Với quan niệm
thông thường, sau cái chết, con người cũng có một đời sống, cũng có
các nhu cầu như khi đang ở dương thế. Một số người vì quá thương tiếc
người thân đã mất, sắm đủ thứ vàng mã để đốt cúng nhân ngày giỗ
hoặc các dịp lễ như Rằm tháng Bảy, Tết Nguyên Đán…, để người ở đã
chết sử dụng ở cõi âm. Việc làm đó đôi khi thái quá, người ta có
thể sắm vàng mã với hình dáng nhà lầu, xe hơi, máy lạnh, điện
thoại di động, tiền mô phỏng đô-la Mỹ, v.v. để cúng cho người đã
chết. Tục đốt vàng mã bắt đầu từ đâu và Phật giáo quan niệm như
thế nào về việc đốt vàng mã, VHPG trân trọng giới thiệu lại một
bài viết cách đây hơn năm mươi năm của một danh Tăng ở miền Bắc, Hòa
thượng Tố Liên về vấn đề này.
Phàm ở đời, cái gì cũng phải có nguyên nhân mới có kết quả,
dưới đây sẽ biện bạch rõ cái nguyên nhân của tục đốt vàng mã.
Đọc
kinh Dịch nhà Nho, chúng ta thấy rằng: Tục chôn người chết của nước Tầu về đời
thượng cổ, một khi có người chết cứ để thế đem chôn, không quan không ván, lại
cũng không khanh phần mộ chi cả. Đến đời vua Hoàng đế (2679 trước Tây lịch) cho
rằng: Con cháu đối với ông bà, cha mẹ trong việc mai táng cẩu thả như thế là
thiếu bổn phận, mới sai ông Xích Xương sáng chế ra quan, quách để chôn cất.
Trải qua đời Hoàng đế đến đời Đường Ngu, cái lệ tục chôn cất người chết chỉ có
thế thôi.
Nối
nhà Ngu là nhà Hạ (2205 trước Tây lịch), người Tầu mới bắt đầu dùng đất sét nặn
làm mâm bát, dùng tre gỗ làm nhạc khí, như chuông khánh, đàn sáo v.v… để đem
theo người chết. Các đồ vật đó được gọi là minh khí, hoặc gọi là quý khí, tức
là những đồ vật đem chôn theo cho thần hồn người chết dùng ở âm phủ, lễ nhạc đối
với người chết bắt đầu có từ đấy. Rồi đã chế ra đồ dùng cho người chết, tất
phải có người hầu hạ người chết, người ta mới lại chế ra người bù nhìn bằng gỗ
đem chôn theo với người chết. Đến đời nhà Ân (1765 trước Tây lịch), lại không
dùng mâm bát đồ đất và nhạc khí bằng tre gỗ để chôn theo người chết nữa. Thay
vào cái đồ tế khí, dùng toàn đồ thật chôn theo.
Đời
nhà Chu (1122 trước Tây lịch), người Tàu đã bắt đầu văn minh; Cố nhiên lễ nhạc
đối với người chết cũng được ăn nhịp mà tiến bộ, giữa người chết với người chết
đã được người sống phân ra giai cấp sang, hèn trong việc lễ nghi chôn cất. Số
là từ vua cho đến các quan lớn khi chết đi, sẽ được dùng cả đồ vật giả theo lệ
nhà Hạ, đồ vật thật theo lệ nhà Ân để đem theo các vua chúa đã chết, còn từ
hạng sĩ phu tới bình dân, khi chết chỉ được chôn theo độc một thứ đồ giả thôi.
Nếu người hèn hạ nào mà dùng nghi lễ ngang với người sang tức khắc phải tội “
Tiếm lễ”. Không những thế mà thôi, dã man nhất, độc ác nhất là người ta còn bịa
đặt ra những TUẪN TÁNG, nghĩa là khi các vua và các quan lớn chết đi, từ vợ con
đến bộ hạ của các vua, các quan lớn, đồ yêu quý khi còn sống, sẽ phải đem chôn
sống để làm đồ dùng khi đã chết. Việc này chúng ta được thấy sự thật đã chép ở
sách TẢ TRUYỆN rằng: “ Đời vua Văn Công thứ 6, vua Tần Mục Công tên là Hiếu
Nhân chết, ba anh em họ Tứ xa là Yểm Tục, Trọng Hành và Chàm Hổ đều bị chôn
sống theo Mục Công, vì Mục Công khi còn sống, yêu quý nhất ba anh em họ Tứ-xa.
Người trong nước tỏ lòng thương tiếc ba anh em họ Tứ-xa là người hiền đức, mới
làm ra thơ Hoàng Diệu để tỏ ý than vãn, mỉa mai. Trong thơ đại ý nói: “Ba anh
em họ Tứ-xa đều là người hiền đức gấp trăm nghìn người khác, trời đất ơi! Sao
nỡ đem chôn sống để đi theo với người đã tận số là Mục Công. Nếu ba trăm người
như chúng tôi này được chết theo Mục Công để thế mệnh cho ba người hiền đức ấy,
chúng tôi rất vui lòng mà chết thay”. Về sau người ta cũng biết đem người sống
chôn theo với người chết là vô nhân đạo, mới chế ra người cỏ “Sô-linh”, sau vì
người cỏ không được mỹ thuật, người ta lại dùng đồ gỗ “Mộc ngẫu” như trước.
