắm tay không thật, bàn tay hay
ngón tay cũng không thật, chỉ là giả danh thôi. Nếu chúng ta chấp giả
là thật thì đó là si mê.
Người tu không cho phép mình si mê mà phải luôn luôn có trí tuệ. Vậy
mà lâu lâu, quí cô muốn đeo cái gì đó trên tay cho đẹp, thì sao? Hiện
tướng gì? Phật tử ngoài thế gian si mê đã đành đi, còn người tu mà si mê
như vậy thì không tha thứ được rồi. Đã biết nó không thật, là giả danh
thì còn gì phải trang sức cho đẹp. Thấy được tướng bên ngoài là giả
danh, không phải thật, nên nói “diệc danh trung đạo nghĩa”. Ai thấy được
như vậy, biết được như vậy là hiểu nghĩa trung đạo. Nên chữ Không trong
nhà Phật không phải không ngơ mà đó là không có Thật thể, chỉ là giả
danh. Biết rõ như vậy chúng ta không chấp thật không, cũng không chấp
thật có. Đó là thấy được lý trung đạo. Lý trung đạo là lý thật.
Qua bài kệ này quí vị thấy rõ, chúng ta tu phải có trí tuệ, phải thấy
rõ tất cả các pháp do nhân duyên sanh. Hiểu như vậy thì hết chấp, mà
hết chấp là sáng suốt. Vì vậy người tu Phật phải có trí tuệ. Nhờ trí tuệ
nên thấy đúng như thật, không còn mê, không còn lầm lẫn say mê vật chất
thế gian, không chạy theo những ảo tưởng giả dối, có thế mới thật là
người học đạo.
Vì người học đạo là người đi tìm chân lý, tìm lẽ thật. Nếu hiểu sâu
xa cùng tột đạo lý của Phật thì đối với thân này được cũng không mừng,
mất cũng không buồn, vì nó tạm bợ giả dối do duyên hợp. Kinh Bát-nhã,
Phật dạy: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.” Nghĩa
là thấy năm uẩn không thật, duyên hợp hư ảo liền qua hết khổ nạn. Đó là
trí tuệ.
Quí vị xét chỉ cần ba điều Phật dạy trong kinh Pháp Hoa, nếu chúng ta
biết ứng dụng tu hành thì đã giải thoát sanh tử chưa? Cho nên chúng ta
khéo ứng dụng theo lời Phật dạy thì chúng ta sớm được an lành, sớm được
giải thoát.
Hiện nay Phật tử chúng ta thích tụng kinh Pháp Hoa lắm, nhưng tụng để
hiểu như tôi nói hay tụng để tính quyển? Nếu tụng để tính quyển chớ
không ứng dụng theo lời Phật dạy thì đúng là tu Pháp Hoa chưa? Lời Phật
dạy như vàng ngọc, nếu chúng ta biết ứng dụng tu hành, ứng dụng vào cuộc
đời thì quí vô kể.
Nhưng đáng tiếc Phật tử không biết đúng, chỉ nghĩ tụng kinh cho có
phước. Nên lúc nào làm ăn sơ thất liền phát nguyện đi chùa tụng kinh
Pháp Hoa để cầu phát tài. Như vậy tụng Pháp Hoa để tìm chân lý hay vì
lợi dưỡng. Quí Phật tử tự kiểm lại xem mình ở dạng nào? Thế nên Tăng Ni
cũng như tất cả Phật tử chỉ cần chân thành ứng dụng lời Phật dạy vào
cuộc sống hằng ngày của mình thì chắc chắn sớm được hết khổ đau trong
đời này và giải thoát sanh tử ở những đời sau.
Tóm lại tất cả người tu chúng ta dù xuất gia hay cư sĩ đều phải đủ ba
đức tánh này, mới gọi là người chân chánh tu Phật. Đó là vào nhà Như
Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai. Phật tử là con cháu của Phật nên
mới dám vào nhà Phật, dám mặc áo Phật, dám ngồi tòa Phật. Nếu không dám
vào nhà Phật, mặc áo Phật, ngồi tòa Phật thì chừng nào thành Phật tử!
Con Phật mà không dám vào nhà Phật thì còn gọi là con Phật không? Vì vậy
ai là con Phật, ai là người đệ tử trung thành của Phật phải đủ ba điều
kiện trên. Được vậy chúng ta mới kế thừa địa vị của Như Lai, không nghi
ngờ.
Đó là điều tôi nhắc nhở tất cả Ni chúng cũng như tất cả Phật tử hôm
nay ráng học, ráng tu, làm sao chúng ta tu học đúng với ý nghĩa là người
con chân chánh của Phật, người xuất gia chân chánh, đừng để lệch lạc
sai lầm uổng một đời, sau này hối hận không kịp.
HT.Thích Thanh Từ Giảng