Trong kinh kể, khi giác ngộ viên mãn, Đức Phật có đầy
đủ Tam minh, Lục thông. Tam minh gồm:
1. Túc mạng minh: Phật thấy biết vô số
kiếp về trước của mình cũng như của chúng sanh như chuyện mới xảy ra hôm
qua.
2. Thiên nhãn minh: Phật thấy suốt những
vật hết sức xa và hết sức nhỏ. Như trong hư không Phật thấy thế giới
nhiều như cát sông Hằng. Lời nói ấy tới ngày nay khoa học, thiên văn học
mới tìm được phần nào thôi, chớ chưa thấy hết. Nhìn vào một bát nước
Phật nói có vô số vi trùng. Vì thế có câu "Phật quán nhất bát thủy, bát
vạn tứ thiên trùng", nghĩa là Phật nhìn trong bát nước, thấy có tám muôn
bốn ngàn vi trùng. Hồi đó không có kính hiển vi mà Ngài vẫn thấy, tới
bây giờ không hề lạc hậu. Nhìn vào thân này, Phật cũng bảo có vô số vi
trùng, nguyên chữ Hán là "Nhân thân chi nội hữu vô số vi trùng, tại
trung vi trú", tức trong thân này có vô số vi trùng.
Cái thấy, cái biết từ sự buông hết loạn tưởng, tâm
hoàn toàn an định gọi là tuệ. Đây là trí tuệ chớ không phải là trí thức.
Trí thức là những gì chúng ta học được từ bên ngoài, còn trí tuệ là cái
sáng suốt phát sinh từ bên trong, do thiền định mà có.
3. Lậu tận minh: Phật thấu suốt do nguyên
nhân nào chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử và làm cách nào để thoát
khỏi sanh tử. Nên bài pháp Tứ đế, Ngài nói rõ nguyên nhân và kết
quả sanh tử, nguyên nhân và kết quả của giải thoát sanh tử.
Trong nhà Phật dùng từ trí vô sư, tức trí không có
thầy. Trí đó là tánh giác của mình, nhưng vì ta vô minh nên nó bị khỏa
lấp từ lâu. Bây giờ lóng sạch hết những vọng tưởng lăng xăng, không còn
gì che lấp nữa thì nó sẽ sáng lên. Các nhà bác học khi muốn nghiên cứu
một vấn đề gì, họ phải dồn hết tâm lực vào đó, có khi quên cả ăn ngủ, vợ
con. Nhờ tập trung như vậy mới phát minh được việc này việc nọ. Thử hỏi
lúc đó họ học với ai? Chỉ chú tâm vào một vấn đề, buông hết mọi chuyện
chung quanh, tâm trí tự sáng lên. Cũng thế, trí vô sư có sẵn nơi mình,
nhưng ta không dùng được là tại không biết phát huy.
Đạo Phật đúng ra không phải là một tôn giáo, một
triết học, mà là đạo giác ngộ. Phật là bậc giác ngộ, đạo là phương pháp
đưa chúng sanh tới giác ngộ. Đến với đạo Phật không phải từ lòng tin mà
từ trí tuệ. Tin mới gọi là tôn giáo, tín ngưỡng. Còn triết lý do suy
luận mà hiểu, có lúc sẽ lỗi thời. Đạo Phật dạy chúng ta giác ngộ, từ
thâm tâm sáng lên thấy đúng như thật. Nên người học Phật là người tìm
đến chỗ cứu kính như thật. Muốn tới chỗ cứu kính đó phải quên những vụn
vặt lăng xăng, trí tuệ mới phát sinh. Rõ ràng trí tuệ ấy không phải từ
đâu tới, nó có sẵn nơi mình rồi, nhưng tại ta bỏ quên.
Tôi thường ví dụ, chúng ta múc nước đục đổ vào khạp.
Ban đầu nước đục không xài được. Ta chịu khó lóng phèn hoặc để nó yên
lặng một thời gian, nước trong trở lại mới dùng được. Tại sao nước đục?
Tại có chất nhơ bẩn, đất bụi hòa tan trong đó nên nó đục. Những chất ấy
lắng xuống, chìm lặng hết thì nước trở thành trong. Khi nước đục thì vô
dụng, lúc thành trong là hữu dụng. Đục và trong, công dụng khác nhau.
