Hoằng Pháp
Hoằng pháp - nhiệm vụ thiêng liêng
Hạnh Chơn
11/05/2010 04:36 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Hoằng pháp là một nhiệm vụ thiêng liêng và quan trọng mà bất cứ hành giả Phật giáo nào cũng phải có vai trò đóng góp. Bản thân từ hoằng pháp đã chứa đựng một ý nghĩa bao quát và khá rộng. Nó bao hàm tất cả các lĩnh vực trong mọi sinh hoạt của đời sống con người.

Hoằng pháp là một nhiệm vụ thiêng liêng và quan trọng mà bất cứ hành giả Phật giáo nào cũng phải có vai trò đóng góp. Bản thân từ hoằng pháp đã chứa đựng một ý nghĩa bao quát và khá rộng. Nó bao hàm tất cả các lĩnh vực trong mọi sinh hoạt của đời sống con người.


Hoằng pháp có thể áp dụng và đem lại hiệu quả nhất định trong mọi lứa tuổi, giới tính hay chủng tộc. Tuy hoằng pháp không giới hạn bởi những yếu tố này nhưng phương cách thực hiện lại cần áp dụng cho từng đối tượng khác nhau. Có thể nói, phương cách là chìa khóa để mở cửa thành công cho nhiệm vụ hoằng pháp. Một số khía cạnh liên quan đến hoằng pháp xin được chia sẻ nơi đây.

Xưa nay, đa phần chúng ta quen với cách hiểu hoằng pháp là gồm có đạo tràng và có giảng sư thuyết pháp. Những vị giảng sư được thành lập thành giảng sư đoàn và có nhiệm vụ đi khắp các tỉnh thành, những nơi có nhu cầu học hỏi giáo lý để giảng dạy. Đó là mặt nổi dễ thấy nhất và cũng là phương pháp khá hiệu quả trong tình hình hiện nay khi mà đa số các vị trụ trì vì không đủ điều kiện hay khả năng để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng này. Nếu nhìn qua tôn giáo bạn, ta sẽ thấy rõ ràng đây là một sự khác biệt rất lớn và cũng là khuyết điểm đáng ngại mà Phật giáo đang trải qua và đối mặt. Nếu ta thử khảo sát các chùa nơi có thể đáp ứng nhiệm vụ này thì cách thực hiện hoằng pháp của họ như thế nào và hiệu quả của nó ra sao trong thời gian qua? Đó là một vấn đề cần nghiên cứu nghiêm túc để tìm hiểu và đánh giá thực trạng của công việc trọng yếu này.

Hoằng pháp như vừa nêu là đáp ứng nhu cầu của những Phật tử từ thanh thiếu niên trở lên, tức là những người có thể nghe và hiểu những lời giảng dạy từ giáo lý Phật đà qua các vị giảng sư. Hoạt động này góp phần rất quan trọng vì đã mang đến cho mọi người những phương pháp có thể hóa giải nỗi khổ niềm đau trong cuộc sống hằng ngày của họ. Nhờ hoằng pháp mà có không biết bao nhiêu người tìm được lại hạnh phúc mà bấy lâu nay họ quên mất hay không có cơ hội nhận ra. Đó là một niềm hạnh phúc lớn lao cho cả người làm công tác hoằng pháp và hành giả tu tập. Cái mặt nổi này đã đóng góp rất nhiều thành tựu cho việc phổ biến Phật pháp và khẳng định được vị trí nổi bậc và ưu thế của nó trong nhiệm vụ thiêng liêng này. Tuy nhiên, vẫn còn có những hình thức hoằng pháp khác cũng cần lưu tâm.

Để khắc phục nhược điểm phải có đạo tràng và thời gian nhất định, các kinh sách, báo chí cũng như các băng đĩa bằng âm thanh và hình ảnh được lưu lại và truyền tải khắp nơi qua các phương tiện truyền thông kỹ thuật số. Giải pháp này đã mang Phật pháp đến tận nhà các hành giả từ thành thị đến thôn quê hẻo lánh, từ trong nước đến ngoài nước, nhằm giúp cho mọi người có cơ hội học và tu tập. Nó đóng vai trò như kim chỉ nam góp phần định hướng con đường chân chánh đưa đến an lạc giải thoát mà một hành giả tu tập cần phải có. Hình thức này đang được thực hiện rất đa dạng. Những cách thức phát hành kinh sách, băng đĩa v.v…bao gồm khuyến khích ủng hộ tài chính cũng như phát tâm ấn tống cúng dường đang rất phổ biến hiện nay. Đó là một trong những phương thức hoằng pháp gián tiếp có hiệu quả đáng kể trong việc phổ biến Phật pháp.

Ví như khi thức ăn đã bày biện sẵn trên bàn rồi thì việc tiếp theo là thưởng thức chúng. Cũng vậy, khi đã tiếp nhận được nguồn diệu pháp của đức Phật rồi thì hành giả cũng phải biết thật chứng về nó, tức là nương vào những lời dạy của Phật để thấy được giá trị đích thực của cuộc sống - giá trị hạnh phúc thật sự. Nói một cách dễ hiểu là hành giả phải tự trải nghiệm bằng chính bản thân mình về những chân lí mà Phật đã dạy. Để thưởng thức món ăn, thực khách chính hiệu phải biết cách thưởng thức và thực khách chỉ có thể cảm nhận sự ngon ngọt các món ăn bằng chính những giác quan của bản thân. Tương tự, hành giả muốn trải nghiệm về chân lí hay thực tại cuộc sống cũng phải biết cách nhận diện và thấy rõ những cảm thọ của thân tâm. Đây là một quá trình phức tạp và khó khăn, đòi hỏi hành giả phải có sự hỗ trợ của các bậc minh sư, thiện hữu tri thức. Các đạo tràng tu tập nơi có những vị đã trải qua kinh nghiệm hành trì sẽ là nơi thích hợp nhất cho các hành giả có thể tìm đến để thực hiện ý nguyện cao đẹp của mình.

Thế thì, ngôi chùa tự nó đã phải là nơi linh thiêng và cũng là nơi để hoằng hóa chánh pháp cho tín đồ Phật tử. Ngôi chùa trở thành nơi tu tập không thể thiếu đối với những người con Phật bởi nơi đó có đủ điều kiện nhất cho việc phát triển tâm linh, và thể nghiệm Phật pháp. Như vậy, vị trụ trì có vai trò rất lớn trong việc truyền dạy Phật pháp cho tín đồ. Vị trụ trì tăng hay ni dù không có khả năng nói pháp lưu loát vẫn có thể hoằng pháp một cách rất hiệu quả. Vị trụ trì không chỉ giảng pháp bằng những lời nói mà còn giảng bằng chính hành động của thân và ý của mình. Vị ấy hoằng pháp qua cách thức hành trì tụng kinh, bái sám và qua tất cả mọi sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật. Vị trụ trì và tín đồ Phật tử cùng tu tập, cùng trao đổi kinh nghiệm sống trong môi trường tâm linh thì lo gì không cảm nhận ít nhiều an lạc giải thoát. Hãy nhìn các tôn giáo khác, các vị tu sĩ chỉ việc giảng dạy đức tin và những điều căn bản về đạo đức rập khuôn mà có thể thu hút bao nhiêu tín đồ tập trung mỗi ngày hay mỗi tuần. Nếu như tất cả các ngôi chùa ở Việt nam, các vị trụ trì có thể làm được như họ thì sự nghiệp hoằng pháp của Phật giáo rất xán lạn! Vậy thì, đâu phải do không giảng pháp giỏi nên không hoằng pháp được bởi hoằng pháp xưa nay vốn bắt nguồn bản tâm, từ nguồn gốc hành trì cơ mà?! Rõ ràng, bất cứ tu sĩ hay cư sĩ điều có thể đóng góp cho sự nghiệp hoằng pháp qua cách hiểu này.

