ĐÔI NÉT VỀ NGUỒN GỐC CỦA
CHUÔNG, TRỐNG, MÕ
THÍCH GIÁC DUYÊN
Trong các chùa Phật giáo
ở Trung Quốc và Việt Nam, một số loại thuộc pháp khí như chuông, trống, mõ được
dùng để trang nghiêm nơi đạo tràng, hoặc thêm phần sắc thái lễ nhạc trong lúc
tụng kinh, lễ sám, thuyết pháp v.v... Những loại này xuất hiện từ hồi nào? Nhằm
mục đích gì?...
Pháp khí có các loại:
loại để trang nghiêm, loại để cúng Phật, loại để báo thời. Khí cụ dùng để báo
thời gian trong tự viện gọi là kiền chùy. Theo các bản Kinh, Luật (Hán
tạng) đã được dịch, kiền chùy là từ chỉ chung cho các loại: chuông,
trống...
I. Chuông
Chuông được phát hiện
tại Trường An (khoảng 1000 năm trước Tây lịch - TTL, thời Châu Chiêu Vương)
thuộc loại sớm nhất tại Trung Quốc. PG Trung Hoa đã đưa chuông vào các tự viện
lúc nào, hiện nay chưa tìm ra tài liệu khẳng định. Tuy nhiên, để tạm truy
nguyên nguồn gốc của chúng có thể dựa vào một số tài liệu. Cuốn Quảng Hoằng
Minh tập (số 2103) trong Đại Chánh tân tu Đại Tạng kinh ghi rằng vào
đời Lục Triều (420-479) đã có nhiều lầu chuông. Năm Thiên Hòa thứ năm (566) đời
Bắc Châu, bài Nhị giáo chung minh được khắc trên ba đại hồng chung lớn
nhất thời bấy giờ. Hai trong ba cái này được đúc vào năm 579 và 665 TL. Tục
cao tăng truyện ghi năm thứ 5 đời Tùy Đại Nghiệp (609), ngài Trí Hưng nhận
lo việc chuông tại chùa Thiền Định ở kinh đô Trường An. Trong khoảng thời gian
này trở về sau, Bắc Châu không ngừng đúc hồng chung để an trí trong các tự
viện.
Thời xưa có hai loại
chuông được sử dụng trong các chùa chiền, tự viện:
1. Phạn chung (chuông
phạn): cũng gọi là "đại chung", "hồng
chung", "hoa chung" hoặc "cự chung". Chuông này được
đúc bằng đồng xanh pha ít sắt. Thông thường chuông cao khoảng 1.5m, đường kính
khoảng 6 tấc. Loại này treo trong lầu chuông, mục đích thỉnh chuông là để chiêu
tập đại chúng hoặc báo thời sớm tối. Người Việt mình thường dùng từ "đại
hồng chung" chỉ cho loại chuông thật to, gần như không còn có quy định cụ
thể là rộng hẹp bao nhiêu nữa. Chuông này còn gọi là chuông U minh.
2. Bán chung (chuông
nhỏ): Vì chiều kích chỉ lớn bằng 1/2 chuông phạn, nên
gọi là bán chung, còn được gọi là "tiểu chung". Chuông này thường
được đúc bằng đồng, cao khoảng 6 đến 8 tấc, thường để tại một góc trong chánh
điện và được sử dụng trong các buổi pháp hội, nên còn có tên khác là "hành
lễ chung". Người Việt Nam cũng như các nước khác ngày nay linh động chế
tạo nhiều loại chuông dạng "bán chung" này, nhưng cũng không có kích
thước cố định.
Ngoài ra, trong thời cực
thịnh của Thiền tông, chuông an trí tại Thiền đường, gọi là "chuông Tăng
đường", 'chuông trai"; chuông để tại chánh điện gọi là "chuông
điện"... Những vị lo việc chuông này gọi là "chung đầu".
Về thỉnh chuông, xưa ở
Trung Quốc tùy mỗi tông phái, từng địa phương mà quy định có khác nhau, nhưng
tổng quát khi bắt đầu thỉnh 3 tiếng và kết thúc đánh nhanh 2 tiếng hoặc 3 hồi
chín tiếng cho các loại chuông nhỏ khi tụng kinh. Số lượng tiếng thường là 18;
cũng có khi thỉnh 36 tiếng, 108 tiếng. Thỉnh 108 tiếng biểu thị hành giả nỗ lực
làm vơi cạn đi 108 phiền não nơi nội tâm. Mười tám tiếng là biểu thị sự thanh
lọc 6 căn, 6 trần và 6 thức.