Sách Trang Tử chép rằng: Vua Mục vương nhà Chu (1001 trước Tây lịch) có người
tên là Yến-sư chế ra người cỏ để chôn theo người chết. Đức Khổng Tử đọc đến
chuyện này liền nổi lòng phẫn uất mà thống mạ rằng: “Kẻ nào sinh ra tục chôn
người gỗ theo với người chết là bất nhân”. Thầy Mạnh Tử cũng ác cảm với tục
hình nhân thế mệnh mà nguyền một câu độc rằng: “Kẻ nào dùng người bù nhìn là
tuyệt tự”.
Đến
đời nhà Hán, giới tri thức Nho học cảm động với nhời tuyệt cự thống thiết của
ngài Khổng, Mạnh trong tục lệ dùng người sống chôn theo với người chết, mới bỏ
tục lệ TUẪN TÁNG, không dùng người sống chôn theo với người chết nữa, nhưng lại
làm ra nhà mồ để cho vợ, con, tôi, tớ người đã chết ra để ấp mộ. Còn các thức
đồ ăn, mặc, hành dùng của người chết kia, khi còn sống dùng những thức gì, khi
chết cũng đem chôn theo hết. Ngôi nhà mồ kia muốn cho thêm oai vẻ, người ta lại
đục phỗng đá, voi, ngựa đá để bài trí chung quanh phần mộ nữa.
Đến
đây chúng ta sẽ lại tìm thấy nguyên nhân của tục đốt vàng mã giấy. Đời Hán Hoa
đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (105), ông Thái Lĩnh bắt đầu lấy vỏ cây dó và
rẻ rách, lưới rách đem chế ra giấy, vì đã có giấy, ông Vương Dũ liền chế ra
vàng bạc, quần áo v.v.. đều bằng đồ giấy để cúng rồi đốt đi để thay thế cho
vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang ma, tế lễ. Sách “Thông giám cương mục”
có chép: Vì vua Huyền tôn mê thuật quỷ thần mới dùng ông Vương Dũ làm quan Thái
thường bác sỹ để coi việc chế vàng mã dùng trong khi nhà vua có tế lễ. Chúng ta
có thể liệt Vương Dũ vào hạng Thuỷ tổ nghề vàng mã được.
Đức
Phật Thích Ca Ngài không hề dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên. Tại sao ngày rằm
tháng bảy là ngày lễ trọng thể của Phật giáo mà thấy một số tín đồ nhà Phật đốt
rất nhiều vàng mã để kính biếu gia tiên. Chính nghĩa ngày rằm tháng bảy của
Phật giáo là thế này: Ngài Mục Kiền Liên là bực đại đệ tử của Đức Phật Thích
Ca. Ngài đã tu chứng được 6 phép thần thông, mắt trông thấy thân mẫu Ngài là Bà
Thanh Đề phải đày đoạ ở địa ngục, mà Ngài không sao cứu được mới cầu cứu đến
Đức Phật. Đức Phật dạy rằng: “Dầu ông thần thông đến đâu chăng nữa, cũng không
có thể cứu được tội nghiệp của thân mẫu ông, phải nhờ đến công đức tu hành của
chư Tăng mới cứu được tội nghiệp cho thân mẫu của ông được. Ngày rằm tháng bảy
sắp tới đây, nó sẽ là ngày của chư Phật hoan hỷ, ngày của chư Tăng hành đạo tự
tứ. Ông phải chí thành sắm lễ nghi trai đàn đem dâng cúng dàng chư Tăng. Các
Ngài sẽ cầu nguyện cho thân mẫu ông được giải thoát”.
Chính
ý nghĩa của ngày rằm tháng bảy chỉ có thế thôi, không hơn không kém. Chúng ta
có ai thấy Phật dạy đốt vàng mã cúng gia tiên về ngày rằm tháng bảy đâu? Tại
sao lại có tục lệ mê tín di đoan ấy? Nguyên nhân đốt vàng mã vào ngày rằm tháng
bảy là thế này: Triều vua Đạt tôn nhà Đường (762) nhằm lúc Phật giáo cực thịnh
ở Tầu, vị sư tên là: Đạo-Tăng muốn cho dân chúng Tầu vì ngày rằm tháng bảy mà
bồng bột theo Phật giáo, bèn lợi dụng tục đốt vàng mã của nhân dân Tầu vào tâu
với vua Đạt tôn rằng: Rằm tháng bảy là ngày vua Diêm vương ở âm phủ xét tội
phúc thăng trầm, nhà vua nên thông sức cho thiên hạ, trong việc lễ cúng gia
tiên vào ngày rằm tháng bảy nên đốt nhiều vàng mã để cúng biếu các vong nhân
dùng.