Để ngôi chùa phát huy được vai trò tích cực trong sự nghiệp hoằng pháp và trở thành trung tâm văn hóa tâm linh thì ngôi chùa phải có những chương trình sinh hoạt cụ thể có tính linh hoạt và bất biến. Linh hoạt là sự thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp với môi trường con người xung quanh; còn bất biến là trong bất cứ sự thay đổi điều chỉnh nào vẫn phải giữ được mục đích của Phật pháp. Bởi vì đối tượng tham gia bao gồm mọi lứa tuổi, mọi thành phần nên chương trình tu học tất yếu cũng có sự khác biệt nhất là chương trình dành cho thanh thiếu niên – một thành phần ít được quan tâm. Hiện tại, thành phần tham dự các khóa tu hay tụng niệm thường là các vị ở độ tuổi trung và cao niên bởi họ đã ít nhiều trải nghiệm những khổ đau của cuộc sống và mong muốn tìm cầu sự an lạc tâm linh. Phần lớn, thành phần thanh thiếu niên chưa quan tâm nhiều đến giá trị đạo đức tâm linh bởi vì họ một mặt không thừa hưởng được truyền thống tâm linh từ tổ tiên của họ, và một mặt vì sự hấp dẫn quá mạnh của vật dục.

Do vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể thu hút giới trẻ quan tâm đến nền đạo đức tâm linh Phật giáo. Theo thiển ý cá nhân thì thiết lập một niềm tin vững chãi cho thế hệ trẻ là yếu tố thiết thực cần phải thực hiện cấp thời. Bởi lẽ, có niềm tin là có tất cả và mất niềm tin thì cũng chẳng còn gì.

Nếu thử so sánh các tín đồ của các tôn giáo trên thế giới, một kết quả thú vị là các tôn giáo có tín đồ nhiều nhất đều là các tôn giáo dựa trên niềm tin, và lý do các tín đồ đến với tôn giáo nhiều nhất cũng là niềm tin. Dù rằng hiện nay, ở các nước Âu, Mỹ, các tín đồ không thường xuyên tới các nhà thờ do nhận thức của họ đã thay đổi nhưng trong lòng họ vẫn giữ niềm tin vào chúa như là một truyền thống văn hóa của họ. Dù họ biết rằng chúa (một thực thể sáng tạo thế giới) không thực có nhưng họ vẫn giáo dục các thế hệ con em có một niềm tin, một điểm tựa lý tưởng trong cuộc sống phàm tục này. Vậy thì, giá trị giáo dục vẫn phát huy tác dụng dù rằng niềm tin chưa hề được trải nghiệm chứng đắc.

Trở lại với đạo Phật, chúng ta luôn tự hào Phật giáo là ‘đến để mà thấy’ chứ không phải đến để mà tin. Tuy nhiên, ở khoảng giữa của đến và thấy ta vẫn tìm thấy sự có mặt của niềm tin (saddha). Bởi nếu không có niềm tin thì đức Phật không nói chi phần ‘tín’ đầu tiên trong ngũ căn và ngũ lực thuộc 37 phẩm trợ đạo, và kinh Hoa Nghiêm cũng không có câu nói ‘niềm tin là mẹ các công đức lành’. Có điều là niềm tin trong đạo Phật không phải là niềm tin mù quáng, mặc khải mà các tôn giáo khác chủ trương truyền bá. Niềm tin trong Phật giáo được đề cập khá rõ ràng học qua sáu đề mục niệm. Đó là tin Phật – bậc giác ngộ hoàn toàn, bậc có đầy đủ lòng từ bi cứu đời, bậc cứu khổ mầu nhiệm; là tin Pháp – những lời dạy của Phật, những phương pháp có thể đưa chúng sanh đến giác ngộ giải thoát; là tin Tăng – một đoàn thể những người xuất gia thanh tịnh có thể giảng dạy chánh pháp của đức Phật; là tin Thí tức tin sự thực hành của việc bố thí sẽ mang lại kết quả lành tất yếu; là tin Giới tức những điều đạo đức đưa đến đời sống trong sạch; và tin Chư Thiên tức những bậc có phước báo và phẩm chất đạo đức cao hơn con người.

