Ở đời, phàm những ai biết tha
thứ cho người khác cũng là tha thứ cho chính bản thân mình. Tha thứ cho
một lỗi lầm có khi còn có ý nghĩa hơn nhiều lần khen thưởng cho một
thành tích. Điều kiện cần ở "bao dung" là "quên" chứ không phải là
"nhớ". "Nhớ" không phải dễ, nhưng "quên" càng khó hơn nhiều. Có lẽ trong
lịch sử chưa có thời nào lại có nhiều biểu hiện về "bao dung", "khoan
thứ" như ở thời Trần.
Trong tiến trình phát triển của loài người, Ấn Độ
được biết đến không chỉ là một trong những chiếc nôi của văn minh nhân
loại, mà đó còn là nơi xuất của phật giáo, là tư tưởng, triết lý về thế
giới quan, nhân sinh quan trong thế giới cổ đại Ấn Độ. Tư tưởng, triết
lý ra đời từ mấy nghìn năm trước đó đến nay vẫn còn có ảnh hưởng sâu
rộng ở các dân tộc Á Đông, trong đó có Việt Nam.
Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần với tinh thần tùy
tục, tùy duyên, hòa quang đồng trần, cư trần lạc đạo, nhập thế hành đạo
nên đã sản sinh ra những thiền sư luôn luôn hướng về cuộc sống,
hoà nhập với cuộc đời. Điều này còn cắt nghĩa tại sao ở ta thời
nào cũng có những vị thiền sư tận tuỵ hy sinh cho đất nước, cho
dân tộc và nhiều ngôi chùa lại thờ các vị anh hùng cứu nước,
anh hùng văn hóa.
Trong bối cảnh hội nhập hiện đại, GĐPT rất cần được
sự chỉ đạo và hỗ trợ nhiều hơn nữa của Giáo hội từ Trung Ương đến các
Ban Trị sự tỉnh thành.
Trong lịch sử hình thành Phật giáo Việt Nam nói riêng và Phật giáo châu Á
nói chung, Luy Lâu được coi là trung tâm Phật giáo xuất hiện sớm nhất
trong ba trung tâm Phật giáo thời kỳ khởi thuỷ ở khu vực Đông Á và Đông
Nam Á, sớm hơn cả hai trung tâm Phật giáo khác là Trung tâm Phật giáo
Lạc Dương và Bành Thành của người láng giềng Trung Quốc.
Những xung đột trong quyền lợi chính trị và quan hệ
nhân sinh thể hiện trong vở kịch đã được hóa giải một cách nhẹ nhàng và
đầy tính thuyết phục nhờ sự ảnh hưởng của triết học Phật giáo trong tư
tưởng và hành động của nhân vật, từ vị nữ hoàng mất ngôi của nhà Lý, nhà
vua trẻ tuổi họ Trần phải chứng kiến bao cảnh đau lòng trong hoàng tộc
đến ông lão hiền minh trong dân gian.
Phật giáo được truyền vào Việt Nam bằng hai con đường
là từ Ấn Độ và từ Trung Quốc truyền sang. Vì vậy, Phật giáo Việt Nam
chịu ảnh hưởng của hai nền tư tưởng lớn của Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo
Trung Quốc.
Sự
tích của Vĩnh Nghiêm Tự này, căn cứ theo " Bắc Giang Địa Chí " của
ông Trịnh Như Tấn, hiệu Nhật Nham (Tín Đức Thư Xã xuất bản) tháng 7 năm
1937 viết: Theo tục
truyền trong dân gian địa phương thì chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng lên
từ thời Lý Thái Tổ ( 1010-1028).
Đời Trần, Phật giáo tiếp tục giữ vai trò chủ đạo. Trần Thánh Tông chịu
ảnh hưởng đậm của Thái Tông, thông Phật và Nho, chuẩn bị và giáo dục kỹ
người kế nghiệp là Nhân Tông. Nhân Tông – vị vua giác ngộ Phật pháp, đưa
đến thời kỳ hiển hách nhất đời Trần.
Với sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm trên cơ sở hợp
nhất các thiền phái đã và đang hoạt động vào thời Trần, lần đầu tiên
trong lịch sử Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ, một tổ chức Giáo hội nước
ta ra đời và đi vào hoạt động với tên gọi Giáo hội Trúc Lâm.
Các tin đã đăng: