V ăn hóa xã hội và tín ngưỡng tôn
giáo là một hiện tượng khảo sát của văn minh nhân loại. Như chúng ta đã biết,
văn hóa Việt Nam nói chung, hay các tập tục - tín ngưỡng - lễ hội nói riêng,
trải qua quá trình phát triển lịch sử của dân tộc đã chịu nhiều ảnh hưởng của
các trào lưu văn hóa, tôn giáo vốn đã du nhập vào nước ta hòa quyện để trở
thành truyền thống dân gian của dân tộc. Dĩ nhiên, những truyền thống dân gian
nguyên thủy của các dân tộc người bản xứ được coi là thủy tổ của dân tộc Việt
dần dần được pha trộn với các nền văn hóa khác mà phát triển, thì chủ thể không
còn là bản sắc ban đầu của nó. Đó là một hoàn cảnh mang tính đặc thù của người
Việt, vốn dĩ thuyết minh cho phần nghiên cứu chuyên đề này là phong tục tập
quán mang ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa ở vùng đất Nam bộ.
Hiện
nay, sinh mạng con người đang bị đe dọa trong sự khủng hoảng nghiêm
trọng bạo động diễn tiến hàng ngày, sự bạo động với những hình thức khác
nhau như: bạo động chiến tranh, Bạo động tôn giáo, bạo động chính trị,
bạo động kinh tế, bạo lực học đường… bạo
động được biểu hiện từ thân, khẩu, ý…Nó liên quan trực tiếp đến sự tổn
hại với những người khác…do vì tính chất bạo động cực đoan dẫn đến khủng
bố, chiến tranh chết chóc. [1]
T ín
ngưỡng dân gian là hành vi tôn giáo có liên quan đến phong tục dân tộc, cũng là
hiện tượng tôn giáo mang hình thái nguyên thuỷ. Từ khi có văn hoá nhân loại
đến nay, tín ngưỡng dân gian đã tồn tại
một cách phổ biến trong các dân tộc. Đây là vì nhân loại cần phải giải toả
phiền não trong tâm, sự tranh chấp ở gia đình và ngoài xã hội, áp lực của hoàn
cảnh tự nhiên. Trong một thời gian ngắn, họ không có cách gì dùng thể năng, trí
năng của con người để giải quyết những vấn đề trên, nên chỉ có cách cầu thần
minh chỉ dẫn, giúp đỡ, cứu tế, bảo hộ. Họ lợi dụng phương thức xin thẻ, bói
toán, giáng sinh, cầu hồn, lên cơ, cúng tế, hứa nguyện (1) , để mong
liên lạc cảm thông được với quỷ thần. Hành vi này, theo nhất thần giáo là mê
tín dị đoan và tà thuật. Phật giáo cũng không chủ trương có hành vi như vậy.
Tu đạo bồ tát là tu gì? Là tu bồ
đề tâm. Tu bồ đề tâm là nghĩa làm sao? Là tu ba tâm thái: trực tâm, thâm tâm và
đại bi tâm. Tu có nghĩa là làm sinh khởi, phát triển, trưởng dưỡng, thành thục
và viên mãn ba tâm thái đó.
G ần đây có một số ít người hoặc
là Phật Tử vì muốn dung hoà giáo lý của các tôn giáo khác với Phật Pháp để nói
rằng là Ngoại Đạo cùng Phật Pháp như nhau không khác.
T rong ba vị Thiền sư đã tham gia
trực tiếp vào cuộc chiến tranh năm 981 là Thiền sư Khuông Việt, Vạn Hạnh và
Pháp Thuận, thì hình như Thiền sư Pháp Thuận là người được vua Lê Đại Hành tín
nhiệm và kính trọng nhiều nhất. Sự tình này ta có thể thấy qua việc vua Lê Đại
Hành đã đem vận nước ngắn dài ra để trưng cầu ý kiến của Thiền sư Pháp Thuận.
Phải nói rằng Thiền sư Pháp Thuận đã được tín nhiệm tới một mức độ nào đó, thì
Lê Hoàn mới dám đem vấn đề ấy ra để hỏi. Khi nói đến vận nước, thực tế là nói đến
vận mạng của một triều đại.
Khác với luật pháp thế gian, Giới luật của Phật giáo, được
xây dựng trên từ bi và trí tuệ hiểu biết về nhân quả, nghiệp báo nên có
cả quy định xã hội nhưng chú trọng về mặt Thánh đạo. Do đó, muốn hiểu
giới luật của Phật giáo thì phải biết rõ về định luật nhân quả, nghiệp
báo.
Tất cả chúng ta đều ít nhiều ray rứt về vấn đề : làm thế nào để tìm
thấy sự thanh thản trong lúc sống cũng như khi cái chết xảy đến? Chết
là một hình thức của khổ đau, một thứ kinh nghiệm mà tất cả chúng ta
đều tìm cách tránh né, thế nhưng sớm hay muộn thì cái chết cũng sẽ đến
với mỗi người trong chúng ta.
Không ít những người lãnh đạo các quốc gia, những doanh nhân,
nhân sỹ trí thức có tầm ảnh hưởng lớn đã và đang thực hành giáo pháp
của Đức Phật. Họ là những người tiên phong, dám vượt qua rào cản định
kiến của xã hội, của những học thuyết giáo điều cổ hủ, để chọn và đi
theo lý tưởng cao đẹp của chính mình.
Các tin đã đăng: