A. MỞ ĐỀ
Đức Phật Thích
Ca nói pháp gần 50 năm, có đến 84.000 pháp môn, vô lượng diệu nghĩa. Mặc dù
giáo pháp nhiều như thế, nhưng không ngoài ba môn chính là "giới, định,
huệ".
Trong "giới, định,
huệ", thì giới là phần quan trọng, là phần căn bản. Nhờ giới, tâm mới
định, tâm có định, huệ mới phát sanh, huệ có phát sanh mới dứt trừ được vô minh
phiền não; vô minh phiền não có dứt trừ mới minh tâm kiến tánh và thành Phật.
Nhưng giới cũng có nhiều thứ: có thứ cao, thứ thấp, có thứ áp dụng cho hàng
xuất gia, có thứ cho hàng tại gia. Trong hàng xuất gia, thì Sa di chỉ giữ 10
giới, Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ kheo ni đến 348 giới. Về phía tại gia thì có Tam
quy, Ngũ Giới, Bát quan trai giới, Bồ Tát giới, Tam quy Ngũ Giới, thì chúng ta
đã học rồi; Bồ Tát giới thì khó khăn hơn, chúng ta sẽ học sau. Bây giờ đây, chúng
tôi chỉ nói đến Bát quan trai giới.
B. CHÁNH
ĐỀ
I. ĐỊNH
NGHĨA
Bát quan trai
giới là một phép tu hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm (24
giờ).
Chữ "Quan"
là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. Chữ "Trai", tiếng Phạn là
Posadha, nghĩa là khi đã qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn nữa. Vậy
"Bát quan trai giới" là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong
24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi sau đây:
1. Không được
sát sanh
2. Không được trộm
cướp
3. Không được dâm
dục
4. Không được nói
dối
5. Không được uống
rượu
6. Không được
trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát.
7. Không được nằm
ngồi giường cao rộng đẹp đẽ
8. Không được ăn
quá giờ ngọ
II. GIẢI RÕ
TÁM ĐIỀU RĂN CẤM NÓI TRÊN
1. Không
được sát sanh
a) Ý nghĩa
vì sao không được sát sanh:
Chúng sanh mặc
dù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có một điểm quan trọng giống nhau là tham
sống, sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa xôi, ngay
trong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng nhận thấy: cá thấy người cá lội xa,
chim thấy người chim bay cao, cũng như người thấy cọp người lẩn trốn, vì đều sợ
lâm nguy đến tính mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay người đều vùng vẫy để trốn thoát.
Và khi được thả ra, thoát chết, chao ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Nhận thấy
được sự tham sống sợ chết, nối vui mừng, đau xót của muôn loại như thế, mà
chúng ta còn đang tâm giết hại sanh mạng, thì thật là nhẫn tâm, tàn ác vô
cùng.
Từ trước đến
nay, loài người đã giết hại rất nhiều, bằng đủ phương tiện, nào làm lưới để bắt
cá dưới nước, dùng cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất...và nhất là dùng
đủ mưu mô kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau. Về phía thiện, thì có nhiều
người cũng thiện vô cùng; nhưng về phía ác, thì cũng nhiều người ác vô
cùng.
Chúng ta là
Phật tử, nghĩa là những người theo đạo Từ bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừng
sát hại sinh vật và nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người, trong Ngũ Giới
Phật đã tuyệt đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã phát nguyện giữ giới ấy. Nhưng
về sinh vật, vì một số Phật tử còn ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới sát.
Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hãy tuyệt đối giữ giới ấy.
Chúng ta không giết người, không trù tính mưu mô giết người, đã đành ! Chúng ta
cũng nên động lòng trước sanh mạng của tất cả mọi loài hữu hình. Hơn nữa, nếu
thấy ai có ý giết hại sinh vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn cản đừng cho
người ta thi hành ác ý ấy.
Được như thế là
ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ
lớn lao vô cùng cho việc tu hành của chúng ta.
2. Không
được trộm cướp
Hai chữ trộm
cướp ở đây có một ý nghĩa vô cùng. Những vật thuộc quyền sở hữu của người ta,
từ vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ,
cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. Lường thăng tráo đấu,
đo thiếu lấy thừa, đi làm trễ giờ, bóc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ,
được của người không trả lại, đều là trộm cướp.
Người đời coi
tiền của hơn tánh mạng, trèo non, lặn suối, lo mưu này tính kế nọ để làm ra
tiền nuôi thân và gia đình, và để dành dụm phòng khi đau ốm, tai nạn. Nếu rủi
bị mất tiền của do mồ hôi nước mắt mà có, người ta vô cùng đau khổ, tuyệt vọng
có khi đến quyên sinh. Chúng ta cũng đã có nhiều khi đau buồn vì mất của, thì
xét người khác cũng vậy. Chúng ta không muốn ai trộm cướp của mình, thì tất
nhiên mình cũng không nên trộm cướp của ai. Đó là lẽ công bằng rất giản dị.
Huống chi chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người quyết tâm diệt trừ tham
dục, để được giải thoát, thì lẽ nào ta lại lấy của phi nghĩa?
Trong cuộc đời
tranh đấu hằng ngày để sống, có nhiều khi chúng ta không giữ được một cách
tuyệt đối giới cấm này, chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đòi lương cho cao, bán
hàng xấu với gía cao, mưu tính chước này kế nọ để được lợi nhiều một cách thiếu
chính đáng...Có khi chúng ta nhận thấy như thế là bất chính, nhưng tự bào chữa
rằng vì sự sống của gia đình, thân thuộc mà phải làm như thế.
Nhưng trong
ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy quyết không trộm cướp đã đành, mà
cũng không được để cho một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Chúng ta không
trộm cướp, không nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai trộm cuớp hay nẩy ra ý trộm
cướp thì chúng ta cũng khuyên can họ, ngăn ngừa không cho họ làm bậy. Không
những không trộm cướp và ngăn ngừa sự trộm cướp mà thôi, chúng ta còn bố thí cho
những người nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, tìm cách giúp đỡ những người thân
thuộc, trong cảnh túng thiếu.
Giữ được giới
này một cách tuyệt đối, thì dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ đồng hồ, chúng
ta cũng đã gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của chúng ta.
3. Không
được dâm dục
Dâm dục là cái
nghiệp nhơn sanh tử luân hồi, nên người xuất gia phải đoạn hẳn. Phật dạy rằng:
"Người muốn đoạn trừ sanh tử, chứng quả Niết bàn mà không trừ hẳn dâm dục,
thì không khác kẻ nấu cát sạn mà muốn cho thành cơm, dù ra công đem nấu, trải
qua năm ngàn kiếp cũng không thành cơm được".
Vậy những Phật
tử xuất gia, muốn thành Phật quả thì phải trừ dâm dục.
Còn những Phật
tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoạn trừ dâm dục được, thì Phật chỉ cấm tà
dâm, nghĩa là ngoài vợ chồng, không được lan chạ; và giữa vợ chồng, cũng cần
phải giữ chánh lễ, biết tiết dục để cho thân tâm được trong sạch nhẹ
nhàng.
Nhưng đây là
nói về ngày thường của Phật tử tại gia. Chứ đến ngày thọ Bát quan trai giới,
thì tuyệt đối phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục đã đành, mà
cũng không được nhớ nghĩ đến những điều dâm dục.
Nếu triệt để
giữ đúng giới này, thì dù chỉ trong 24 giờ đồng hồ, lợi ích cũng rộng lớn vô
cùng, vì chúng ta đã có dịp để gieo nhơn tịnh hạnh là một nhơn rất quý báu
trong sự tu hành diệt dục.
4. Không
được nói dối
Nói dối là tâm
nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 cách, mà chúng ta đã có học rồi trong
bài Ngũ Giới. Đó là: nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời
hung ác.
Chúng ta đã
thấy, hằng ngày trong đời, tai hại của sự nói dối. Tai hại lớn nhất là làm mất
lòng tin cậy nhau. Trong một gia đình mà không tin nhau, thì gia đình sẽ tan
nát; trong một xã hội mà không tin nhau, thì xã hội sẽ điêu tàn.
Trong đời sống
hằng ngày chúng ta chưa có thể hoàn toàn giữ giới này được, thì trong ngày thọ
Bát quan trai giới, chúng ta hãy triệt để thực hành giới cấm này. Chúng ta
không nói sai, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không nói lời hung ác
đã đành; chúng ta lại còn khuyên răn những người chung quanh giữ đúng giới
không nói láo ấy !
Nếu thực hành
triệt để giới cấm này, thì dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieo
được một hột nhơn quý báu rất hiếm có trong đời này là: lòng chân thật.
5. Không
được uống rượu
Rượu làm say
mê, tối tăm trí não người uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc độc, vì thuốc độc
uống vào chết ngay, song chỉ giết chết một đời người thôi; chớ rượu làm cho người
cuồng tâm, mất trí, gây nên nhièu tội lỗi, chết đi sanh lại, luân hồi nhiều
kiếp trong tối tăm si ám.
Bởi thế, trong
Kinh, Phật dạy: "Thà uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ không
nên uống rượu".
Chúng ta là
Phật tử , nghĩa là những người đang trau dồi Trí tuệ để được sáng suốt như
Phật, chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu đã đành, mà cũng không
khuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội còn nhẹ, chớ khuyên mời người
khác uống, tội lại nặng hơn.
Song, trong lúc
đau ốm, nếu lương y bảo phải có rượu hòa với thuốc uống mới lành bệnh, thì
chúng ta cũng được tạm dùng, Khi đó rượu trở thành một vị thuốc, chứ không phải
là một vị làm cho trí não ta cuồng loạn nữa.
Đấy là nói về
ngày thường, chứ trong ngày thọ "Bát quan trai giới", chúng ta phải
trừ tuyệt rượu, không được uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đừng uống
nữa.
6. Không
được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và đi xem
Năm giác quan:
tai, mắt, mũi, lưỡi, thân là năm cửa ngõ, có thể mở đường cho chúng ta đến cảnh
giới Niết Bàn, hay vào địa ngục. Nếu chúng ta biết mở năm cánh cửa ấy về nẻo thanh
tịnh, nghe những lời hay lẽ phải, thấy những điều thiện, điều lành, ngửi những
mùi thơm tinh khiết, đạo vị, thì con đường đến Niết Bàn, giải thoát không xa.
Trái lại, nếu chúng ta hướng những cánh cửa giác quan ấy vào cõi ô trọc, mở
rộng chúng cho tội lỗi ùa vào, nào nghe tiếng du dương luyến ái của dục vọng,
thấy cảnh trụy lạc, dâm ô, ngửi mùi vị say nồng, kích thích dục lạc, thì con
đường địa ngục đã sẵn sàng mở rộng để đón chờ chúng ta.
Phật cấm Phật
tử trang điểm, tô sơn trét phấn, xức ướp dầu thơm, múa hát lả lơi, quyến rũ,
hay cấm đi xem những cảnh múa hát ấy, là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa vào địa ngục.
Nhưng trong đời
sống hằng ngày của người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội,
nên phải ăn mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những buổi hòa
nhạc, hay múa hát, miễn là những thứ âm nhạc, những điệu múa hát ấy có tánh
cách trong sạch, xây dựng và hướng thiện. Nhưng trong hiện tại, các thứ nghệ
thuật: kịch nhạc, ca, vũ, cải lương, chiếu bóng..phần nhiều có tánh cách trụy lạc,
thoái hóa, chúng ta nên đề phòng, đừng quá dễ dãi mà sa vào vòng tội lỗi.
Trên đây là nói
trong ngày thường, chứ ngày thọ giới Bát quan trai, chúng ta nhất định không
được trang điểm, xức ướp dầu thơm, múa hát hay đi xem múa hát. Hơn nữa, chúng
ta phải cố gắng diệt trừ những âm hưởng, bóng dáng của những thứ nghệ thuật
không lành mạnh, trong đầu óc chúng ta.
Đưọc như thế,
thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng quý
báu cho sự tu hành của chúng ta.
7. Không
được nằm ngồi giường cao đẹp, rộng lớn
Điều răn cấm
này cũng như điều răn cấm thứ sáu, có mục đích ngăn ngừa thân xác ta, không cho
buông lung theo những cảm giác mơn trớn khoái lạc của giường cao nệm tốt, chăn
ấm màn êm. Vì những cảm giác này có thể kích thích lòng ham muốn bất chính của
xác thân, tạo điều kiện cho chúng ta gây tội lỗi, nên Phật chế ra giới cấm này.
Xưa Ngài Ngộ Đạt Quốc sư là một bực cao đức, được vua Ý Tôn và vua Hy Tôn hết
sức ưu đãi. Vua Ý Tôn cúng cho Ngài một bảo tọa bằng trầm hương rất quý báu. Từ
khi được bảo tọa ấy, Ngộ Đạt Quốc Sư mống niêm danh lợi, thành ra thất đức, phải
chịu nhiều tai vạ và đau khổ.
Vì hiểu rõ cái
tai hại của giường cao chiếu rộng, chăn ấm nệm êm, nên xưa Ngài Hiếp Tôn Giả từ
khi xuất gia, lưng không nằm chiếu; Ngài Cao Phong Diệu thiền sư lập nguyện: ba
năm không nằm giường chõng; đức Phật Thích Ca , trong khi xuất gia tìm đạo, đã
gối cỏ nằm sương, từ năm này sang năm khác...
Noi gương người
xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ không
bao giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức tánh giản dị
đạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường, thì ngày thọ giới Bát quan
trai, cũng phải triệt để thi hành giới thứ bảy này.
8. Không
được ăn quá giờ ngọ
Trong luật Phật
dạy: "Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ
quỷ ăn tối, chư Tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ ngọ".
Ăn đúng giờ
ngọ, được năm điều lợi sau đây:
Ít mống tâm sai
quấy
Ít buồn ngủ
Dễ được nhất
tâm
Ít hạ phong
Thân được yên ổn
và ít sanh bệnh.
Trừ một vài
trường hợp như khi đau ốm, luật cũng châm chước cho được ăn cơm cháo sau giờ
ngọ, nhưng khi ăn phải sanh lòng hổ thẹn.
Vì những lợi
ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. Còn Phật tử tại
gia, khi tu Bát quan trai giới cũng phải giữ đúng giới này.
C. KẾT
LUẬN
1. Lợi ích
của Bát quan trai giới rất lớn lao
Như chúng ta đã
thấy ở các đoạn trên, Bát quan trai giới là một pháp tu vô cùng lợi ích cho
Phật tử tại gia. Trong thời gian tu hành ấy, thân, khẩu, ý của người thọ giới
được hoàn toàn thạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quý
báu hơn cả một đời của người không tu hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều
vô cùng. Nó chỉ là giọt nước, nhưng là một giọt nước trong sạch hoàn toàn, cho
nên nó còn quý hơn cả một ao nước đục bùn nhơ, nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu,
nhưng đó là viên ngọc Ma ni, nên nó còn quý hơn trăm ngàn châu báu khác.
Chúng ta hãy
phân tích một cách rõ ràng những lợi ích mà chúng ta đã thâu hoạch được trong
24 giờ ấy mà xem.
