Khi chúng ta giận dữ với người khác, chúng ta tự làm hại
chính mình do bởi tâm sân. Ðức Phật đã chỉ rõ những kết quả nguy hại
của sân hận (Dosa).
Chúng ta xem trong Tăng Chi Bộ Kinh (Pháp 7 chi, chương 6,
kinh số 10, Sân hận) về sự nguy hại kẻ thù đối với kẻ thù. Có nói:
... Này chư Tỳ khưu, trường hợp kẻ thù muốn kẻ thù của mình như
sau: "Mong rằng kẻ kia bị xấu xí" và tại sao? Này chư Tỳ khưu, kẻ thù
không muốn kẻ thù của mình có sắc đẹp. Này chư Tỳ khưu, hạng người này
sân hận, bị sân hận chinh phục, bị sân hận chi phối, và dù cho người đó
khéo tắm rửa, khéo chải chuốt, khéo cạo râu tóc, khéo mặc quần áo,
nhưng người ấy vẫn xấu xí, bị phẫn nộ chinh phục . Này chư Tỳ khưu, đây
là điều thứ nhất được kẻ thù ưa thích làm nhân cho cho kẻ thù trở
thành người nam hay người nữ sân hận.
Lại nữa, có trường hợp
kẻ thù muốn kẻ thù của mình như sau: "Mong rằng kẻ kia khó ngủ" Tại
sao? Này chư Tỳ khưu, một kẻ thù không muốn kẻ thù của mình ngủ một
cách ngon lành, Này chư Tỳ khưu, hạng người này sân hận, bị sân hận
chinh phục, bị sân hận chi phối và dù người ấy nằm trên giường có chăn
êm nệm ấm, đầy đủ tiện nghi ăn ngủ, nhưng người đó nằm thao thức trong
niềm đau nỗi khổ do sân hận hành hạ. Này chư Tỳ khưu , đây là điều thứ
hai...
Như vậy chúng ta xem thêm những điều nguy hại nữa,
một kẻ thù mong muốn kẻ thù của mình trở thành một người nam hay nữ sân
hận. Chúng ta thấy rằng kẻ thù mong muốn kẻ thù của mình không có hưng
thịnh, giàu sang và danh vọng. Xa hơn nữa, chúng ta thấy rằng kẻ thù
mong muốn kẻ thù của mình không có bằng hữu và như vậy dẫn đến sân hận.
Tăng Chi có nói:
Nầy chư Tỳ khưu, hạng người nầy thì sân
hận... bất cứ bạn bè, thân hữu, bà con ruột thịt nào anh ta đã có, họ
sẽ xa lánh anh ta, vì anh ta bị sân hận khống chế...
Kẻ
thù muốn kẻ thù của mình tái sinh đau khổ và như vậy dẫn đến sự sân
hận. Chúng ta xem:
... Nầy chư Tỳ khưu, hạng người nầy thì sân hận... hành động bất
thiện về thân, khẩu, ý; hành động, lời nói và suy nghĩ như vậy cho nên
khi thân hoại mạng chung người đó tái sinh vào khổ cảnh, đọa xứ, ác
thú, địa ngục.
Chúng ta muốn sống hòa bình và an lạc giữa
các quốc gia và chúng ta bị phiền nhiễu khi con người phạm những hành
vi tội lỗi, chúng ta nên quan tâm nguyên nhân chính yếu về chiến tranh
và sự bất hòa giữa con người: đó là những điều phiền não mà con người
đã huân tập. Khi chúng ta sân hận, chúng ta suy nghĩ rằng người khác
hoặc những hoàn cảnh bất hạnh là nguyên nhân cho sự sân hận của chúng
ta. Tuy nhiên sự huân tập sân hận của chúng ta là nguyên nhân chính yếu
cho sự sân hận phát sinh nhiều lần. Nếu chúng ta muốn mình ít có sân
hận, chúng ta nên biết đặc tính của sân hận và nên ghi nhận nó khi nó
phát sinh.