II. Trống
Trống là một trong những
loại nhạc khí, thường làm bằng đất đá, cây, đồng v.v... Tài liệu văn học liên
quan đến "trống" ở Trung Quốc rất phong phú. Theo sách Lễ ký
phần Minh đường, từ năm 2300 năm TTL về trước, nước họ đã có loại trống do cỏ
kết lại thành. Trung Quốc thời xưa dùng nó trong các dịp lễ lộc, vũ hội... Loại
hình có to, nhỏ, treo hoặc để trên giá... Trống to gọi là trống tẩu, nhỏ
gọi là trống ứng, treo để đánh gọi là trống treo... Trong đó, một
số loại chính do các bậc hiền triết sáng tạo ra, còn số nữa do từ Tây Vức
truyền đến. Trong tự viện, trống cùng với chuông được đặt ở hai bên chánh điện
theo vị trí "tả chung hữu cổ".
Trong Phật giáo, kinh Lăng
Nghiêm ghi lại thuở Đức Phật còn tại thế, trống được dùng để báo hiệu giờ
cơm (thực biện kích cổ), bố tát. Luật Ngũ Phần nói chư Tỳ kheo đến lúc
tụng giới nhưng tập họp không đúng giờ, Đức Phật dạy nên đánh kiền chùy,
đánh trống v.v... với mục đích chính là không ngoài việc tập họp chúng Tăng. Từ
đời Đường về sau, theo thanh quy của thiền môn, trống là một trong những loại
pháp khí dùng làm hiệu lệnh báo thời sớm khuya, tối đến. Sau này Phật giáo
Trung Quốc tiến thêm bước nữa phối hợp nhịp điệu, âm thanh tiếng trống hòa cùng
những lời tán tụng, phổ thành khúc điệu, biểu hiện "kỹ nhạc cúng dường,
trang nghiêm đạo tràng", dùng âm thanh làm Phật sự, trợ giúp đại chúng
phát tâm thành kính đối với Tam bảo.
III. Mõ:
Mõ có 2 loại:
1. Loại hình con cá
thẳng dài treo ở nhà kho, nhà ăn đến lúc dùng cơm cháo gõ nó để báo hiệu.
2. Loại hình con cá có
vảy cuộn tròn, khi tụng kinh thì gõ nó.
Theo sách Tham Thiên
đài Ngũ Đài Sơn ký (quyển 3, Tống Thần Tông Hy Ninh năm thứ 5 ngày
mồng 8 tháng 8) ghi: Trong chùa Thanh Thái có thờ tượng ngài Phó Đại sĩ, vị
Trưởng lão viện chủ đánh mõ chiêu tập các vị tu hành, vị ấy chính là ngài Phó
Đại sĩ... Thời đó, ngài muốn gặp các vị tu đầu đà nơi cao sơn, chỉ gõ mõ, chư
vị nghe xong tiếng mõ ấy liền đến. Sau đó, các tự viện lớn nhỏ dưới chân núi
đều dùng mõ để tập hợp đại chúng. Lại có người cho rằng mõ là do Sa môn
Chí Lâm đời Đường tạo ra, nhưng do sự hạn chế của sử liệu chứng minh, điều này
khó thuyết phục mọi người. Ngoài ra, sách Tăng tu giáo uyển thanh quy
(quyển hạ, phần Pháp khí) ghi lại truyền thuyết rằng có một vị Tăng do phản
thầy, hủy pháp mà bị đọa làm thân con cá, trên lưng nó lại mọc một cái cây, mỗi
khi sóng gió thổi đến, khiến thân ra máu, thật thống khổ vô cùng. Một lần nọ,
thầy bổn sư qua biển, nhân đó nó muốn gây nợ liền nói rằng thầy không dạy để nó
phải mang chịu làm thân cá thế này, do đó nên nay nó muốn báo oán. Thầy hỏi nó
tên gì, liền được trả lời tên là Mỗ Giáp... Thế rồi, thầy bảo sám hối cùng vì
nó bạt độ. Ngay đêm ấy nó thoát thân cá, đồng thời đem cây ấy bỏ trong chùa,
thầy lấy đẽo thành hình con cá và treo lên để cảnh thức đại chúng.
Loại mõ tròn mà ngày nay
dùng có thể là sản vật có từ đời Minh (Trung Quốc). Theo sách Tam tài đồ hội
của tác giả Vương Tích đời Minh có đoạn: "Mõ là loại mà dùng cây khắc
thành hình con cá, rỗng bên trong, gõ sẽ phát ra tiéng, các hàng Phật tử khi
tán tụng đều dùng đến nó". Theo sách Thích thị yếu lãm, chuông,
khánh, ản đá, bản gỗ, mõ, cái thớt đều có khả năng phát ra âm thanh một khi gõ
vào và nhờ đó mà đại chúng được tập hợp, nên các loại đó đều gọi là kiền chùy.