Xuyên qua sáu đề mục niệm hay niềm tin cơ bản này, các nhà hoằng pháp bằng sự sáng tạo của mình vận dụng để thiết lập cho thế hệ trẻ một niềm tin vững chãi về cuộc sống, về giá trị đạo đức xã hội, về đạo hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, về nhân quả công bằng của những hành động, và đặc biệt là niềm tin tâm linh Phật giáo. Để đạt được những mục đích này, không có cách nào hữu hiệu hơn là cần có sự phối hợp của gia đình và nhà chùa. Gia đình các Phật tử nên quan tâm đưa con em mình đến chùa để huân tập đức tin tâm linh ngay từ khi chúng còn nhỏ hơn là chờ cho đến khi chúng lớn. Chờ cho con em đến tuổi trưởng thành mới cho tìm hiểu đạo lý là chúng ta vô tình đánh mất cơ hội tiếp nhận đời sống tâm linh của chúng và vô tình tạo điều kiện cho các thế giới vật dục bên ngoài xâm nhập. Khi giới trẻ đã có thói quen vọng ngoại rồi thì gia đình sẽ ít có cơ hội thành công trong việc hướng dẫn chúng tu tập đạo đức tâm linh.

Về phía chùa, các vị trụ trì nên tổ chức những nghi thức cầu an chúc phước vào một thời điểm thích hợp cho tất cả các con em Phật tử khi chúng được sinh ra. Kết hợp với gia đình hãy hướng dẫn trẻ quy ngưỡng Phật, biết kính lễ Phật và đặt trọn niềm tin kiên định vào đức Phật thông qua sự giới thiệu một đức Phật từ bi và mầu nhiệm, luôn luôn lắng nghe và thương chúng trong mọi lúc. Khi quý thầy cô đề xướng cách thức đem đến sự bình an và lợi lạc như thế, thiết nghĩ, Phật tử sẽ rất hưởng ứng. Làm như vậy, các con em chúng ta sẽ có nhiều cơ hội gieo duyên với Phật pháp và qua đó cũng thể hiện sự quan tâm săn sóc giữa chùa và tín đồ. Hơn nữa, chùa cũng phải tạo môi trường tốt cho các con em trẻ sinh hoạt bằng những buổi sinh hoạt kể chuyện Phật pháp, những bài ca vui tươi, cách cư xử với nhau, v.v…Khi những ấn tượng tốt đẹp ban đầu đã gieo vào cuộc đời trẻ thơ thì chúng sẽ nhớ mãi và sẽ có nhiều cơ hội phát triển cho dù khi chúng không có nhiều cơ hội đến chùa. Chúng ta vẫn nghe đâu đây rất nhiều Phật tử khi tỉnh ngộ than rằng, ‘phải chi chúng con biết đạo Phật sớm thì đỡ khổ biết mấy.’ Vậy thì sự gieo vào tâm thức trẻ thơ những hạt giống Phật pháp chẳng phải là hữu ích ư?!

Sẽ còn rất nhiều phương cách được ứng dụng trong quá trình hoằng pháp mà một vị giảng sư, một vị trụ trì và ngay cả hành giả Phật tử tại gia có thể sáng tạo ra. Điều đó sẽ dành cho các bậc tôn đức kinh nghiệm về hoằng pháp. Trong phạm vi nhỏ này chỉ nêu vài ý về các phương cách hoằng pháp phổ biến hiện nay. Sự hợp tác giữa các vị trụ trì tổ chức đạo tràng tu tập và chư vị giảng sư thuyết pháp là sự phối hợp rất cần thiết. Vấn đề giáo dục về đạo đức tâm linh, về truyền thống đạo hiếu cho giới trẻ nơi nhà chùa cần được quan tâm nhiều hơn bởi quý thầy cô và phụ huynh Phật tử. Nhiệm vụ hoằng pháp sẽ góp phần đáng kể trong việc định hướng niềm tin và lối sống vững chãi cho các thế hệ tương lai, và là người bạn đồng hành trên bước đường tu tập của tất cả những hành giả Phật giáo.

Các tin đã đăng:
Bao Hiem BSH
» Video
» Ảnh đẹp
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch