Lễ
hội chùa Vĩnh Nghiêm cũng là Hội chùa La được tổ chức vào ngày 14 tháng
2 âm lịch hàng năm, tại thôn Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng.
Ngày này các sư gọi là ngày giỗ tổ nên cũng gọi là hội giỗ tổ chùa La. Chùa
Vĩnh Nghiêm là ngôi chùa cổ nổi tiếng có từ thời Lý, Trần (thế kỷ XII -
XIII) thuộc dòng Thiền phái Trúc Lâm. Chùa này nằm ở chỗ hợp lưu của
sông Lục Nam
và sông Thương. Khu vực này năm xưa còn gọi là khu vực ngã ba Phượng
Nhãn. Chùa nhìn ra ngã ba sông và nhìn về phía Lục Đầu Giang - Kiếp Bạc.
Phía sau chùa là thôn Đức La xa hơn nữa là vùng Cẩm Lý cửa ngõ ra vào
vùng núi Yên Tử. Bao quanh chùa có một số núi lớn tiêu biểu là núi Cô
Tiên. Ra vào chùa có thể đi theo sông Thương, sông Lục Nam
và con đường quốc lộ 31 đi Trí Yên (Yên Dũng). Do thuận tiện giao thông
như vậy nên khách thập phương đến hội không có trở ngại.
Trong
ngày hội (14/2), các tăng ni ở chùa thắp hương tụng kinh, niệm phật ở
tam bảo, nhà tổ đệ nhất và nhà tổ đệ nhị. đồng thời cũng thỉnh chuông
hoăng dương phật pháp vào lúc sớm, tối trong ngày.
Từ
ngày 13 trở đi, khách thập phương từng đoàn từ 5, 10 đến 20, 30 người
lũ lượt kéo về chùa. Khách đến chùa trẩy hội hầu hết là các già, các vãi
và thanh thiếu niên nam nữ. Hàng quán được mở tạm dọc theo đường từ tam
quan vào đến nhà tiền đường. Trong khu vực nội tự, không có hàng quán
nhưng đông các đoàn dâng hương hành lễ. Xen lẫn trong đó các đội văn
nghệ của làng biểu diễn tích chùa.
Tổ Chúc Lâm ở Chùa Vĩnh Nghiêm là ba vị :
- Giác Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông
- Thiền Sư Pháp Loa
- Thiền sư Huyền Quang
Về
ba vị tổ này, trong một số tấm bia cũ, ở đoạn nói về thời Lý đã ghi :
Vua Lý Thái Tổ mở ra chùa chiền . Tăng đồ thịnh hành là thời kỳ đạo phật
đại hát đạt. Song không có bia để lại . Chỉ được nghe đại lược như
vậy.Ở đời Trần , thì xem trong truyện ký có vua Trần Nhân Tông , cũng là
con trưởng vua Thánh Tông lên năm Mậu Dần , đổi niên hiệu là là Thiên
Bảo ( 1279- 1284). Ngài là người nhân từ có trí thao lược ,xứng đáng
đứng đầu thời nhà Trần , nhưng lúc muộn việc nhàn rỗi , phái mời thiền
khách đế giảng giải nghiên cứu tâm tông , tham khảo Tuệ trung thượng sỹ,
đi sâu vào thiền cốt . Sau nhường ngôi cho Anh Tông ( theo sử ký : ở
ngôi 5 năm , xuất gia 8 năm ).
Năm Kỷ Hợi , Hưng Long thứ 7 (1299) ngài đi đường
tắt vào núi Yên Tử , sửa lại Đầu Đà Hạnh , tự hiệu là Hương Vân Đại Đầu
Đà tinh xã. Mở khoá giảng về Phật pháp tăng nữ đến học đông đúc. Năm
Giáp Thìn , Hưng Long thứ 12 (1304), ngài đi chu du khắp các đạo , tìm
người kế thừa đạo pháp. Khi đi qua sông Nam Sách , thấy đứa con ông thần
dân nặc danh là Kiên Cương, ngài lấy làm lạ nói: ”Chú bé này có đạo
nhân’, bèn ban cho tên Thiện Lai, đưa về am Kỳ Lân, cắt tóc, cho thụ
giáo tâm thiên, học kinh hiểu rộng được ban tên hiệu là Pháp Loa. Ngày
11 tháng giêng năm thứ 16 Điều ngự đăng đoàn thuyết pháp ở chùa Bảo Ân
chuyện Siêu Loại. Giảng xong bèn đi xuống dắt Pháp Loa lên toà, thay sư
vái đáp lễ, xin trao cho y bát, khoác áo rồi Điều Ngực trao cho sư tiếp
nối trụ trì chùa Siêu Loại - Sơn môn Yên Tử thành đời thứ 2 của phái
Trúc Lâm. Vua Trần Anh Tông nhiều lần gửi tờ điệp cho sư. Sư thường tuý
tăng không câu lệ luật thường.
Tháng tư Điều Ngự đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang làm lễ kiết hạ, lệnh cho Pháp Loa trụ trì.
Điều Ngự giảng truyền Đăng Lục, lệnh cho quốc sư
(Pháp Loa) giảng Pháp Hoa kinh cho chúng tăng. Hết khoá hạ thì xong.
Điều Ngự vào núi Yên Tử đến nằm ở Am Ngoạ Vân - ngày 1-11 bổng dưng ngài
hoá. Anh Tông Hoàng đế kính dâg tên hiệu: Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm
Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Phật tổ.
Năm
thứ 21, Quý Sửu (1313) Pháp Loa phụng chiếu đến chùa Vĩnh Nghiêm, định
chức tăng trong thiên hạ và đặt nơi dựng ở chùa một năm. Sau cứ ba năm
một lần làm như vậy, nên tăng ni giáo xuống vài ngàn.
Ngày
13 - 2 năm Canh Ngọ, niên hiệu Khai Hựu thứ 2 (1330) Pháp Loa về viện
Quỳnh Lâm, bèn đem những điều mà Điều Ngự đã truyền trước đây là giá
trạng và tả tâm kệ truyền cho sư Huyền Quang dạy rằng phải gìn giữ lấy.
đến ngày 3-3 Pháp Loa cầm bút viết kệ xong, không bệnh qua đời . Thái
thượng Hoàng gia phong hiệu cho sư là Tịnh trí tôn giả, gọi là pháp viên
thông.
|
Một góc chùa Vĩnh Nghiêm trong ngày Hội chùa
|
Theo Huyền Quang tam tổ thực lục : thuỷ tổ Huyền
Quang ở hương Vạn Tải, Vũ Ninh , Bắc Giang là Ly Ân Hoà , Làm quan cho
triều Lý Thần Tông . Đến tổ đời thứ sáu là Quang Dụ làm chuyển vận. sứ ở
triều trần . Quang Dụ sinh được bốn người con trai ; con út là Tuệ Tổ ,
Tức bố đẻ của ngài . Mẹ ngài mang thai 10 tháng , đẻ ra đã đĩnh dị ,
đặt tên là Đạo Tái; 9 tuổi đã giỏi văn chương. 21 tuổi đỗ đầu khoa thi
đại tỉ, được tiếp Bắc Sư . Văn chương ngôn ngữ hơn hẳn thượng quốc . Khi
ấy có theo vua đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Phượng Nhỡn thấy quốc sư Pháp Loa
hành pháp , lập tức giác ngộ tiền duyên ngài cảm khái nói rằng : “Phú
quý vinh hoa rồi cũng hết như lá vàng mùa thu , mây trắng mùa hạ , làm
sao mà giữ mãi được ?” Nhân đó , ngài nhiều lần dâng biểu từ chức xuất
gia, đến thụ giáo Pháp Loa thiền sư, lấy pháp hiệu Huyền Quang đi tìm
danh lam trong nước, chăm pháp hương ở Pháp toà, giảng kinh truyền thụ
cho môn đệ. Sau ngài đến Côn Sơn và mất ngày 23 tháng giêng năm Giáp
Ngọ. Minh Tôn hoàng đế họ tên thuỵ là: Trúc lân thiền sư đệ tam đại. Đặc
biệt phong tư pháp Huyền Quang tôn giả.
Chùa
Vĩnh Nghiêm hiện có các toàn chính là: Toà Thiên đường, toà thượng điện
nhà tổ đệ nhất gác chuông, nhà tổ đệ nhị và một số công trìn khác. Chùa
có quy mô lớn. Trong ngày hội, mội người đều được chiêm ngưỡng vẻ đẹp
của công trình kiến trúc này và thắp hương niệm phập ở các toà và tưởng
niệm 3 vị sư tổ của thiền phái Trúc Lâm ở toà tổ đệ nhất.
Trong
toà tổ đệ nhất hiện nay có một tượng hậu đặt ở phía ngoài, 2 gian bên.
Ba tổ Trúc Lâm đặt ở hậu cung thẳng trục gian giữa vào sân bên trong.
Mỗi người đến hội, tuy chỉ một nén hương ở chốn này mà kỳ thực như đã
tưởng nhớ tới các vị thiền sư có công khai sáng thiền đạo nơi đây./.
Theo DulichBacGiang