Vua
Đạt Tôn đương muốn được lòng dân nên rất hợp ý với lời tâu của Đạo tăng liền hạ
chiếu cho thiên hạ, thế là nhân dân nước Tàu lại được dịp thi nhau đốt vàng mã
vào ngày 15/7 để kính biếu gia tiên. Nhưng chẳng bao lâu lại bị chư tăng công
kích bài trừ về việc đốt vàng mã vào ngày trọng lễ của Phật giáo làm cho cái lệ
ngày 15/7 không còn có chính nghĩa nữa. Phần lớn dân chúng Tầu hồi đó, hầu tỉnh
ngộ cùng nhau bỏ tục đốt vàng mã làm cho các nhà chuyên sinh sống về nghề
nghiệp vàng mã gần như bị thất nghiệp, nhất là người Vương Luân dòng dõi của
Vương Dũ là đã bịa đặt chế ra đồ vàng mã. Vương Luân mới bàn cùng với các bạn
đồng nghiệp âm mưu phục hưng lại nghề nghiệp hàng mã trong bọn họ. Một người
giả cách ốm mấy hôm, rồi tin chết được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập
tức được khâm liệm vào quan tài, đã có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống.
Đương khi mọi người họ mạc, xóm làng đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với
một lũ người tất tưởi đem trăm nghìn thứ đồ mà đến có cả hình nhân thế mệnh
nữa. Đem đến để làm gì? Bầy đàn cúng các quan thiên phủ, địa phủ và nhân phủ.
Chả! Chả! Phép quỷ thần màu nhiệm quá nhỉ! Thiêng liêng quá nhỉ! Khi mọi người
đương suýt xoa khấn khứa, bỗng trăm nghìn mắt như một, trông thấy hai năm rõ
mười, cỗ quan tài rung động lên. Bấy giờ, Vương Luân đã đứng sẵn bên quan tài,
liền mở nắp quan tài ra. Chàng giả cách chết kia cũng lò dò ngồi dậy, giả vờ lù
dù, trông trước, trông sau, mới bước từ Đời nhà Chu (1122 trước Tây lịch),
người Tàu đã bắt đầu văn minh; Cố nhiên lễ nhạc đối với người chết cũng được ăn
nhịp mà tiến bộ, giữa người chết với người chết đã được người sống phân ra giai
cấp sang, hèn trong việc lễ nghi chôn cất. Số là từ vua cho đến các quan lớn
khi chết đi, sẽ được dùng cả đồ vật giả theo lệ nhà Hạ, đồ vật thật theo lệ nhà
Ân để đem theo các vua chúa đã chết, còn từ hạng sĩ phu tới bình dân, khi chết
chỉ được chôn theo độc một thứ đồ giả thôi. Nếu người hèn hạ nào mà dùng nghi
lễ ngang với người sang tức khắc phải tội “ Tiếm lễ”. Không những thế mà thôi,
dã man nhất, độc ác nhất là người ta còn bịa đặt ra những TUẪN TÁNG, nghĩa là
khi các vua và các quan lớn chết đi, từ vợ con đến bộ hạ của các vua, các quan
lớn, đồ yêu quý khi còn sống, sẽ phải đem chôn sống để làm đồ dùng khi đã chết.
Việc này chúng ta được thấy sự thật đã chép ở sách TẢ TRUYỆN rằng: “ Đời vua
Văn Công thứ 6, vua Tần Mục Công tên là Hiếu Nhân chết, ba anh em họ Tứ xa là
Yểm Tục, Trọng Hành và Chàm Hổ đều bị chôn sống theo Mục Công, vì Mục Công khi
còn sống, yêu quý nhất ba anh em họ Tứ-xa. Người trong nước tỏ lòng thương tiếc
ba anh em họ Tứ-xa là người hiền đức, mới làm ra thơ Hoàng Diệu để tỏ ý than vãn,
mỉa mai. Trong thơ đại ý nói: “Ba anh em họ Tứ-xa đều là người hiền đức gấp
trăm nghìn người khác, trời đất ơi! Sao nỡ đem chôn sống để đi theo với người
đã tận số là Mục Công. Nếu ba trăm người như chúng tôi này được chết theo Mục
Công để thế mệnh cho ba người hiền đức ấy, chúng tôi rất vui lòng mà chết
thay”. Về sau người ta cũng biết đem người sống chôn theo với người chết là vô
nhân đạo, vàng mã ở kinh sách nào? Nếu các ngài tìm thấy, bần tăng này xin cam
tâm vào địa ngục để chịu lấy tội vong hữu. Nếu không tìm thấy tục đốt vàng mã
do Phật giáo hay Nho giáo truyền dạy, một lần nữa bần tăng thiết tha yêu cầu
các ngài bỏ tục đốt vàng mã đi, lại sẽ khuyến hoá mọi người bỏ tục đốt vàng mã
đi, vì tục đốt vàng mã là bọn Vương Dũ và Vương Luân đầu độc dân Tàu làm cho
dân Việt Nam chúng ta cũng bị hại lây. Nay chúng ta cũng nhau triệt để bài trừ
mê tín tục đốt vàng mã, quyết nhiên giữa dân tộc Việt Nam này để dành cho chúng
ta viên thành một công nghiệp kiến quốc vậy.
1952
HT Tố Liên
(Theo VHPG số 63 )