Làm ruộng không thuốc sâu
Chùa Từ Hiếu nằm trên đường Lê Ngô Cát, TP. Huế, là một trong những
ngôi chùa còn sở hữu nhiều ruộng ở tỉnh Thừa Thiên- Huế. Đây là ngôi
chùa do các thái giám trong cung xây dựng dưới thời Nguyễn, nên ruộng
đất cũng do thái giám cúng dường. Hiện chùa có tổng cộng 10,5 mẫu
ruộng, tập trung ở các phường Tây Lộc và Thuận Lộc của TP. Huế. Số
ruộng này được nhà chùa xác lập quyền sở hữu từ thời Tự Đức và nay đã
được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Cũng như hơn 100 tăng, ni khác của chùa Từ Hiếu, từ khi còn là chú
điệu, sư thầy Thích Mãn Hạnh đã quen với việc cày ruộng, bón phân, cấy
lúa và gặt lúa. Thầy Hạnh cho biết, với diện tích ruộng lớn và thực
hiện lời chư tổ dạy “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”, nên các sư
của chùa là những nông dân áo nâu, đầu nhẵn.
Mỗi năm hai vụ, sau khi cày, ruộng của chùa được bón phân hữu cơ thật
đều và bừa nhuyễn, phẳng như mặt giấy rồi mới cấy. Việc cấy lúa cũng
hết sức tỉ mỉ. Cây lúa được cấy thẳng như kẻ chỉ, đứng trên bờ nhìn
xuống sẽ thấy từ cây đầu tiên của hàng đến cây cuối cùng.
Mùa gặt, tất cả tăng, ni của chùa đều ra đồng, không phân biệt sư lớn
hay sư nhỏ. Một ngày theo chân các sư ra ruộng gặt lúa, chúng tôi bất
ngờ khi thấy tăng, ni gặt lúa chuyên nghiệp không thua gì nông dân.
Giữa thửa ruộng trũng, các sư xắn quần ngang gối, tay thoăn thoắt cắt,
bó và gánh lúa, áo nâu đẫm mồ hôi.
Điều đặc biệt trong hoạt động làm ruộng của các chùa là không bao giờ
sử dụng thuốc trừ sâu bọ và thuốc diệt cỏ, vì Phật giáo quan niệm
không sát sinh. Do đó, cây lúa ở các ruộng chùa sinh trưởng và phát
triển tự nhiên, không có sự can thiệp của hóa chất. Cũng vì vậy mà kết
quả sản xuất có tính may rủi, bởi nếu gặp năm sâu bọ nhiều thì lúa coi
như mất trắng. Nhưng theo nhà sư ở nhiều chùa, mặc dù không sử dụng hóa
chất, nhưng lúa của chùa rất ít khi mất mùa.
Các tăng ni chùa Từ Hiếu nô nức trong mùa gặt.
“Dĩ nông vi thiền”
Theo sử liệu, khác với chùa ở những địa phương khác, ngay từ buổi đầu
xuất hiện, các chùa ở Thừa Thiên- Huế đã có chủ trương “dĩ nông vi
thiền”, tức là lấy việc cày cấy làm thiền. Do đó, cuộc sống của các
chùa khá sung túc, các tăng, ni không phải hổ thẹn vì đã sống bằng sự
lao động cật lực của mình.
Dưới thời Nguyễn, ruộng của các chùa gồm nhiều loại, như ruộng do vua
cấp; ruộng do các hoàng tử, công chúa và quan lại cúng dường; ruộng do
các trụ trì chùa mua về hoặc do các tín đồ phật tử giàu có mua cúng;
ruộng do làng xã trích cúng… Tuy nhiên, đến nay, trong số hơn 150 ngôi
chùa ở tỉnh, số chùa còn làm ruộng chỉ còn ở con số vài chục.
Theo sư thầy Thích Pháp Chân Đăng - giáo thọ chùa Từ Hiếu, làm ruộng
không chỉ giúp chùa tự túc lương thực, mà còn hỗ trợ cho việc tu hành.
Bởi lẽ, tăng, ni làm ruộng thì mới thấu hiểu và cảm thông được sự vất
vả của quần chúng, từ đó mới có thể gần gũi để cảm hóa, dìu dắt quần
chúng trở về chánh pháp, tạo nên cuộc sống tốt đẹp hơn. Ngoài ra làm
ruộng còn giúp người tu hành tập được cái tính kham nhẫn, cẩn thận và
đây là tiền đề để đi đến các Phật sự lớn.
Thượng tọa Thích Trí Tựu - trụ trì chùa Thiên Mụ tâm sự rằng, nhiều
lão nông tri điền khi thấy sư của chùa cày cấy, gặt hái bằng đức tính
kiên nhẫn, tỉ mẩn cũng phải đem lòng nể phục. Khi đó, các “nhà sư nông
dân” giải thích: nông dân làm ruộng để có lương thực, còn nhà chùa làm
ruộng là vừa để tăng gia sản xuất, vừa nhằm đào tạo ra những thầy tu để
giúp đời.
Theo An Sơn - NTNN