Chúng sanh khi xả báo thân này thì thọ báo thân khác Nếu trong khi tìm
thọ thân khác mà chưa đủ nhân duyên thì thân nầy chưa xả. Ví như con sâu
đo , trong khi đàng đuôi bám chặt một nơi thì đàng đầu ngóc lên tìm
kiếm. Hễ đàng đầu tìm được chỗ mà bám xuống thì đàng đuôi mới nhả ra. –
Con người trong lúc nằm thiêm thiếp chờ chết, chính là lúc nghiệp thức
tìm kiếm nơi thác sanh. Nếu được nơi rồi thì liền chết, bỏ xác thân nầy
mà thọ thân khác.
Thuở xưa, đời nhà Lương, vua Võ Ðế, có quen với một vị Hòa thượng,
hiệu là Chí Công, hằng ngày trò chuyện với nhau rất thân thiết. Hoàng
hậu tên là Hy Thị, thấy vậy, bèn can gián vua đừng chơi với người ngu
tăng ấy, nhưng vua Võ Ðế chẳng hề nghe, cứ giao du như thường. Hoàng hậu
giận lắm, toan lập mưu hại ngài Chí Công, bèn lén dùng thịt chó làm
nhân bánh, rồi sai người đem bánh ấy đến chùa mà trai tăng. Ai ngờ Hòa
thượng Chí Công đã biết trước, nên dự sắm áo tràng rộng tay, làm bánh
chay bỏ vào, rồi khi trai Tăng lén bỏ bánh mặn trong tay áo, lấy bánh
chay ra ăn.
Bà Hi Thị đợi tin Hòa thượng ăn rồi, tức thì tâu với
vua rằng: “Bánh ấy thiếp dùng thịt chó làm nhân, ông Chí Công ăn mà
không biết, thiệt là người phàm ngu muội, không có đạo đức trí tuệ gì
cả, nay bệ hạ còn làm bạn nữa chăng?”.
Vua nghe nói nổi giận,
liền mang gươm đến chùa mà giết Hòa thượng. Khi ấy, ngài Chí Công cũng
đã biết trước, nên ra ngoài cửa chùa đứng đợi. Lúc vua ngự đến trông
thấy Hòa thượng thì hỏi rằng: “Ông ra đứng đây mà làm chi?”.
Ngài
Chí Công đáp rằng: “Bần tăng biết bệ hạ đến giết bần tăng, nên bần tăng
ra đây đứng đợi. Nếu Bệ hạ vào chùa mà giết hại, thì ô uế chốn Già lam
càng tội nghiệp lắm!”.
Vua nghe nói kinh hồn chấp tay niệm Phật
và sám hối, rồi liền mời Hòa thượng vào chùa mà hỏi rằng: “Ngài đã tiên
tri được như vậy, vì sao còn ăn lầm bánh thịt chó mà không biết?”..
Ngài Chí Công bèn đáp rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Bần tăng có ăn đâu!”
Tâu
rồi Ngài liền thỉnh vua ra sau vườn, dạy người đào lấy bánh thịt chó
lên, thấy vẫn còn đủ 120 cái. Hòa thượng bèn lấy nước Tịnh thủy phun
vào, tức thì mỗi mười bánh hiệp lại thành một con chó, hình thể vận động
như thường. Vua thấy vậy thất kinh, mới biết pháp lực thần thông của
Ngài Chí Công thiệt là cao cường quảng đại, liền trở vào chùa hết lòng
lễ sám hối những sự lỗi lầm.
Từ ấy Võ Ðế càng yêu mến Hòa thượng
Chí Công hơn ngày trước nữa; trái lại bà Hy Thị thấy thế lại càng giận
thêm, nên khiến kẻ hầu hạ đến chùa lấy kinh sách đem ra đốt hết.
Ðến
niên hiệu Thiên Giám, bà mang bệnh nặng rồi phải từ trần, rồi bào thai
làm con rắn mãng xà ở sau hậu cung ẩn mình không cho ai thấy, thừa khi
ban đêm, bà lại mách điềm chiêm bao cho vua Võ Ðế hay rằng: “Khi thiếp
còn sống ăn ở bất nhân, tổn vật hại người, làm điều tham độc. Vì cớ ấy
nên nay thiếp phải làm thân mãng xà, thân đã dài, vóc lại lớn, bò lết
không nổi, đói không có chi ăn, khát chẳng có chi uống, cực khổ nhiều
bề, còn mỗi trong chân vảy lại có thứ độc trùng đeo vào cắn rứt da thịt,
đau thắt ruột gan thật là khó chịu! Thiếp nghĩ vì thiếp cùng Bệ hạ vẫn
là tơ duyên chỉ nợ, tình vợ nghĩa chồng, mà nay thiếp bị đọa ra thân súc
sanh thế này, Bệ hạ nỡ nào hưởng thọ phú quý một mình mà không tìm
phương chi cứu thiếp, nên xin Bệ hạ từ bi thỉnh thầy làm chay độ giải
cho thiếp, may nhờ Phật pháp hộ trì, thoát ra khỏi vòng ác báo, thì
thiếp cảm ơn đời đời”.
Vua Võ Ðế nghe rồi, bèn thức dậy rầu rĩ
khóc lóc một hồi; sáng ra liền truyền lệnh rước các thầy Sa môn nhóm tại
điện mà hỏi rằng: “Vậy trong hàng chư tăng, ai có phép chi cứu giải
Hoàng hậu khỏi điều tội khổ chăng?”.
Hòa thượng Chí Công tâu
rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Tội của Hoàng hậu rất nặng, xin Bệ hạ hãy thiết
lập đàn tràng lễ bái sám hối, thì mới cứu được”.
Vua Võ Ðế bằng
lòng, liền cầu Hòa thượng Chí Công soạn ra mười quyển sám văn, rồi thiết
đàn trong cung là chay ba tháng, cầu sám cho Hoàng hậu.
Một hôm
kia, khi trai đàn gần mãn có mùi hương nồng nã bay khắp trong cung
điện.. Vua Võ Ðế ngước mắt ngó lên trời, thấy có một nàng con gái, nhan
sắc tuyệt trần, đứng giữa hư không mà chấp tay tâu cùng vua rằng: “Thiếp
nhờ công đức của Bệ hạ cầu sám hối đã thoát được thân mãng xà mà sanh
về cõi trời Ðao Lợi. Nên thiếp phải hiện thân ra cho Bệ hạ thấy để làm
chứng nghiệm vậy – Thôi, mấy lời cảm tạ, kính chúc Bệ hạ ở lại bình an”.
Bà
nói rồi liền ẩn mình không thấy nữa. Khi ấy vua Võ Ðế nửa mừng nửa khóc
khôn xiết sự tình, rồi bèn lui vào cung mời Hòa thượng Chí Công mà hỏi
rằng: “Hoàng hậu của Trẫm buổi còn sống, hết sức thù ghét Hòa thượng là
túc duyên làm sao mà gây ra cừu oán như vậy?”
Ngài Chí Công tâu
rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Sự cừu oán duyên do kiếp trước có một vị Trú trì
và một vị Giám tự ở chung một chùa. Trong chùa ấy có cái đôn để nước,
dưới chân cái đôn có con thiện trùng thường thường kêu trong khi ban
đêm; tiếng kêu của nó inh ỏi như thể tiếng con dế hay con vạt sành vậy.
Thường khi ông Trú trì tới đó lấy nước súc miệng, rửa mặt thì cũng chú
nguyện cho con ấy mau mau thoát đặng cái thân súc vật, mà sanh về đường
nhân luân. Một bữa kia ông Trú trì đi khỏi, ông Giám tự ghét con thiện
trùng đêm nào cũng kêu, và làm cho lòng ông không được thanh tịnh và
chẳng cho ông ngủ thẳng giấc, nên ông bèn bắt con ấy, lấy dao cắt ngang
giữa lưng làm hai, rồi cũng bỏ lại dưới chân đôn như cũ. Qua bữa sau ông
Trú trì về, trót đêm không nghe tiếng con thiện trùng kêu nữa, bèn kiếm
dưới chân đôn, thì thấy nó đã chết rồi. – Ông thương khóc, niệm Phật
chú nguyện cho nó và lấy một miếng vải đỏ buộc vào chỗ lưng bị cắt, rồi
đem chôn sau vườn chùa. Muôn tâu Bệ hạ! Con thiện trùng ấy tức là kiếp
này làm thân Hoàng hậu; còn vị Giám tự là kiếp này làm thân của Bần Tăng
đây. – Vì vậy oan gia gặp nhau toan đòi nợ trước, nếu tôi kiếp này tu
hành lơ láo, thì có thể nào thoát ra khỏi tay của Hoàng hậu!”.
Vua
Võ Ðế nghe nói liều gật đầu mà đáp rằng: “Hèn gì Hoàng hậu của Trẫm
thường thường buộc sợi dây đỏ ngang lưng, không khi nào rời bỏ, mà Trẫm
không biết cớ làm sao. – Có một đêm Hoàng hậu ngũ mê, Trẫm lén mở sợi
dây ấy ra, thì Hoàng hậu nói rằng đau lưng, rồi lấy dây ấy buộc lại vào,
tức thì không đau nữa. Nay Hòa thượng bày tỏ túc trái như vậy, thì biết
Phật nói “NHÂN QUẢ” thiệt là không sai”.
Từ ấy, vua Võ Ðế lại càng tin tưởng Phật pháp, trọng đãi Chúng Tăng và nguyện một lòng phụng sự Tam Bảo…