Sân có nhiều mức độ; có thể ít hoặc nhiều. Chúng ta
có thể biết sân, khi nó phát sinh mạnh mẽ, nhưng chúng ta có biết là
chúng ta có sân khi nó ngấm ngầm không? Qua sự nghiên cứu về Vi Diệu
Pháp, chúng ta học nhiều về đặc tính của sân. Sân là một sở hữu bất
thiện phát sinh với tâm bất thiện. Tâm có nguồn gốc sân hận gọi là tâm
sân căn (Dosa mùla citta). Ðặc tính của sân thì khác với đặc tính của
tham. Khi có tham, tâm thích cảnh mà nó biết vào thời điểm đó, trái lại
khi có sân, tâm không thích thú cảnh mà nó biết. Chúng ta nhận thức
sân khi chúng ta giận dữ với người khác và khi chúng ta nói những ngôn
từ thô lỗ với người đó. Nhưng khi chúng ta sợ điều gì có sân hận bởi vì
chúng ta không thích thú cảnh mà người ta sợ. Có nhiều điều trong cuộc
sống mà chúng ta sợ như vậy; chúng ta lo sợ về tương lai bệnh hoạn,
tai nạn và chết chóc. Chúng ta tìm kiếm nhiều phương pháp để điều trị
sự đau khổ nhưng con đường độc nhất là phát huy trí tuệ để đoạn trừ
những khuynh hướng ngủ ngầm của sân hận.
Tâm tham là duyên cho
tâm sân; chúng ta không muốn mất người mà chúng ta thương yêu, nhưng
khi điều nầy thật sự xảy xa chúng ta cảm thấy buồn rầu. Buồn rầu là
sân, nó là tâm bất thiện. Nếu chúng ta không biết những điều nầy rõ
ràng, chúng ta tin rằng, con người và vạn vật sẽ vĩnh cửu. Tuy nhiên
con người và vạn vật sinh và diệt ngay lập tức. Khoảnh khắc tiếp theo
chúng đã diệt rồi. Nếu chúng ta thấy vạn vật rõ ràng như vậy chúng ta
sẽ ít bị buồn phiền quấy rối. Buồn phiền không giải quyết được gì.
Trong trưởng Lão Ni kệ (Therìgathà, 33) chúng ta thấy rằng hoàng hậu
Ubbirì khóc than vì mất đứa con gái Jìvà của bà. Mỗi ngày bà đi đến
nghĩa địa. Bà gặp Ðức Phật, ngài dạy bà ta rằng, trong nghĩa địa đó có
khoảng 84 ngàn đứa con gái của bà trong kiếp quá khứ đã chôn ở trong đó.
Ðức Phật dạy:
Hỡi ơi nàng Ubbirì (Úb bí ri)
Nàng khóc
trong rừng Ích chi
Khóc than đứa con (Jìvà) thân yêu
Hãy nhìn
trong nghĩa địa nầy
Ðã chôn hàng ngàn đứa con
Mà nàng thương yêu
ấp ủ
Tên chúng được đặt giống Jìvà
Như vậy nàng khóc đứa con
Jìvà thân yêu quí mến nào?
Sau đó nàng Ubbirì suy xét về
giáo pháp do Ðức Phật thuyết giảng như vậy, bà phát sinh trí tuệ và
thấy các pháp rõ ràng; ngay sau đó bà đắc chứng quả vị A la hán.
Có những sở hữu bất thiện khác có thể phát sinh với tâm sân căn. Hối
tiếc (Kukkucca) là một sở hữu bất thiện phát sinh với tâm sân căn vào
lúc chúng ta hối tiếc điều bất thiện đã làm hoặc điều thiện chưa làm.
Khi có hối tiếc, chúng ta suy nghĩ về quá khứ thay vì nhận biết giây
phút hiện tiền. Khi chúng ta làm điều gì sai trái, thường có sự hối
tiếc.
Ganh tị (Issà) là một sở hữu khác nữa mà có thể phát sinh
với tâm sân căn. Tâm ganh tị là khi chúng ta không thích người khác
sống cảnh giàu sang .Lúc đó tâm không hoan hỷ cảnh hiện diện. Thường
xuyên, chúng ta nên nhận biết tâm ganh tị phát sinh ngay khi nó còn vi
tế. Ðây là cách thức để nhận biết rằng: không biết chúng ta có thật sự
quan tâm đến người khác hay chúng ta chỉ quan tâm đến chính chúng ta,
khi chúng ta giao du với những người khác.
Bỏn xẻn
(Macchariya) cũng là một sở hữu khác nữa mà có thể phát sinh với tâm
sân căn. Lúc có bỏn xẻn, tâm chúng ta cũng có sân. Khi người khác bố
thí, tâm chúng ta không hoan hỷ.
Tâm sân luôn luôn phát sinh
với thọ ưu (Domanassavedanà). Hầu hết người ta không thích có tâm sân
bởi vì họ không thích có thọ ưu. Khi có nhiều trí tuệ, chúng ta muốn
đoạn trừ tâm sân dần dần bởi vì chúng ta không thích thọ ưu, nhưng dĩ
nhiên là vì chúng ta nhận thức những kết quả tai hại của tâm bất thiện.
Tâm sân phát sinh vì biết cảnh xuyên qua sáu căn. Nó có thể phát
sinh khi chúng ta thấy cảnh sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm
vị, thân xúc chạm, tâm suy nghĩ những điều trái ý nghịch lòng. Bất cứ
khi nào có thọ ưu không kể là nặng hay nhẹ, hiển nhiên là lúc đó có tâm
sân. Thường thì tâm sân phát sinh khi nó biết cảnh bất lạc xuyên qua
sáu căn, ví dụ khi thời tiết quá nóng hoặc quá lạnh. Bất cứ lúc nào
thân thọ bất lạc thì lúc đó tâm sân phát sinh, nó chỉ ở mức độ thấp
thôi.
Sân hận phát sinh khi nhân duyên đầy đủ. Nó phát sinh với
điều kiện là vẫn còn dính mắc vào những cảnh mà nó có thể nhận biết
xuyên qua 5 căn. Mọi người chỉ muốn thụ hưởng những lạc thú và khi họ
mất mát nó thì tâm sân có thể phát sanh.
Ðiều kiện khác nữa về
tâm sân là không hiểu biết về chánh pháp. Nếu chúng ta không hiểu biết
về nghiệp quả, có thể sân dễ dàng phát sinh vì thọ ưu nhận biết cảnh
xuyên qua một trong sáu căn và như vậy tâm sân phát sinh một lần nữa.
Cảm thọ bất lạc xuyên qua một trong sáu căn là quả bất thiện do bởi
hành động bất thiện mà chúng ta đã tạo. Ví dụ khi nghe những ngôn từ
thô lỗ của người khác, chúng ta có thể giận dữ với người đó. Những ai
hiểu biết về giáo pháp họ hiểu rằng, nghe những ngôn từ thô lỗ là quả
bất thiện chớ không phải do người khác tạo. Hành động bất thiện của
chính chúng ta tạo tác. Ngay khoảnh khắc tâm quả đoạn diệt, thì nó
không còn tồn tại. Chúng ta có muốn tiếp tục duy trì cảm thọ ưu không?
Nếu có chánh niệm trong giây phút hiện tiền, chúng ta ít khi nghĩ đến
sự sân hận của người khác gây ra.
Khi chúng ta học Vi Diệu
Pháp, chúng ta thấy có hai loại tâm sân căn: Một là không cần nhắc bảo
(Asankhàrika) và hai là cần được nhắc bảo (Sasankhàrika).
Tâm
sân cần được nhắc bảo, ví dụ như khi một người sân hận sau khi bị người
khác xúi dục hành động sai quấy. Tâm sân thì luôn luôn câu hành với
thọ ưu. Tâm sân căn có hai loại là:
Câu hành thọ ưu, tương ưng hận, không cần nhắc bảo (Domanassa
sahagatam Patigha sampayuttam [1], Asankhàrikamekam)
Câu hành thọ ưu, tương ưng hận, cần được nhắc bảo (Domanassa
sahagatam Patigha sampayuttam, sasankhàrikamekam)
Như
chúng ta biết, tâm sân có nhiều mức độ; nó có thể thô hoặc vi tế hơn.
Khi tâm sân có hình thức thô, nó tạo ra nghiệp bất thiện do thân khẩu
ý. Hai loại nghiệp bất thiện do tâm sân căn khai khiến thân hành động:
sát sinh và trộm cắp. Nếu chúng ta muốn trên thế gian nầy ít có sự tàn
nhẫn, chúng ta nên cố gắng gìn giữ giới không sát sinh. Khi sát sinh,
chúng ta sẽ huân tập nhiều tâm sân. Ðời sống của một vị Tỳ khưu phải là
đời sống vô hại; vị ấy không làm tổn thương bất cứ sinh linh nào trên
thế gian. Tuy nhiên không phải ai cũng có đời sống giống như các thầy
Tỳ khưu. Phiền não thì vô ngã, chúng phát sinh vì nhân duyên. Mục đích
lời dạy của Ðức Phật không phải là ban hành những giới luật để cấm chế
con người vi phạm những hành động tội, nhưng để giúp con người phát huy
trí tuệ, đoạn trừ phiền não. Có những giới luật dành cho người cư sĩ,
nhưng đây là những giới dành cho việc tu tập hơn là những điều răn.
Ðối với trộm cắp, giới này có thể hành động do tâm tham căn hoặc tâm
sân căn. Người ta hành động do tâm sân căn khi cố ý hãm hại người khác.
Lấy của không cho được gọi là nghiệp bất thiện.
Bốn loại
nghiệp bất thiện do tâm sân căn sai khiến khẩu hành động: Nói dối, nói
đâm thọc, nói lời thô lỗ và nói nhảm nhí. Nói dối, nói đâm thọc và nói
lời nhảm nhí có thể thốt ra bởi tâm tham căn hoặc tâm sân căn. Ví dụ,
nói đâm thọc là lời nói do tâm sân căn thực hiện khi cố ý làm hại người
khác, như xuyên tạc danh dự và nói xấu kẻ khác. Hầu hết người ta nghĩ
rằng, sử dụng vũ khí là để tránh khỏi sự hiểm họa, nhưng họ quên rằng
lời nói cũng có thể là một loại vũ khí, vũ khí đó có thể làm tổn thương
nghiêm trọng. Lời nói độc ác gây ra nhiều thiệt hại trên thế gian; nó
gây sự bất hòa giữa con người với con người. Khi nói lời hung ác chúng
ta tự làm hại mình, vì lúc đó chúng ta tạo nghiệp bất thiện và nó có
khả năng trổ quả bất thiện.
Chúng ta xem trong kinh tập (Sutta
Nipàta, chương III đại phẩm Kokàliya, Tiểu bộ kinh) khi Ðức Phật ngự
tại Sàvatthi, vị Tỳ khưu Kokàliya đến viếng ngài. Kokàliya nói xấu về
ngài Sàriputta và ngài Moggallàna. Ông nói rằng Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên có ác dục. Ba lần Ðức Phật khuyên ông ta không nên nói như thế.
Sau khi Kokàliya ra đi, toàn thân bị ung nhọt càng lúc càng lớn và vỡ
chảy mủ và máu. Ông ta chết và tái sinh vào địa ngục Paduma (sen hồng).
Sau đó Ðức Phật dạy chư Tỳ khưu về lời nói độc ác của Kokàliya và sự
tái sinh vào địa ngục của ông ta. Chúng ta xem (vs. 657, 658) Ðức Phật
dạy:
"Chắc chắn khi con người sinh ra trong miệng có ngôn
ngữ xấu tiềm ẩn, với kẻ ngu tự hại đời mình bằng lời nói hung ác.
Người đáng khen thì lại chê, kẻ đáng chê lại khen, việc làm đó huân tập
ác nghiệp trong tâm. Vì ác nghiệp nên họ không tìm thấy được hạnh
phúc..."
Ðối với nghiệp bất thiện do tâm sân căn sai khiến
ý suy nghĩ, cố ý hãm hại người khác.
Người ta thường nói về
sự bạo động và những phương pháp trừ diệt. Chúng ta có thể nói rằng ai
thoát khỏi sân hận thì sẽ không bao giờ sát sinh. Chúng ta không biết
có bao nhiêu sân hận mà chúng ta đã huân tập trong nhiều kiếp sống. Khi
hội đủ nhân duyên, chúng ta có thể vi phạm những hành động tội lỗi,
chúng ta không nhận thức được chúng ta có khả năng làm việc đó. Khi
chúng ta biết sân hận là xấu xa, chúng ta tìm cách đoạn trừ sân hận.
Muốn thể hiện những hành động tốt đối với người khác thì chúng ta
không thể đoạn trừ khuynh hướng ngủ ngầm của sân hận, nhưng ít ra vào
những khoảnh khắc này chúng ta cũng không có huân tập sân hận nhiều hơn
nữa. Ðức Phật đã khuyến khích người ta tu tập tâm từ (Mettà). Chúng ta
xem trong Từ Bi Kinh (Karanìya mettà-sutta, Kinh Tập, kệ 143-152) [2]
Ðức Phật đã dạy như sau:
Người trí mong cầu an lạc
Mong muốn sống đời hạnh phúc
Phải có tài năng cao cả
Và hạnh
thẳng thắn, công minh
Hòa ái, dịu dàng , khiêm cung
Luôn nhẫn
nại và thanh đạm
Sống giản dị, ít bận rộn
Lục căn luôn luôn tịnh
lặng
Gìn giữ chu toàn, bền lâu
Không luyến ái mùi thế gian
Không làm điều quấy nhỏ nhoi
Mà bậc hiền trí chê cười.
Mang
nguồn vui cho tất cả
Nguyện cầu mọi loài chúng sinh
Tâm tư luôn
luôn hạnh phúc.
Dù hữu hình hay vô hình
Kẻ yếu hay người mạnh
khỏe
Hạng to lớn hay dài cao
Dù trung bình hay thấp nhỏ
Cũng
như thấy hoặc không thấy
Dù ở xa hay ở gần
Ðã sinh rồi hoặc
chưa sinh
Nguyện cầu cả thảy chúng sinh
Luôn luôn hưởng sự an
bình.
Bất cứ nơi đâu người nào
Chẳng khinh khi hay dối trá
Khi phẩn nộ hay giận thầm
Không nên làm khổ cho nhau.
Như từ
mẫu yêu con một
Dám hy sinh bảo vệ con
Tất cả chúng sinh như
nhau
Lòng từ rộng lớn bao la
Rãi khắp trong tam giới nầy
Tình thương rộng lớn vô biên
Phía trên, dưới và khoảng giữa
Không thù không oán kẻ khác
Lúc đi đứng hoặc ngồi nằm
Tâm linh
luôn luôn tỉnh thức
Kiên quyết gìn giữ chánh niệm
Ðây là đời
sống cao thượng.
Chớ nên lạc vào bờ mê [3]
Trí tuệ giới
hạnh vẹn toàn
Xa lìa dục lạc ham muốn
Chắc chắn người đó không
còn
Sinh tử luân hồi trở lại.
Ðức Phật đã dạy chúng ta
không nên giận hờn với người làm không vừa ý chúng ta. Chúng ta xem
trong tạng Luật (Ðại phẩm - Mahàvagga X, 349) Ðức Phật dạy cho chư Tỳ
khưu:
Người nào ôm ấp tâm niệm này: "Người đó đã mắng
nhiếc, làm hại, đánh bại, cướp bóc tôi": hận thù trong người đó không
nguôi.
Người nào không ôm ấp tâm niệm này: "Người đó đã mắng
nhiếc, làm hại, đánh bại, cướp bóc tôi": hận thù trong người đó lắng
dịu.
Hơn nữa, thù hận không thể dập tắt được hận thù. Ở đây và
bất cứ lúc nào, không hận thù mới làm lắng dịu được thù hận: đây là một
định luật vĩnh cửu.
Ðôi khi chúng ta dường như có tâm từ
thay vì sân hận. Ví dụ, khi người ta đối xử tệ bạc với chúng ta, chúng
ta có thể cảm thấy rất đau khổ và chúng ta tiếp tục suy ngẫm về sự
buồn khổ của chúng ta. Cho đến khi nào sân hận chưa được đoạn trừ thì
nó vẫn còn có nhân duyên phát sinh. Do chánh niệm tất cả sự thật phát
sinh, trí tuệ được phát huy có thể đoạn trừ sân hận.
Sân hận
chỉ có thể được đoạn trừ qua từng giai đoạn. Bậc thánh Nhập lưu
(Sotàpanna) chưa đoạn trừ sân hận và ở giai đoạn chứng đạt tiếp theo là
bậc thánh Nhất lai (Sakadàgàmi) sân hận cũng chưa được đoạn diệt hoàn
toàn. Bậc thánh Bất lai (Anàgàmi) đã đoạn tận sân hận một cách hoàn
toàn, vị ấy không còn sân hận tùy miên nữa.
Chúng ta chưa đoạn
trừ sân hận, nhưng khi sân hận phát sinh, chúng ta có thể chánh niệm
ghi nhận những đặc tính của nó để biết nó là một loại danh pháp phát
sinh do nhân duyên. Do không có chánh niệm khi sân hận xuất hiện, sân
hận dường như bền lâu và chúng ta lầm tưởng rằng nó là bản ngã. Nhờ
chánh niệm về danh và sắc mà chính chúng nó xuất hiện mỗi pháp một lúc,
chúng ta sẽ nhận thức rằng, có sự khác biệt giữa những đặc tính của
danh và sắc, không có một danh sắc nào trường tồn và chúng ta cũng biết
rằng, đặc tính của sân hận cũng là danh sắc, nó thì vô ngã.
Khi trí tuệ hiểu biết rõ ràng hơn về chân lý được phát huy, chúng ta sẽ
không suy ngẫm lâu dài về cảm thọ ưu, vì nó chỉ là một loại danh pháp
không trường tồn. Chúng ta sẽ chú tâm nhiều hơn vào giây phút hiện tiền,
thay vì suy nghĩ về dĩ vảng và tương lai. Chúng ta cũng ít kể cho
người khác biết về những nỗi ưu phiền đã xảy đến chúng ta, vì sự việc
đó có thể là điều kiện cho cả chúng ta lẫn những người khác tạo thêm
nhiều sân hận. Khi một người nào đó giận dữ với chúng ta, chúng ta sẽ
thông cảm nhiều hơn về hoàn cảnh của người ấy; người đó chán nản và
không cảm thấy an vui. Những ai đối xử tệ bạc với chúng ta, họ đáng
được thương hại bởi vì thật sự họ đã làm cho chính họ bất hạnh.
Chánh kiến như thật giúp hầu hết chúng ta có lòng từ bi bác ái rộng lớn
bao la với những người khác thay vì sân hận.
Tỳ kheo Thiện Minh dịch
CÂU HỎI:
1/- Tại sao tham làm duyên cho sân?
2/- Nói
dối, nói đâm thọc, nói lời nhảm nhí là nghiệp bất thiện do tâm tham căn
hoặc tâm sân sai khiến khẩu hành động. Vậy khi nào những hành động đó
được thực hiện do tâm sân căn?
3/- Có nghiệp bất thiện do tâm sân
căn sai khiến ý hành động không?
Ghi chú:
[1] Patigha:
hận là một danh từ khác thay thế cho sân
[2]) Sử dụng bản dịch
của trưởng lão Tỳ khưu Nànamoli, Hội Xuất bản Phật giáo ấn hành, tạp
chí số 7, Kandy, Sri Lanka
[3] Tà kiến
Theo: Tâm lý học Phật
giáo trong đời sống hàng ngày