Sách Sắc tu Bách Trượng thanh quy chương Pháp khí nói khi dùng
cơm, khi phổ thỉnh Tăng chúng... đều gõ nó. Từ đây có thể hiểu lúc đầu mõ dài
(loại 1) được dùng để tập họp Tăng chúng. Nhưng vì sao cả 2 loại mõ đều lấy
hình dáng con cá? Sách Sắc tu Bách Trượng thanh quy nói rằng tương
truyền loài cá suốt ngày đêm đều tỉnh, nên khắc hình con cá để mỗi khi gõ vào
nó nhắc nhở mình tỉnh thức, chớ có hôn trầm, giải đãi. Lại nữa, tiếng mõ với
mục đích chính là giữ trường canh cho đại chúng lúc tụng kinh được nhịp nhàng.
IV. Vài ý tưởng
khác
Thời xưa, không những
Trung Quốc mà Ấn Độ và một số nước khác cũng đã sử dụng chuông, trống... Tại Ấn
Độ dùng chuông, trống để báo thời gian, cảnh báo. Khi Đức Phật còn tại thế,
dùng nó để tập hợp chúng Tăng bố tát, nghe pháp... Do đó luật Ngũ Phần
ghi: "Chư Tỳ kheo bố tát, chúng bất thời tập, Phật ngôn: nhược đả kiền
chùy, nhược đả cổ...". Theo cuốn A Dictionary of Symbols
(London 1962, trang 23) rằng hình dáng của chuông xuất phát lấy từ hình tượng
vòm trời. Âm thanh của chuông là biểu tượng của năng lực sáng tạo. Chuông treo
lơ lửng tượng trưng cho sự huyền bí của trời đất.
Ấn Độ đã biết sử dụng
chuông trên 2000 năm về trước. Có lẽ chuông được sử dụng rộng rãi trong cung
đình, đặc biệt trong các chùa chiền. Các hình thức nghệ thuật như điêu khắc
chùm chuông xuất hiện vào thời kỳ đầu của Phật giáo được tìm thấy trên các bức
phù điêu tại các trụ đá của vua A Dục (Asoka) và các tháp tôn trí Xá lợi Đức
Phật. Không riêng tại Ấn Độ mà ngay cả các nước lân cận chịu ảnh hưởng lớn từ
nền văn hóa Ấn Độ như Sri Lanka, Myanmar cũng sử dụng chuông và sau này cả
trống nữa, để biểu hiện lòng thành của người cầu nguyện, đặc biệt dùng khi chấm
dứt một khóa lễ.
Trong các dịp tưởng niệm
Đức Phật, các chuông được sử dụng với một số nhạc khí khác như trống, sáo để
biểu hiện lòng tôn kính Đức Phật. Tác phẩm Saddharmlankra (một tác phẩm
văn học tôn giáo thời trung đại của người Sri Lanka) ghi rằng: chuông đươc sử
dụng đầu tiên ở Sri Lanka vào những dịp đặc biệt như triệu tập Tăng chúng. Sau
này dần dần nó trở thành một phần của nghi lễ cúng dường âm nhạc đến Đức Phật.
Tín đồ PG Tây Tạng tin
rằng khi họ niệm chú, nhờ sức quay chuông của họ mà các câu thần chú sẽ đi muôn
nơi vạn hướng, làm vơi bớt nỗi khổ đau của cuộc đời. Cho nên Phật giáo Tây Tạng
chế nhiều cỡ chuông cầm tay cho tín đồ trì niệm và cả những chuông lăn lớn để
tín đồ quay.
Dĩ nhiên, các loại
chuông trống ở Ấn Độ thuở ban đầu không giống với các loại chuông trống ngày
nay ở Trung Quốc hay Việt Nam. Trung Quốc thuở xưa, trống chỉ được sử dụng để
thúc quân ra trận. Chuông (một hình thức của chiêng) được sử dụng như dấu hiệu
của rút quân. Trống phần lớn cũng để triệu tập ba quân tướng sĩ hoặc kêu oan ở
cửa quan. Loại trống này được sử dụng rộng rãi về sau trong giới quan lại để
hành quyết tội nhân ở pháp đường.
Tóm lại, chuông trống từ
thời xưa đã được dùng trong lễ hội cung đình và giữ vai trò trọng yếu trong âm
nhạc. Qua đây, nó là một trong những loại công cụ nhạc khí dùng để diễn đạt,
giao lưu tư tưởng, tình cảm, dùng trong chiến đấu, cúng tế, trong lĩnh vực tôn
giáo v.v... Chuông, trống được đưa vào PG từ khi Đức Phật còn sanh tiền với mục
đích tập hợp chúng Tăng. Về sau, chuông, trống, mõ được dùng trong các nghi lễ
để trang nghiêm đạo tràng, làm hiệu lệnh báo thời sớm tối. Sau đó, tiến
thêm bước nữa, phối hợp tiếng chuông, trống, mõ, hòa cùng những lời tán tụng để
trợ giúp đại chúng trong việc tu học, làm Phật sự lợi lạc quần sanh, hướng họ
đến bến bờ giác ngộ.
THÍCH GIÁC DUYÊN