Theo lịch sữ Phật Giáo thì Vi Diệu Pháp được Ðức Phật thuyết vào hạ thứ
bảy tại cung trời Ðạo Lợi (Tam Thập Tam Thiên - Tāvatimsa ) với mục đích là
độ thân mẫu của Ngài.
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji
(Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji,
mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú
thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh
quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
Trong
cuộc
đời con người ta chỉ có 2 cơ hội để nhìn thấy
sự thật. Cơ hội tự nhiên là khi ta chết. Theo những bác
sĩ nghiên cứu những người chết sống trở lại (hiện tượng
Near Death Experience), thì linh hồn ta có cơ hội nhìn lại cuộc
sống của ta một cách khách quan và sau đó, nếu ta không sống
trở lại, thì linh hồn sẽ đi đầu thai.
Thế
Tôn hỏi các Tỷ-kheo rằng, phải chăng các thầy vì nhàm tởm,
ghê sợ sự sanh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu não;
vì muốn đoạn tận nỗi khổ đau lớn lao ấy; và vì muốn
đạt được cứu cánh giải thoát mà xuất gia học Đạo,
để chấp nhận sự nuôi sống bằng cách đi ăn xin (khất
thực), cách nuôi sống thấp hèn nhất của xã hội, mà mọi
người đàm tiếu rằng: “Đầu trọc, tay ôm bình bát bước
đi!” - Các Tỷ-kheo trả lời: “Thật sự như vậy. Bạch
Thế Tôn!”
Kinh
dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán thì do ngài Đường Huyền-trang
dịch từ năm sáu trăm bốn chín - nghĩa là cách đây hơn một
ngàn ba trăm năm - nó gồm tất cả hai trăm sáu mươi chữ,
và vị nào hay tụng trong thiền-viện là thuộc lòng hết rồi;
mà ngay đến chúng tôi, tôi cũng thuộc. Tôi thuộc bài kinh
này vào năm tôi mới có sáu tuổi, và đến khi tôi bắt đầu
đọc tụng
Nhà
đại
văn hào Nga Lép Tôlxtôi nói rằng: “Những chân lí sâu
sắc nhất đồng thời cũng là giản dị nhất”. Nét đặc
sắc khiến các bài thuyết pháp của Đức Phật Thích Ca có
sức thuyết phục và hấp dẫn lớn, không phải chỉ là ở
tính lôgíc chặt chẽ của lập luận, mà còn ở những chân
lí sâu sắc mà giản dị, được trình bày dưới hình thức
gọn nhẹ, hình ảnh, và nhiều khi còn dí dỏm nữa.
Kinh Di Giáo là một
tác
phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất
gia, văn chương đẹp đẽ, ý tứ rõ ràng. Ðây là những
lời dạy sau cùng của Ðức Phật, đầy tình thương và
sự khích lệ.
Biết pháp là biết mười hai bộ kinh để dễ phân biệt về sau. Biết pháp cũng còn có nghĩa là biết rành mọi pháp ở thế gian, ngay trong cõi mình đang sống, nhờ đắc Nhất thiết chủng trí. Ðại Bồ tát y theo kinh Ðại Bát Niết Bàn trụ nơi bảy pháp lành này (Biết pháp..., Biết tôn ty) thành tựu trọn vẹn Phạm hạnh nhưng cũng chưa đầy đủ. Phạm hạnh là một hạnh rất lớn, gồm cả Tứ vô lượng tâm.
Ðức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn. Cảnh giới an vui hạnh phúc này còn gọi là niết bàn là do chính chúng ta tạo ra, không phải là ở một nơi xa xăm nào đó hoặc là ai đó ban thưởng đến cho chúng ta.
Kinh Bát Ðại Nhân Giác do ngài An Thế Cao dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán, vào thời Hậu Hán đời vua Hán Hoàn Ðế, niên hiệu Kiến Hòa năm thứ 2 (148 CN). Ngài là Thái tử xứ An Tức (Parthie), nay một phần thuộc Ba Tư (Persia, Iran) một phần thuộc A Phú Hãn (Afghanistan). Lúc bấy giờ Ðạo Phật từ Ấn Ðộ truyền sang rất thịnh hành trong vùng đó.
Các tin đã đăng: