Đất nước của những con người không tất tả bon chen. Nhu hòa
tự tại là một trong những đặc điểm tính cách dân tộc, điều đó đã khiến
Ấn Độ trở thành quốc gia hiếm hoi trên thế giới giành lại độc lập chủ
quyền từ tay kẻ xâm lược bằng phương pháp bất bạo động. Gần gũi, hài hòa
với thiên nhiên, không giết chóc sát sanh động vật bừa bãi là quan điểm
sống của người Ấn. Đa số người dân ăn chay trường; nhìn gương mặt nào
ta cũng thấy phảng phất một niềm tín ngưỡng…
Nụ cười Ấn Độ
Điều đầu tiên tuyệt vời thích thú nhất
khi đến với với đất nước Ấn Độ là bạn sẽ dễ dàng nhận được nụ cười và
ánh mắt thân thiện từ những người mà bạn gặp dọc dường. Dù bạn đang ngồi
trên xe ô-tô, xe của bạn có thể tung bụi phủ mù lên người họ, nhưng chỉ
cần bạn gởi đi một ánh mắt thân thiện, chắc chắc bạn sẽ được nhận lại
một nụ cười, một cái vẫy tay, hay cái nhìn trìu mến rất hồn nhiên.
Người
Ấn dễ mở lòng, dễ bỏ qua, nhu hòa và điềm tĩnh. Nếu có một cuộc va chạm
giao thông nhẹ trên đường, họ sẽ không sửng cồ tranh cãi, phân thắng
bại được thua, bực lắm thì chỉ làu bàu vài câu rồi đứng dậy tự lo giải
quyết hậu quả. Nếu là người thuộc giai cấp cao, họ sẽ mắng người giai
cấp thấp một câu, và người giai cấp thấp - dù không có lỗi gì - cũng
dịu dàng chịu nhận, rồi im lặng giải tán.
Ấn Độ còn tục phân biệt giai cấp khá
nặng, nhưng họ nhi nhiên chấp nhận điều đó rất bình thản nhẹ nhàng. Một
điều rất hay là dù có sự phân biệt giai cấp nhưng cách sống của họ lại
không có sự phân biệt. Người giàu cũng ăn uống, sinh hoạt giản dị như
người bình dân, khoảng cách nhu cầu hưởng thụ giữa họ không quá khác
biệt.
Người Ấn không đề cao nhu cầu hưởng thụ.
Bạn sẽ hiếm thấy những quán ăn, nhà hàng, bia rượu, quán karaoke hay
các tiệm Net với những trò vui chơi giải trí lắm kiểu như ở ta. Ở Ấn Độ
hầu như không có tệ nhậu nhẹt. Rượu có thể được bán sau 6 giờ chiều, ai
muốn uống có thể mua về nhà âm thầm uống. Nam giới ít hút thuốc lá, thay
vào đó là ăn trầu. Trầu được chế biến đóng gói sẵn trong những tếp nhỏ,
(như kiểu bịch dầu gội đầu ở ta), treo bán khắp nơi. Đi đường, nhiều
lúc ta sẽ thấy cảnh một anh chàng Ấn Độ dừng xe, móc trong túi ra một
gói nho nhỏ như gói kẹo, xé và bỏ vào miệng nhai ngon lành, lát sau phun
một phát nhẹ nhàng như phà khói thuốc.
Ở các trung tâm thành phố lớn, có thể có
vài địa điểm ăn uống vui chơi nhưng chủ yếu là phục vụ cho du khách;
người Ấn đa phần ít có nhu cầu ăn chơi dù họ có lối sống khá nhàn nhã,
không tất bật với công việc. Quan điểm sống của người Ấn rất thiểu dục
tri túc, không hối hả bon chen. Đời sống tinh thần chủ yếu dựa vào niềm
tin tôn giáo. Nhu hòa tự tại là một trong những đặc điểm tính cách dân
tộc, điều đó đã khiến Ấn Độ trở thành quốc gia hiếm hoi trên thế giới
giành lại độc lập chủ quyền từ tay kẻ xâm lược bằng phương pháp bất bạo
động.
Với số dân đông đứng nhì thế giới, tỉ lệ
giữa nam và nữ cũng không chênh lệch quá xa nhưng nguồn lao động xã hội
hầu như chỉ tập trung vào nam giới. Gần nửa tỉ người nữ Ấn Độ hầu như
cả đời chỉ loanh quanh với công việc nhà và chăm sóc con cái. Trong các
chợ búa, cửa hiệu, công sở… chỉ nhìn thấy bóng dáng người nam buôn bán,
làm việc. Sa-ri của người phụ nữ Ấn Độ rất đẹp, hoa văn cầu kỳ, rực rỡ.
Lạ một điều là bộ sa-ri phơi bày phần hông và bụng khá nhiều nhưng không
gây cảm giác hở hang gợi cảm như những trang phục khác. Phụ nữ Ấn Độ ít
cười, nét mặt thường thoáng vẻ buồn man mác…
Dấu ấn tôn giáo
Nhìn
vào bất cứ gương mặt người Ấn nào ta cũng thấy phảng phất một niềm tín
ngưỡng. Trẻ con được vẽ những quầng mắt đen sắc để bảo hộ, phụ nữ thì
chấm dấu son giữa trán, vệt màu đỏ dọc đường ngôi trên tóc... Hầu hết
người Ấn đều theo một tôn giáo nào đó, ít ai không có tín ngưỡng. (80,5%
theo đạo Hindu, 13,4% theo đạo Hồi, 2,3% theo Thiên chúa giáo, 1,9%
theo đạo Sikh, 0,76% theo đạo Phật, 0,4% theo đạo Jai-na; số còn lại
theo các tôn giáo khác.) Có lẽ một phần nhờ vào niềm tin tôn giáo mà Ấn
Độ ít tệ nạn xã hội, ít trộm cắp, ít nhậu nhẹt, sa đà, xa hoa lêu lỏng…
giữ được giềng mối đạo đức xã hội.
Người Ấn không cầu kỳ chú trọng hình
thức về nhà cửa, xe cộ. Nhà cửa xây cất rất đơn giản. Các vùng nông
thôn, nhà thường chỉ tô trát phía bên trong, bên ngoài cứ để tường gạch
mộc. Rất nhiều nhà trong tình trạng xây dang dở, đủ ở là ngưng, không
cần hoàn thiện. Ngay cả thủ đô Deli cũng ít có những ngôi nhà hoành
tráng; việc làm đẹp cho “mặt tiền” nhà cửa chắc còn thua cỡ tỉnh lẻ nước
ta.
Khu tưởng niệm thánh Mahatma Gandhi ở
giữa thủ đô cũng được kiến trúc rất giản dị, khu vực chính chỉ là một
cái bục thấp, trên dựng một trụ đèn nhỏ để thắp ngọn lửa bên trong. Khu
tưởng niệm là cả một vùng đất rộng mênh mông chỉ để trồng những bãi cỏ
và cây cối tự nhiên. Người Ấn không chăm chút vào việc xây cất nhà cửa
nhưng quan trọng việc xây cất đền đài. Những công trình liên quan đến
tôn giáo được xây dựng công phu. Tại Delhi, ngôi đền Ấn giáo lớn nhất
mới được xây dựng hoàn tất vào năm 2002 thật hoành tráng. Chiêm ngưỡng
kiến trúc ngôi đền này khiến ta tin rằng nếu muốn, con người hiện đại có
thể tạo ra những kỳ quan thế giới không kém người xưa.
Tại Agra, cách Delhi khoảng 200km có kỳ
quan thế giới Taj Mahal, mệnh danh là “Lâu đài tình ái” lớn nhất hành
tinh. Công trình được xây dựng trong 22 năm với kiến trúc tuyệt vời được
tính toán chính xác đến từng cm (4 trụ cột quanh ngôi đền chính được
xây nghiêng ra ngoài 1cm đề phòng động đất). Ngắm hai công trình này,
thật nể phục bàn tay xây dựng của người Ấn Độ xưa và nay. Đương nhiên là
không thể đưa ra để so sánh, đánh giá giữa một tác phẩm làm bằng tay
với một tác phẩm được sản xuất ra từ máy dù là ở góc độ thẩm mỹ hay
chuẩn mực nào.
Gần
gũi, hài hòa với thiên nhiên, không giết chóc sát sanh động vật bừa bãi
là quan điểm sống của người Ấn. Đa số người dân ăn chay trường. Thực
phẩm ở chợ bày bán chủ yếu là các mặt hàng rau đậu ngũ cốc, rất ít thịt
cá. Chợ thực phẩm ở Ấn Độ rất nhỏ lẻ, không có chợ lớn. Người Ấn ăn ít,
ít ăn và khẩu phần ăn rất đơn giản. Khắp nơi trên đất Ấn, các loại gia
súc chim muông sống rất yên bình. Bên bờ sông Hằng người ta còn cắm đầy
cả những cây tre dùng cho chim đậu nghỉ chân. Xe taxi, hàng rào quanh
các cơ quan nhà nước được sơn đồng bộ màu vàng và xanh mang ý nghĩa biểu
tượng thân thiện bảo vệ môi trường.
Đương nhiên môi trường ở đây được hiểu
là môi trường xanh, chớ còn khái niệm sạch thì đối với người Ấn lại
thuộc về một hệ qui chiếu khác! Người Ấn sống hồn nhiên nên những hoạt
động “vệ sinh cá nhân” của con người được phơi bày hết sức tự nhiên
không cần che đậy. Việc “tiểu đường” khắp nơi là chuyện bình thường. Ở
các làng quê, sáng sớm người dân ra “ị đồng” đông vui nhộn nhịp như họp
tổ dân phố!
Ở các vùng nông thôn và thậm chí ngay ở
phố thị, người ta sử dụng rất nhiều phân bò vào việc đun nấu. Phân bò
được nhào nặn với rơm và đất bùn, vo lại thành từng bánh, rồi phơi lên
nóc nhà hoặc dán lên các bờ tường. Ngay giữa thành phố thánh địa
Varanasi – nơi được coi là một trong bốn điều mong ước của người Ấn giáo
(1: Kính thờ thần Shiva; 2: Tắm và uống nước sông Hằng; 3: Kết bạn với
thánh nhân; 4: Được cư trú ở thánh địa Varanasi) thì phân bò cũng được
phơi dán rất nhiều trên các bờ tường ven đường phố một cách thoải mái
hồn nhiên. Có lẽ đối với người Ấn, con ruồi và con bồ câu đều được họ
nhìn với ánh mắt bình đẳng như nhau.
Niềm tin và tập tục bên sông Hằng
Người Ấn đa phần xem cái chết là một
điều hết sức bình thường, đó chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp trong vòng
luân hồi, tái sinh, giải thoát. Do đó, không có sự khóc than thương
tiếc hay tổ chức tống táng long trọng. Chỉ vài giờ sau khi qua đời,
người chết được quấn bằng những lớp vải, để lên chiếc cáng làm bằng hai
thanh tre, khiêng đến bờ sông gần nhất, hỏa thiêu rồi đẩy tro cốt xuống
sông là xong. Rất gọn gàng đơn giản. Việc hỏa thiêu rất sơ sài nên xác
người chưa cháy hết là chuyện bình thường, người ta vẫn đẩy cái xác ấy
xuống sông.
Sông
Hằng là địa điểm mà hầu hết người Ấn giáo nào cũng mong muốn khi chết
được thiêu và rải tro cốt xuống dòng thiêng ấy. Sông Hằng ở đoạn thánh
địa Varanasi là nơi được cho là rất linh thiêng nên điểm thiêu xác tại
đây tập trung số lượng rất đông, ngày cao điểm có thể đến hàng trăm xác.