Thử hỏi nước trong từ đâu tới? Ngay trong nước đục có, chớ từ đâu. Nước
đục mà khéo lóng thì thành trong.
Cũng thế, tâm chúng ta lăng xăng là đục, bao giờ nó
lặng được thì thành trong. Mà trong là sáng, nhà Phật gọi đó là tánh
giác. Tánh giác từ đâu tới? Chỉ sạch đi cặn bã vọng tưởng thì nó hiện
ra. Tánh giác sẵn có nhưng vì lâu nay bị những thứ khác hòa tan, khuấy
nhiễu làm cho nó đục. Bây giờ muốn nó trong trở lại, thì chỉ cần lắng
hết tất cả vọng tưởng tức là định, định rồi phát tuệ. Đó là một lẽ phi
thường. Phi thường mà rất bình thường.
Người ta cứ nghĩ tánh giác và mê lầm, hai cái khác
nhau. Nhưng thật ra không khác. Mê vì loạn, bây giờ bỏ hết loạn thì trở
thành giác. Giống như nước trong là từ nước đục lóng xuống mà có. Như
chúng ta thấy sóng biển vỗ ầm ầm, chú ý nhìn từng lượn sóng nổi lên lặn
xuống, nổi lên lặn xuống. Lúc đó biển chỉ bằng lượn sóng, vì ta thấy có
lượn sóng thôi. Nếu không chú ý vào từng lượn sóng thì thấy biển mênh
mông. Tâm mình cũng vậy, khi ta chạy đuổi theo những lăng xăng thì thấy
tâm chỉ là cái vui buồn thương ghét. Bao giờ lặng hết những lăng xăng
kia ta mới thấy nó thênh thang, bình ổn.
Có cái chân thật mà chúng ta cứ đuổi theo cái hư dối
và hài lòng thỏa mãn với nó, thì đáng thương không? Với mình, thấy không
đáng thương vì ta đang giãy giụa trong đó. Với Phật, Ngài thấy thật
đáng thương, cho nên Phật thương chúng sanh là vậy. Vì thế đạo Phật lấy
giác ngộ làm gốc, xem phương tiện không quan trọng. Chừng nào tìm ra cái
thật của mình, chỉ cho mọi người cùng tìm được, đó mới là trên hết, là
tối quan trọng trong kiếp sống con người. Hiểu rồi mới thấy giá trị của
đạo Phật, không hiểu tu Phật lâu dễ thấy chán.
Đạo Phật dạy phải tu cho tâm lặng xuống, bao nhiêu
phiền não lắng sạch, chừng đó trí tuệ phát sáng, mới giác ngộ. Tu theo
đạo Phật là đi trên con đường giác ngộ, người không giác ngộ không thể
gọi là tu theo đạo Phật. Như vậy tu theo Phật khó hay là dễ, mau hay
chậm? Đa số ai cũng bảo khó. Phải chi bảo chúng ta cầu thần thánh ở đâu
đến giúp thì khó, đằng này Phật dạy bỏ những niệm lăng xăng, là quyền
của mình, có ai rầy phạt đâu, tại sao lại khó? Trong kinh Phật có nói:
"Sự tu hành nếu thấu suốt được rồi, thấy dễ như trở bàn tay, không có gì
khó". Đó là điều thứ nhất.
Thứ hai, tu Phật mau hay chậm? Trung Hoa có kể câu
chuyện về chú đồ tể, làm thịt heo bán. Hôm đó được Thiền sư chỉ dạy,
bỗng dưng chú giác ngộ, làm bài kệ:
Tạc nhật Dạ-xoa tâm,
Kim triêu Bồ-tát diện.
Dạ-xoa dữ Bồ-tát,
Bất cách nhất điều tuyến.
Nghĩa là:
Ngày hôm qua tâm Dạ-xoa,
Bữa nay mặt Bồ-tát.
Bồ-tát với Dạ-xoa,
Không cách một đường tơ.
Giác là Bồ-tát, mê là Dạ-xoa. Ngày hôm qua mình thấy
thân này thật, vọng tưởng thật, đó là Dạ-xoa. Bữa nay biết thân này giả,
vọng tưởng hư dối, liền thành Bồ-tát. Như vậy Bồ-tát với Dạ-xoa cách
bao nhiêu? Một sợi tơ. Như tay tôi úp xuống là úp, lật lên là ngửa, chỉ
một cái xoay thôi. Mê cũng mình mà giác cũng mình, chỉ chuyển cái tâm.
Cho nên đường đạo rất gần, rất ngắn, chỉ tại ta lơ mơ, cứ thả trôi hoài
nên kéo dài tới vô số kiếp mới thành Phật. Bây giờ chúng ta tỉnh giác,
giả biết giả không nghi ngờ, chắc chắn sẽ mau đạt đạo. Đó là điều tất cả
Phật tử nên nghiền ngẫm mới thấy giá trị của người tu Phật.
Đức Phật đã nói: "Ta là Phật đã thành, các ngươi là
Phật sẽ thành". Ai cũng có Phật tánh hết, chỉ khác nhau ở chỗ mê với
giác thôi. Nếu trên đường tu chúng ta nỗ lực tiến tới thì con đường Phật
đạo không xa. Nói nỗ lực chớ thật ra không có gì phải nỗ lực. Chỉ cần
đổi cái nhìn thôi, thấy giả với thấy thật có tốn bao nhiêu mồ hôi đâu.
Vậy mà chúng ta làm không nổi, thật cũng không biết nói sao!
Phật đạo là con đường hết sức ngắn, hết sức gần.
Nhưng vì chúng ta chưa nỗ lực, chưa quyết tâm nên lận đận lao đao, chìm
nổi trong vòng luân hồi không có ngày ra. Đó là tại vì mình không can
đảm. Nếu can đảm đổi cái nhìn thì mê biến thành giác ngay, không có gì
xa lạ hết. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ nói: "Có một trăm
chúng sanh thì có một trăm ông Phật", đâu có lỗ, đâu có thiệt thòi gì.
Một trăm chúng sanh bị nhìn, nó mất thì một trăm ông Phật đang giác hiện
ra.
Vọng tưởng dấy lên ta nhìn nó, biết là vọng tưởng
không theo. Chú khác dấy lên cũng thế. Ngồi một giờ thấy một trăm lần
như vậy cũng hoan hỷ như thường, bữa nay mình thắng trận chớ không thua.
Ngày xưa vọng tưởng ta lầm cho là tâm mình, bây giờ vọng tưởng biết
vọng tưởng, đó là đã thắng nó rồi. Ta điểm mặt nó, nó đâu còn quyền làm
chủ mình nữa. Cho nên thấy được vọng tưởng là từng bước ta đang chiến
thắng, đừng buồn, đừng nản. Đó là điều thứ nhất.
Thứ hai, quí vị nhớ người tu thiền lâu hay quên,
nhưng đừng sợ điên. Quên là vì chúng ta không muốn nhớ, chớ không phải
quên của người điên. Pháp tu này nhẹ lắm, chỉ buông thôi, không kiềm chế
nên không sợ điên. Tôi thường ví dụ, như sáng chúng ta đi chợ định mua
mấy món đồ. Hồi khởi sự đi tính năm bảy món. Từ nhà ra chợ hơi xa một
chút, trong đầu lại không muốn nhớ, nên tới chợ quên món này, món khác.
Quên là tại vì mình không muốn nhớ. Cũng vậy, vọng tưởng dấy lên ta
buông, buông riết phải quên thôi. Đó là một lẽ thật. Nhiều người không
biết hoảng sợ, nói sao năm nay tôi ngu quá. Tưởng thế nên hết dám tu.
Đầu đuôi gốc ngọn của sự tu rõ ràng như vậy. Hiểu rồi trên đường tu quý
vị yên lòng, không có gì khó khăn.
Quý vị nghe rồi khéo nhìn, khéo ứng dụng sẽ có lợi lạc lớn. Nếu nghe
mà không thực hành thì việc tu không tiến bước nào. Đó là điều đáng
buồn. Người nào ứng dụng được, tôi tin rằng trên đường tu vị đó sẽ có
bước tiến nhiều hơn mình mong mỏi. Đó là những lời tha thiết của chúng
tôi, xin gởi đến tất cả quý Phật tử.
HT.THÍCH THANH TỪ