Nhờ giới thứ
Nhất, tâm ta không có ác ý giết hại sanh vật, miệng ta không nhai nuốt những
máu huyết tanh hôi, thân ta không nặng nề vì thịt cá. Đối với chung quanh, ta
không làm cho người và súc vật đau khỏ, mất thân mạng.
Nhờ giới thứ
Hai, tâm ta không động, ý ta không tham lam, thân ta không mang nặng những vật
phi nghĩa. Đối với người chung quanh, ta không làm họ đau khổ vì mất của cải mà
họ đã nâng niu, quý trọng.
Nhờ giới thứ
Ba, tâm ta được thanh tịnh, thân ta khỏi ô uế. Đối với người bạn trăm năm, cùng
những người chung quanh, ta giữ đúng lề, làm cho họ kính trọng.
Nhờ giới thứ
Tư, tâm ta không tà vạy, lưỡi ta không dối trá, điêu ngoa. Đối với người chung
quanh, ta giữ được chữ tín, làm mọi người khỏi lo sợ, nghi ngờ vì ta.
Nhờ giới thứ
Năm, tâm ta được minh mẫn, miệng ta không nồng nặc hơi men, thân ta không loạn
động. Đối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải lo sợ, khổ sở vì con
ma men này hành hạ.
Nhờ giới thứ
Sáu, tâm ta không buông lung theo dục lạc ta không dung chứa những hình ảnh,
mùi vị, âm thanh tà tạp, dâm ô...Đối với người chung quanh, ta không làm cho họ
phải tập nhiễm những cảm giác không trong sạch, không thanh thoát.
Nhờ giới thứ
Bảy, tâm ta không mống lên những niệm danh lợi, xa hoa; thân ta không bị dục
lạc lôi cuốn. Đối với người chung quanh, ta dễ gần gũi, thân cận, vì không bị
cái cao sang, phù phiếm bên ngoài ngăn cách.
Nhờ giới thứ
Tám, tâm ta được định tỉnh, sáng suốt, thân ta nhẹ nhàng, ít bệnh tật; đối với
các loài chung quanh, như người nghèo đói, ngạ quỷ, súc sinh, ta không gây ra
sự thèm khát, vì sự lục lạo ăn uống về đêm.
Bao nhiêu sự
lợi ích cho mình và cho người mà chúng ta đã thâu thập được trong khoảng 24 giờ
đồng hồ, thử hỏi có một pháp tu hành của người tại gia nào quý báu hơn thế
nữa?
2. Bởi vậy
Phật tử nên thực hành Bát quan trai giới
Phật tử tại gia
mặc dù suốt ngày suốt tháng bận bịu về sinh kế làm ăn, mỗi tháng cũng nên sắp
xếp việc nhà, vào chùa thọ Bát quan trai giới một vài lần. Nếu hoàn cảnh thuận lợi,
có thể thọ được nhiều lần lại càng tốt.
Nếu không đủ
điều kiện đến chùa, thì phương tiện của nhà tu cũng được, nhưng lợi ích không
bằng đến chùa.
Vậy xin khuyên
các Phật tử tại gia, nên cố gắng thực hành y như lời Phật dạy, tu theo hạnh
giải thoát, rồi khuyên nhiều người thực hành theo, để cùng nhau tiến bước lên
đường giải thoát, an vui.
________________________________________
NGHI THỨC THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI
Theo phép thọ
Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới
thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất
nhiều.
Ngoài trường
hợp trên, nếu không có thuận tiện để cầu thầy truyền cho, thì phương tiện tự
mình đối trước tượng Phật , theo phép như sau đây mà tự thọ.
Một điều cốt
yếu, trước khi thọ giới, giới tủ phải sắp đặt chuyện nhà có người thay thế,
không còn lo nghĩ việc gì ở thế gian cả, để cho tâm trí yên tịnh, như thế thì 24
giờ thọ giới mới được nhiều lợi ích. Muốn được lợi ích nhiều, giới tủ nên vào
chùa thọ Bát quan trai giới tốt hơn.
Trước khi thọ
giới, phải rửa tay,rửa mặt, súc miệng sạch sẽ, mặc áo tràng tề chỉnh, đến trước
bàn thờ Phật , thắp ba cây hương rồi quì xuống, đọc bài cúng hương:
BÀI CÚNG
HƯƠNG
Nguyện thử diệu
hương vân
Biến mãn thập
phương giới
Cúng dường nhứt
thiết Phật
Tôn Pháp chư Bồ
Tát
Vô biên Thinh Văn
chúng
Cập nhứt thiết
Thánh Hiền
Duyên khởi quang
minh đài
Xứng tánh tác Phật
sự
Phổ huân như chúng
sanh
Giai phát Bồ đề
tâm
Viễn ly chư vọng
nghiệp
Viên thành Vô
thượng đạo
(Xá 3 xá, tiếp đọc
bài khẩn nguyện)
BÀI NGUYỆN
Tư thời Đệ tử
(tên họ gì) pháp danh (pháp danh gì) kim nhựt qui đầu Tam Bảo, phát nguyện thọ
trì Bát quan trai giới, nhứt nhựt nhứt dạ. Duy nguyện thập phương chư Phật ,
chư Đại Bồ Tát, Hộ pháp thiện thần, từ bi gia hộ Đệ tử thân tâm thanh tịnh,
Phật sự viên thành.
(Xá đứng dậy
cắm hương xướng lễ)
Nhứt tâm
đảnh lễ,
tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn
Pháp, Hiền Thánh Tăng, Thường trú Tam Bảo (1 lạy).
Nhứt tâm
đảnh lễ
Ta Bà Giáo chủ, Điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật , Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc
Tôn Phật , Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư
Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy).
Nhứt tâm
đảnh lễ
Lạc bang Giáo chủ, Đại từ, Đại Bi tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật , Đại bi Quán
Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bố Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh
Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)
(Đứng dậy chắp
tay tụng bài Đại bi)
Nam mô Đại bi
hội thượng Phật Bồ Tát. (3 lần).
Thiên thủ
thiên nhãn vô ngại Đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra
đác na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thước bà ra da, bồ đề tát
đóa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da.
Án tát bàn ra
phạt duệ, số đát na đác tả. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết
đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra
cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tất bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà
tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca
ra đế. di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê,
rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da
đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra mục
đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm,
Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị,
tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì,
địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta
bà ha. Tất đà dủ nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra
na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê gia ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ,
ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na
ra cẩn trì bàn dà ra dạ ta bà ha. Ma bà lợi thắng kiết ra dạ ta bà ha.
Nam mô hắc ra
đát na, đa ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thướt bàn ra dạ ta bà ha.
Án tát diện đô mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha.
Nam mô thập
phương thường trụ Tam Bảo (3 lần).
(Quì xuống chắp
tay đọc bài Sám hối )
BÀI SÁM HỐI
Đệ tử đã làm
các nghiệp ác,
Đều do vô thỉ
Tham, Sân, Si,
Từ thân, miệng, ý
mà sanh ra
Tất cả Đệ tử xin
sám hối.
(Đọc 3 lần rồi
đứng dậy)
Nam mô Cầu sám
hối Bồ Tát Ma ha tát (3 lần, lạy 3 lạy)
(Lạy xong quì
xuống chắp tay đọc bài phát nguyện thọ Bát quan trai giới)
BÀI PHÁT
NGUYỆN THỌ GIỚI
MỘT LÀ GIỮ
GIỚI KHÔNG SÁT SANH
Đệ tử thề trọn một
ngày đêm nay, nguyện giữ giới không sát hại các loài sanh vật. Tự mình không
sát hại, không bảo người sát hại, hoặc thấy người khác sát hại cũng không sanh
tâm vui mừng. (1 xá)
HAI LÀ
NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TRỘM CƯỚP
Đệ tử thề trọn một
ngày đêm nay, nguyện giữ giới không trộm cướp của cải mọi người. Tự mình không
trộm cướp, không bảo người trộm cướp, hoặc thấy người khác trộm cướp, cũng
không sanh tâm vui mừng. (1 xá)
BA LÀ NGUYỆN
GIỮ GIỚI KHÔNG DÂM DỤC
Đệ tử thề trọn một
ngày đêm nay, nguyện giữ giới không phá phạm hạnh (không dâm dục). Tự mình
không phá phạm hạnh, không bảo người phá phạm hạnh, hoặc thấy người khác phá
phạm hạnh cũng không sanh tâm vui mừng.(1 xá)
BỐN LÀ
NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NÓI DỐI
Đệ tử thề trọn một
ngày đêm nay, nguyện giữ giới không nói dối. Tự mình không nói dối, không bảo
người nói dối, hoặc thấy người khác nói dối, cũng không sanh tâm vui mừng. (1
xá)
NĂM LÀ
NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG UỐNG RƯỢU
Đệ tử thề trọn một
ngày đêm nay, nguyện giữ giới không uống rượu. Tự mình không uống rượu, không
bảo người uống rượu, hoặc thấy người khác uống rượu, cũng không sanh tâm vui
mừng. (1 xá)
SÁU LÀ
NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TRANG ĐIỂM VÀ CA HÁT
Đệ tử thề trọn một
ngày đêm nay, nguyện giữ giới không đeo bông, xoa hương, ca xướng, múa hát. Tự
mình không trang điểm ca hát, không bảo người trang điểm ca hát, hoặc thấy
người khác trang điểm ca hát, cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá)
BẢY LÀ
NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NẰM NGỒI GIƯỜNG CAO TỐT
Đệ tử thề trọn một
ngày đêm nay, nguyện giữ giới không nằm ngồi giường cao tốt. Tự mình không nằm
ngồi giường cao tốt, không bảo người nằm ngồi giường cao tốt, hoặc thấy người
khác nằm ngồi giường cao tốt, cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá)
TÁM LÀ
NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG ĂN PHI THỜI
Đệ tử thề trọn một
ngày đêm nay, nguyện giữ giới không ăn phi thời. Tự mình không ăn phi thời,
không bảo người ăn phi thời, hoặc thấy người khác ăn phi thời, cũng không sanh tâm
vui mừng. (1 xá)
(Đứng dậy xướng
ba lần)
Ma ha Bát
nhã Ba la Mật đa Tâm kinh
Quán Tự Tại Bồ
Tát, hành thâm Bát nhã Ba la Mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ
nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử, Sắc
bất dị không , không bất dị sắc, sắc tức thị không , không tức thị sắc; thọ,
tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị
chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt,
thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức
giới; vô Vô minh diệc, vô Vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận;
vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa y
Bát nhã Ba la mật đa cố Tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố,
viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba
la mật đa cố đắc A Nậu Đa la Tam miệu tam Bồ đề.
Cố tri bát nhã
Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô
đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư:
Cố thuyết Bát
nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: "Yết đế yết đế, Ba la yết đế,
Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha".
VÃNG SANH
THẦN CHÚ
Nam mô A di đa
bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệc dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà
tỳ, a di rị đa tỳ can lan đế, a di rị đa tỳ can lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ
đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)
TIÊU TAI
KIẾT TƯỜNG THẦN CHÚ
Nẳng mồ tam mãn
đa mẫu đà nẩm. A bát ra đề, hạ đa xá ta nản nẩm, đác điệc tha. Án khê khê, khê
hế, khê hê, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra
nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn
tra, phiến đề ca, thất rị duệ, ta bà ha. (3 lần)
HỒI HƯỚNG
Thọ giới công
đức thù thắng hạnh,
Vô biên thẳng
phước giai hồi hướng,
Phổ nguyện pháp
giới chư chúng sanh,
Tốc vãng Vô lượng
quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam
chướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí huệ
chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội
chướng tất tiêu trừ,
Thế thế thường
hành Bồ Tát đạo.
Nguyện sanh Tây
phương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm liên hoa
vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật
ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ Tát vi
bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công
đức,
Phổ cập ư nhứt
thiết,
Ngã đẳng giữ chúng
sanh,
Giai cọng thành
Phật đạo.
Tự quy y Phật ,
đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.( 1 lạy)
Tự quy y Pháp ,
đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy y Tăng ,
đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy).
________________________________________
NGHI THỨC THỌ TRAI
Ngồi tề chỉnh ,
tay trái co ngón giữa, ngón áp, còn ba ngón dựng thẳng, để chén cơm lên; tay
mặt kiết ấn cam lồ (ngón cái bên tay phải đề lên ngón áp) để dựa ngang phía
trong miệng chén rồi xướng:
Cúng dường
Thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
Viên mãn báo thân
Lô Xá Na Phật.
Thiên bá ức hóa
thân Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đương lai hạ sanh
Di Lặc Tôn Phật.
Thập phương tam
thế nhứt thiết chư Phật.
Đại Trí Văn Thù Sư
Lợi Bồ Tát.
Đại Hạnh Phổ Hiền
Bồ Tát.
Đại bi quán thế âm
bồ tát.
Chư Tôn Bồ Tát Ma
ha tát.
Ma ha Bát nhã ba
la mật.
Tam đức, lục
vị, cúng Phật cập Tăng pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường, nhược phạn thực
thời, đương nguyện chúng sanh thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn.
(Cúng dường rồi để
bát xuống)
XUẤT SANH:
Lấy cái chén
nhỏ múc chút nước, để trong lòng bàn tay trái, gắp bảy hột cơm để trong chén;
tay mặt kiết ấn cam lồ, đặt trên chén cách một tấc, mặc niệm:
Pháp luật bất
tư nghì,
Từ bi vô chướng
ngại,
Thất liệp biến
thập phương,
Phổ trí châu sa
giới,
Án, độ lợi ích tóa
ha. (7 lần)
Tay bắt ấn viết
bóng hai chữ "Án lam" rồi khảy móng tay trên chén ba lần, đưa thị giả
đem ra trước, để trên một cái bàn nhỏ, đọc kệ chú:
Đại bàng kim sí
điểu,
Khoáng đã quỉ thần
chúng,
La sát quỉ tử mẫu,
Cam lồ tất sung
mãn.
Án, mục lực lăng
tóa ha. (7 lần)
BƯNG CHÉN
CƠM
Hai tay, mỗi tay
co hai ngón sau, còn sáu ngón bưng chén cơm ngang trán, đọc thầm:
Chấp trì ứng
khí đương nguyện chúng sanh, thành tựu pháp thí thọ thiên nhơn cúng.
Án, chỉ rị, chỉ rị
phạ nhựt ra hồng phấn tra. (3 lần)
TAM ĐỀ
(Ăn ba miếng đầu
tiên)
Miếng thứ nhất
(niệm thầm):
Nguyện đoạn
nhứt thiết ác.
Miếng thứ hai
(niệm thầm)
Nguyện tu nhứt
thiết thiện
Miếng thứ ba (niệm
thầm)
Thệ độ nhứt thế
chúng sanh
Trong khi ăn
phải tưởng năm pháp tướng này:
Nhứt kế công đa
thiểu, lượng bỉ lai xứ.
Nhị thổn kỷ đức
hạnh toàn khuyết ứng cúng.
Tam phòng tâm ly
quá, tham đẳng vi tông.
Tứ chánh sự lương
dược, vị liệu hình khô.
Ngũ vị thành đạo
nghiệp, phương thọ thử thực.
TƯỚC DƯƠNG
CHI
(Ăn cơm xong xỉa
răng đọc chú này)
Tước đương chí
thời, đương nguyện chúng sanh thân tâm đều tịnh, phệ chư phiền não.
Án, a mộ dà di ma
lệ, nhĩ phạ ca ra, tăng du (dad) ? nể, bát đầu na, câu ma ra, nhĩ phạ ca ra
tăng thâu đà da, đà ra đà ra, tố di ma lệ, tá phạ ha (3 lần)
ẨM THỦY KỆ
CHÚ
(Uống nước đọc chú
nầy)
Phật quán nhứt
bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng, nhược bất trì thử chú, như thực chúng sanh
nhục.
Án phạ tất ba ra,
ma ni tá ha. (3 lần)
TRAI KỆ
CHÚ
(Ăn cơm uống nước
xong tụng chú nầy)
Nam mô tát đa
nẩm, tam miệu tam bồ đà, câu chi nẩm, đát điệt tha. Án chiếc lệ, chủ lệ chuẩn
đề ta bà ha. (7 lần)
Sở vị bố thí
giả, tất hoạch kỳ lợi ích, nhược vị lạc bố thí, hậu tất đắc an lạc.
Phạn thực dĩ ngật,
đương nguyện chúng sanh, sở tác giai biện cụ chư Phật Pháp.
PHỤC NGUYỆN
Thân phi nhứt lũ,
thường tư chức nữ chi lao; nhựt thực tam xang, mỗi niệm nông phu chi khổ. Phổ
nguyện hiện tiền tứ chúng phước huệ song tu, một hậu đắc Di Đà thọ ký; âm siêu dương
thới, pháp giới chúng sanh tề thành Phật đạo.
NAM MÔ A DI ĐÀ
PHẬT
________________________________________
NGHI THỨC XẢ BÁT QUAN TRAI GIỚI
Sau 24 giờ đồng
hồ (đúng như giờ thọ giới), người thọ giới thỉnh Giới sư lên chùa ngồi một bên.
Nười thọ giới lạy giới sư một lạy rồi ngồi xuống cháp tay lạy rằng:
"Đại đức
một lòng nghĩ, con pháp danh là...đã nguyện thọ Bát quan trai giới, giữ trọn
một ngày đêm. Bạch Đại đức ! Nay con xin xả giới".
(Bạch xong, lạy
một lạy lui ra)
Nếu không có
giới sư, tự mình làm lễ xả giới thì nên theo nghi thức sau nầy.
Đến trước Tam
Bảo, thắp hương ngùi xuống khẩn nguyện:
Pháp vương Vô
thượng tôn
Tam giới vô luân
thất,
Thiên nhơn chi Đạo
sư,
Tứ sanh chi Từ
phụ,
Ư nhứt niệm quy y,
Năng diệt tam kỳ
nghiệp,
Xưng dương nhược
tán thán,
Ước kiếp mạc năng
tận
Tư thời đệ tử
(tên họ gì) Pháp danh (pháp danh gì) ư nhứt nhựt nhứt dạ, phát nguyện thọ trì
Bát Quan trai giới, công huân dĩ mạn, nguyện lực châu toàn,. Nguyện thập
phương chư Phật, chư đại Bồ tát, chư đại thiên thần, từ bi gia hộ, đệ tử sanh
sanh đắc phùng Phật pháp, đắc trị thiện duyên, cập thiết nhất chúng sanh đồng
thành Phật đạo.
(1xá, đứng dậy)
Nam Mô Hộ giới
tạng bồ tát Ma ha tát (xướng ba lần, lạy ba lạy)
(Đứng dậy tụng
Bát nhã)
Ma ha Bát
nhã Ba la mật đa tâm kinh
Quán tự tại Bồ
tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ
nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử ! Sắc
bất dị không, không bất dị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử ! Thị
chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm,
thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân,
ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới;
vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận vô Khổ,
Tập, Diệt, Đạo; vô Trí diệt vô Đắc, dĩ vô sỡ đắc cố. Bồ Đề tát đỏa y Bát nhã Ba
la mật da cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên
đảo mộng tưởng, cứu cách Niất Bàn. Tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố,
đắc a nậu Đa La tam miệu tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa thị đại thần
chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẵng đẵng chú, năng trừ thiết
nhất khổ, chơn thiệt bất hư; cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú.
Tức thuyết chú
viết: "Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát ba
ha"
VÃNG SANH THẦN
CHÚ
Nam mô A di đa
bà dạ, đa tha đà tha dạ, đa diệc dạ tha, a di rị đô bà tì, a di rị đa tất tam
bà tì, a di rị đa rì ca lan đế, a di rị da tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na,
chỉ đa ca lệ ta bà ha (3 lần)
TÁN PHẬT
A Di Đà Phật
thân kim sắc
Tướng hảo minh
quang vô đẳng luân,
Bạch hào uyển
chuyển ngũ tu Di,
Cám mục trừng danh
tứ đại hải,
Quang trung hóa
Phật vô số ức,
Hóa Bồ tát chúng
diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện
chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh
đăng bỉ ngạn.
Nam Mô Tây
Phương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi, tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà
Phật (108 lần)
Nam Mô Quan Thế Âm
Bồ Tát (10 lần)
Nam Mô Đại thế chí
Bồ tát (10 lần)
Nam Mô Thanh tịnh
Đại Hải Chúng Bồ Tát (10 lần)
(Quỳ xuống chấp
tay đọc bài Phổ Hiển hạnh nguyện)
Đệ tử chúng
đẳng, tùy thuận tu tập,
Phổ Hiền Bồ Tát,
thập chuẩn đại nguyện:
Nhứt giả lễ kính
chư Phật,
Nhị gỉa xưng tán
Như Lai,
Tam giả quản tu
cúng dường,
Tứ giả sám hối
nghiệp chướng
Ngũ giả tùy hỷ công
đức,
Lục giả thỉnh
chuyển pháp luân,
Thất giả thỉnh
Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy
Phật học,
Cửu giả hằng thuận
chúng sanh,
Thập giả phổ giai
hồi hướng.
THẤT PHẬT
DIỆT TỘI CHÔN NGÔN
Ly bà ly bà đế,
cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tùy lê nể đế, ma ha da đế, chơn
lăng càng đế ta bà ha. (3 lần)
Nguyện dĩ thử
công đức
Trang nghiêm Phật
Tịnh Độ,
Thượng báo tứ
trọng ân,
Hạ tế tam đồ khổ,
Nhược hữu kiến văn
giả,
Tất phát Bồ đề
tâm,
Tận thử nhất báo
thân,
Vãng sanh An Lạc
sát.
(Đứng dậy xướng
lạy)
Đệ tử đại vị
nhứt thiết sư trưởng ân, chí tâm đảnh lễ, Nam Mô tận hư không, biến pháp giới,
quá, hiện vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú
Tam Bảo. (1 lạy)
Đệ tử đại vị
nhất thiết Phụ mẫu ân, chí tâm đảnh lễ, Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư
ThíchCa MâuNi Phật, Long Hoa Giáo chủ Đương Lai Hạ sangh Di Lạc Tôn Phật, Đại trí
Văn thù Sư Lơị Bồ tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Đệ tử đại vị
tam đồ thọ khổ; cập pháp giới nhứt thiết chúng sanh, chí tâm đảnh lễ , Nam mô
Tây phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đại Bi
Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát. (1 lạy).
(xá 3 xá, lui)
________________________________________
KỶ LUẬT TU BÁT QUAN TRAI GIỚI TRONG 24
GIỜ
1. Không được
ra ngoài phạm vi đại giới (trong vườn chùa, hoặc vườn nhà mình)
2. Không nên tiếp
khách và nói chuyện lớn tiếng.
3. Bớt nói chuyện,
không ăn trầu và hút thuốc.
4. Oai nghi cử chỉ
phải giữ gìn cẩn thận.
5. Phải giữ đúng
giờ tu tập.
6. Không nên nghĩ
đến việc nhà hoặc việc thế tục.
7. Phải nhứt tâm
niệm Phật.
Những ngày thọ
Bát Quan Trai giới, tùy theo hoàn cảnh của mỗi người, trong mỗi tháng thọ 1
ngày cho đến sáu ngày: mồng 8, 14, 23, 29, 30 (tháng thiếu thì 28 và 29). Nếu
người mắc làm việc thì thọ ngày chủ nhựt cũng được. Nếu Phật tử mỗi lần phát
nguyện tu trong 24 giờ, giữ trai giới cho thanh tịnh thì công đức ấy về sau sẽ
được quả Niết Bàn.
________________________________________
CHƯƠNG TRÌNH TU BÁT QUAN TRAI GIỚI
TRONG MỘT
NGÀY MỘT ĐÊM (24 GIỜ)
BUỔI MAI : 6
giờ sáng Thọ giới
BUỔI MAI : 7 giờ
Ăn điểm tâm
BUỔI MAI : 8 giờ
Sám hối
BUỔI MAI : 9 giờ
Xem Kinh
BUỔI MAI : 10 giờ
Niệm Phật
BUỔI MAI : 12 giờ
Thọ Trai
BUỔI MAI : 12 giờ
30 Kinh hành niệm Phật
BUỔI CHIỀU : 1
giờ 30 Chỉ tịnh (nghỉ)
BUỔI CHIỀU : 3 giờ
Tụng Kinh
BUỔI CHIỀU : 4 giờ
Xem Kinh
BUỔI CHIỀU : 5 giờ
Niệm Phật
BUỔI CHIỀU : 6 giờ
Dùng nước (sữa hoặc nước cháo)
BUỔI TỐI : 7
giờ Tịnh độ
BUỔI TỐI : 8 giờ
Học
BUỔI TỐI : 10 giờ
15 Quán sổ túc
BUỔI TỐI : 10 giờ
40 Nghỉ
BUỔI TỐI : 4 giờ
khuya Tịnh Niệm (Niệm Phật )
BUỔI TỐI : 4 giờ
30 Công phu
BUỔI TỐI : 6 giờ
Làm lễ xả giới