Xác người mang đến được đặt rải rác bên bờ sông chờ đến lượt. Bãi thiêu
xác lộ thiên, chó, bò, dê… thoải mái đi lại rảo quanh, quạ từng đàn bay
lượn đậu lên những cái xác rất bình thường.
Người Ấn chỉ xây nhà bên bờ phía Tây
sông Hằng, bờ Đông với những bãi cát tít tắp (nơi phát nguồn câu thành
ngữ “Hằng hà sa số”) được để trống cho người ta chiêm bái khi mặt trời
lên. Lễ hội sông Hằng diễn ra hằng đêm, người ta cúng lễ hai vị thần là
thần Shiva và Nữ thần Sông Hằng. Hình ảnh hai vị thần được khắc vẽ trên
hai trụ cột màu hồng rất lớn bên bờ sông. (Tượng Bà Chúa Xứ ở ta có vẻ
mặt và hình thể rất giống hình vẽ Nữ thần Sông Hằng). Niềm tin, tập tục
tắm và uống nước sông Hằng để rửa sạch tội lỗi và giải thoát khỏi vòng
luân hồi của người theo đạo Hindu vẫn được duy trì bất kể sự ô nhiễm
ngày càng kinh khủng của nước sông Hằng. Rất nhiều ý kiến không đồng
thuận với sự bất ổn trong tập tục này. “Nước dù sạch đến đâu cũng không
thể rửa sạch tội lỗi ở trong tâm. Muốn thanh lọc tâm phải thay đổi hành
động, muốn thay đổi hành động phải điều chỉnh nhận thức…” - Tiến sĩ
Triết học ở Ấn Độ, Thầy Nhật Từ nói trong một bài phát biểu về việc tắm
và uống nước sông Hằng trong tình trạng ô nhiễm mất vệ sinh kinh hoàng
hiện nay.
Niềm
tin tôn giáo lâu đời sẽ ăn sâu và trở thành tập tục văn hóa; tập tục
văn hóa là một bộ phận cấu thành bản sắc dân tộc. Người Ấn rất kiên định
trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc, đó là điều rất hay. Nhưng có những
niềm tin và tập tục cần được hiểu đúng và điều chỉnh cho phù hợp với sự
phát triển của xã hội. Thái độ bình tĩnh nhẹ nhàng trước cái chết của
người Ấn là hay, tập tục thiêu xác là tốt, nhưng thay vì cứ thiêu lộ
thiên gây phản cảm rùng rợn và mất vệ sinh, người Ấn có thể chọn phương
pháp thiêu xác kỹ lưỡng trong các lò thiêu.
Lễ hội sông Hằng rất đặc trưng, độc đáo,
nhưng giá như người Ấn có thể thay cách tắm và uống nước sông Hằng bằng
việc đến trước dòng sông xinh đẹp kỳ vĩ này để chiêm bái, tạo sự thư
thản cho tâm hồn thay vì phải nhảy ùm xuống sông ngụp lặn làm ô nhiễm nó
rồi uống vào cơ thể dòng nước mất vệ sinh ấy. Tất cả mọi việc trên đời
đều có thể hoàn mỹ, tốt hơn nếu con người biết sáng suốt lựa chọn, thanh
lọc và phát triển đúng. Nhưng thế nào là đúng? Nếu có được chỉ duy nhất
một câu trả lời thì thế giới này ắt đã không như chúng ta đang sống
hiện nay.
Và nếu các dân tộc trên thế giới đều có
đức tính nhu hòa, điềm tĩnh, thân thiện, nhân hậu và biết sống hài hòa
với thiên nhiên, gìn giữ môi trường thì cuộc sống con người trên hành
tinh xinh đẹp này của chúng ta sẽ tốt biết bao!
Theo: Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay số 7