--- o0o ---
Hằng
năm, vào ngày lễ
Phật đản, Phật tử Thiền viện Vạn Hạnh cùng bè bạn thân hữu đều tập hợp
tại nơi
giảng đường này, đảnh lễ cúng dường đức Phật, và nghe chúng tôi thuyết
giảng về
những lời đức Phật dạy.
Mấy năm nay, chúng tôi tranh thủ thuyết giảng nhiều về chủ đề
đạo đức Phật giáo. Tháng ba vừa rồi vào hai ngày mười và mười một, cũng
tại nơi
đây, Viện Nghiên cứu Phật học đã tổ chức cuộc hội thảo quốc tế, với chủ
đề: Đạo
đức Phật giáo trong thời hiện đại.
Cuộc hội thảo, ngoài phái đoàn các giáo sư từ nước Cộng hòa
Liên Bang Đức đến, còn quy tụ đông đảo quý vị Hòa thượng, Thượng tọa,
Đại đức,
Phật tử, quý vị giáo sư, các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà hoạt động
chính
trị và xã hội có tên tuổi. Bế mạc cuộc hội thảo, chúng tôi đã khẳng định
một
chân lý, tuy được đức Phật chúng ta tuyên bố cách đây hơn hai nghìn rưỡi
năm,
nhưng đến nay vẫn mang đầy đủ tất cả giá trị hiện thực của nó.
Chân lý đó là: Sống đạo đức là sống an lạc và hạnh phúc.
Đức Phật còn nói cụ thể hơn nữa:
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập
điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn,
vui vẻ,
của cải dồi dào, uy tín đầy đủ". (Trường A Hàm Kinh Chuyển luân vương
tu
hành)
Kính thưa quý vị!
Đối với chúng ta, những người Phật tử, xuất gia hay tại gia,
tu tập điều thiện, chính là giữ giới. Đối với người tại
gia, là
giữ năm giới và đối với người xuất gia, là giữ mười giới, 250 giới, hay
hơn nữa.
Nhưng đối với toàn thể những người Phật tử tại gia hay xuất gia, năm
giới là căn bản, là mức đạo đức tối thiểu cho một con
người,
dù là Phật tử hay không, sống xứng đáng là con người, có nhân cách, có
nhân
phẩm.
Năm giới Phật giáo là chuẩn mức đạo đức cho loài người nói
chung, giá trị phổ biến của chúng, giá trị toàn cầu của chúng được các
nhà đạo
đức học, triết học, xã hội học trên thế giới công nhận.
Đáng chú ý nhất là sự đánh giá của Albert Schweitzer, nhà Ấn
Độ học người Đức. Ông viết: "Đức Phật đã sáng tạo ra một nền đạo đức nội
tâm
hoàn thiện nhất, và trong lĩnh vực này, đức Phật đã nói lên những chân
lý đạo
đức có giá trị bất hủ, nền đạo đức không phải của riêng đất nước Ấn Độ
mà của cả
loài người nói chung. Đức Phật là một trong những nhà đạo đức học vĩ đại
nhất,
kỳ tài nhất mà thế giới có được". (Albert Schweitzer - Indian thought
and its
development. trg 117 - Tư tưởng Ấn Độ và sự phát triển của nó).
Trước khi giảng thuyết cụ thể về năm giới chúng tôi muốn điểm
sơ qua về một vài lợi ích thiết thực của một cuộc sống theo đúng năm
giới trong
thời hiện nay.
Lợi ích của năm giới trong
cuộc sống hiện tại
Người sống thiện, giữ năm giới không bao giờ cảm thấy gánh
nặng của sợ hãi và hổ thẹn. Trái lại gánh nặng này đè lên tâm của người
ác,
người phá năm giới suốt ngày đêm, khiến anh ta ăn không ngon, ngủ không
yên...
Người sống thiện, giữ năm giới thường có vị trí xứng đáng trong xã hội,
có uy
tín và tiếng tăm, đến tham dự cuộc hội họp nào cũng với thái độ tự tin
và đường
hoàng. Trái lại, người sống ác, phá năm giới vì mất lòng tin cậy của mọi
người
cho nên không thể được xã hội giao những vị trí xứng đáng, tiếng xấu đồn
xa, đến
dự cuộc hội họp nào cũng với thái độ sợ hãi và thiếu tự tin.
Người sống thiện giữ năm giới, sống và làm việc một cách sáng
tạo và vui vẻ, hòa hợp với mọi người gần hay xa. Trái lại, người sống
ác, phá
năm giới, vì bị lương tâm thường xuyên cắn rứt, bao giờ cũng thấy lo
lắng sợ
hãi, do đó không thể sống vui vẻ sáng tạo.
Người sống thiện, giữ đúng năm giới có cái chết bình thản và
tỉnh táo, vì khi gần chết thường hồi tưởng lại những việc thiện mình
thường
xuyên làm trong đời, hồi tưởng lại những người mình đã từng giúp đỡ,
nghĩ tới
Phật, Pháp, Tăng là Tam Bảo, ba của báu luôn luôn hướng dẫn mình trong
cuộc sống
thiện và hướng thượng. Những người sống thiện và giữ năm giới như vậy,
chắc chắn
là sau khi chết sẽ được tái sinh vào các cõi lành.
Trái lại người sống ác, phá năm giới không những sống lo âu
mà cũng chết trong tâm trạng sợ hãi và mê muội. Anh ta, một cách không
có ý
thức, hồi tưởng lại những việc ác làm trong đời, hình ảnh những người mà
anh đã
giết hoặc đối xử tàn nhẫn, và cũng với tâm trạng sợ hãi và lo âu đó, anh
ta qua
đời tái sanh vào các cõi ác, như súc sanh, quỷ đói và địa ngục. (Xem
Tăng chi II
trg 211)
Cuốn "Maha Dhammapala Jataka" (Jatakas Tập 4., trg 50,
Bản Anh) kể chuyện thanh niên Dhammapala ngạc nhiên vì thấy con trai
thầy giáo
mình chết đột nhiên, khi còn nhỏ tuổi. Thầy giáo hỏi vì sao anh ngạc
nhiên, thì
anh trả lời là trong gia đình anh, mọi người đều sống thọ và chết già.
Thầy giáo muốn kiểm tra lời học trò mình có nói đúng hay
không, bèn tranh thủ đi thăm gia đình của Dhammapala, vốn ở xa, và báo
tin cho
cha Dhammapala rằng Dhammapala đã chết đột ngột. Người cha cười và nói
rằng
trong gia đình ông không có người nào chết lúc nhỏ tuổi cả, vì từ bảy
đời nay,
gia đình ông sống theo đúng năm giới, và chính nhờ sống
theo năm
giới mà mọi người trong họ ông từ bảy đời, đều sống thọ và chết lúc tuổi
già.
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Đó là lời Đức Phật dạy,
mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Đông khẳng định.
Chúng ta
những người hậu thế, không nên vội chê bai là mê tín. Hiện nay, khoa học
y tế
hiện đại phát hiện rằng, tế bào con người rất nhạy cảm với nếp sống đạo
đức hay
là phi đạo đức. Chính cuộc sống phi đạo đức làm yếu các tế bào bạch
huyết cầu,
khiến cho những tế bào đó bị yếu đi, không đủ sức bảo vệ cơ thể, vì vậy
cơ thể
dễ lâm bệnh. Hệ thần kinh, bị những hành động và tư tưởng ác, bất thiện
làm cho
mất thăng bằng, không đủ sức điều khiển sự phát triển lành mạnh của các
tế bào.
Từ đó sinh ra các tế bào ung thư, mà sự phát triển vô tổ chức, tạo ra
những khối
u ác tính. Đồng thời, những tình cảm ác, bất thiện kèm theo sự lo âu, sợ
hãi,
lương tâm cắn rứt v.v... kích thích các tuyết nội tiết bài tiết vào
trong máu đủ
các thứ chất độc. Trong khi những tình cảm thiện, tư tưởng thiện lại
kích thích
các tuyến nội tiết bài tiết vào trong máu nhiều chất bổ làm cho toàn cơ
thể khỏe
mạnh, tinh thần sảng khoái.
Đó là những phát hiện và khẳng định của khoa Y học hiện đại,
cho chúng ta thấy mối liên quan trực tiếp giữa cuộc sống đạo đức và sức
khỏe của
cơ thể con người. Một sự liên quan mà các nhà minh triết phương Đông đã
nói tới,
cách đây hàng mấy nghìn năm.
Có thể khẳng định, theo cuốn Dhammapala Jataka, là cuộc sống
thiện, giữ đúng năm giới của đạo Phật, có thể giúp cho con người sống
thọ, khỏe
mạnh cả về vật chất cũng như tinh thần.
Đức Phật khẳng định nếu không giữ năm giới, thì người nam cư
sĩ sẽ sống cuộc đời luôn lo âu và sợ hãi. Trái lại, nếu giữ đúng năm
giới thì
người nam cư sĩ không còn lo âu sợ hãi.
"Thành tựu năm pháp này, này các tỷ kheo, nam cư sĩ không còn
sợ hãi. Thế nào là năm?
"Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong
các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu".
Đức Phật còn nói lại ý kiến vừa rồi, dưới hình thức một bài
kệ để chúng ta dễ đọc dễ nhớ:
Ai sát hại sinh linh,
Và nói láo ở đời,
Lấy của cải không cho,
Đi đến vợ người khác,
Và người mãi đắm say,
Uống rượu men rượu nấu,
... Được gọi năm ác giới.
Mạng chung, sanh ác tuệ.
Bị rơi vào địa ngục.
Như chúng ta thấy, sống phá năm giới, Đức Phật gọi là sống
theo năm ác giới, và người đó khi sống thì sống trong sợ hãi, khi chết
thì phải
đọa xuống địa ngục.
Ngược lại, nếu người đó sống theo đúng năm giới, thì khi sống
đã không lo âu sợ hãi, mà sau khi chết, sẽ được sanh lên các cõi lành:
"Ai không hại sanh linh,
Không nói láo ở đời,
Không lấy của không cho,
Không đi đến vợ người,
Người nào không đắm say
Rượu men và rượu nấu,
... Được gọi là có giới,
Mạng chung sanh trí tuệ,
Được sanh lên cõi lành. (Tăng Chi II, 210, 211)
Trong 49 năm thuyết pháp, Đức Phật đã dành nhiều thời giờ để
trực tiếp nói chuyện với những gia chủ sống tại gia, có vợ, có con, với
nhiều
tài sản. Đối với những người như vậy, Đức Phật luôn luôn khuyến cáo họ
sống đạo đức, sống thiện, giữ năm giới.
Thí dụ, gia chủ Dighajanu, thuộc bộ tộc Kolya thưa với Đức
Phật rằng: "Bạch Thế Tôn, chúng con là những người gia chủ, hưởng thọ
các dục
vọng, sống ràng buộc với vợ con, dùng các hương chiên đàn ở Kasi, đeo và
dùng
các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, vàng bạc. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy
thuyết
pháp cho những người như chúng con, thuyết như thế nào để những pháp ấy
đem đến
cho chúng con hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại, và hạnh phúc an lạc
cả trong
tương lai". (Tăng Chi III, trg 119)
Đức Phật bèn giảng cho gia chủ Dighajanu về bốn pháp là:
1) Sống đầy đủ tháo vát, tức là làm thật giỏi, thật
thiện xảo nghề nghiệp của mình.
2) Biết giữ gìn tài sản do nghề nghiệp lương thiện làm
ra, không để mất mát, lãng phí.
3) Được nuôi dưỡng và sống có đạo đức. Đức Phật gọi đó là
làm bạn với thiện. Đức Phật nói: Với những người đầy đủ giới đức,
thì học
tập đầy đủ giới đức. Với những người đầy đủ bố thí, thì học tập đầy đủ
bố thí.
Với những người đầy đủ trí tuệ, thì học tập đầy đủ trí tuệ". (Tăng Chi
III, trg
121)
4) Cuối cùng, Phật khuyên gia chủ hãy biết sống một nếp sống
thăng bằng, điều hòa, không đam mê đàn bà, không đam mê rượu
chè,
không đam mê cờ bạc, không giao du với bọn ác". Đức Phật ví bốn điều
cấm
krên đây như bốn cái cửa, nếu mở ra thì tài sản bị thất tán hết, nhưng
biết
đóng lại, tức là: "không đắm say đàn bà, không đắm say rượu chè, không
đắm say
cờ bạc, lại biết giao du với người thiện lành", thì tài sản trong nhà sẽ
ngày
càng dồi dào, phong phú. (Tăng Chi III, trg 118)
Được Đức Phật giải thích về lợi ích sống theo năm giới như
vậy, quý vị hãy cùng với chúng tôi tìm hiểu nội dung của năm giới như
thế nào,
và chúng ta, những con người sống trong thời đại hiện nay, nên nhận thức
năm
giới như thế nào?
Nhận thức nội dung năm giới,
trong hoàn cảnh hiện nay
1) Giới sát sinh:
Đứng đầu năm giới là
giới sát sinh, yêu cầu mọi người chớ có
tự tay mình giết hay bảo người khác giết. Ngược lại, yêu cầu phải trân
trọng giá
trị thiêng liêng của sự sống, đối với loài người cũng như mọi loài. Bảo
vệ, tôn
trọng, nâng cao giá trị của sự sống, đó là một khái niệm trung tâm của
đạo đức
Phật giáo. Cống hiến lớn của đạo Phật là coi trọng mọi dạng sống, chứ
không phải
chỉ riêng dạng sống loài người. Đức Phật lên án mọi hình thức hủy hoại
sự sống,
khi còn tại thế Đức Phật lên án tập tục tế đàn của đạo Bà la môn, vì
giết để
cúng thần hàng chục, hàng trăm dê, cừu, bò một lần. Đức Phật cũng phê
bình thú
vui săn bắn của vua chúa. Và lẽ tất nhiên, Đức Phật phản đối chiến tranh
dưới
mọi hình thức, trừ trường hợp khi cả một dân tộc, một quốc gia bị xâm
lăng và
phải tự vệ. Ở Việt Nam, những ông vua Phật tử như Lý Thái Tổ, Lý Thánh
Tông, Lý
Nhân Tông, Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông đã lãnh đạo cuộc kháng chiến
của
toàn dân chống lại các cuộc xâm lăng của quân đội, của nhà Tống và nhà
Nguyên.
Tuy nhiên, do luật nhà Phật quy định, đã là tu sĩ, đã xuất gia thì không
được
cầm vũ khí. Muốn cầm vũ khí ra trận, người tu sĩ phải hoàn tục, làm cái
việc mà
trong sách thường nói: "Cởi áo cà sa, khoác áo chiến bào".
Giới luật nhà Phật đối
với tu sĩ xuất gia bao giờ cũng nghiêm
ngặt hơn là đối với người tại gia. Trong thời đức Phật còn tại thế ở Ấn
Độ, tăng
sĩ khất thực hằng ngày để sống, do đó, trong luật có quy định, Tu sĩ
không được
đốn cây, phá cây, đào đất, vì làm như vậy có thể giết hại các loài sinh
vật nhỏ.
Kinh tạng Pali nói tới những dạng sống thô sơ (ekindriya jiva, hay
sappanaka
uda) sống trong các loài cây, cỏ và cả ở trong nước và đất. (Trong các
bộ luật
(Vinaya Pitaka cuốn III trg 126 và Vinaya cuốn 14 trg 125) đều có những
quy định
cụ thể và chi tiết như vậy).
Đó là sự thể hiện của
lòng từ bi của Đức Phật, một lòng từ
lòng bi bao quát tất cả mọi dạng sống trên trái đất này, dù là lớn hay
nhỏ, mắt
thấy được hay không thấy được, như đã nói trong Kinh Từ bi thuộc Kinh
tạng Pali:
" Loài
được thấy, không thấy,
Loài sống xa, không xa
Các loài hiện đang sống,
Các loài sẽ được sanh
Mong mọi loài chúng sanh
Sống hạnh phúc an lạc.
... Hãy tu tập từ tâm,
Trong tất cả thế giới,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.
Phía trên và phía dưới.
Cũng vậy cả bề ngang,
Không hạn chế, trói buộc,
Không hận, không thù địch.
Như tấm lòng người mẹ,
Đối với con của mình,
Trọn đời lo che chở,
Con độc nhất của mình.
Cũng vậy đối tất cả,
Các hữu tình chúng sanh
Hãy tu tập tâm ý
Không hạn lượng rộng lớn".
(Tập Kinh Kinh Từ Bi trg 25)
Đức Phật cho rằng từ bi
là tráng thái tâm thức tốt đẹp nhất ở
thế gian này, và khuyến cáo học trò mình, tất cả mọi Phật tử dù là đi,
đứng hay,
nằm ngồi, đều an trú niệm của mình ở lòng từ, lòng bi không hạn lượng
đó.
Trong Kinh tạng Pali,
Đức Phật thường hay khuyên cáo các Tỷ
kheo đệ tử Phật hãy chăm tu tập bốn vô lượng tâm, tức là các tâm từ, bi,
hỷ, xả,
mở rộng không hạn chế cho tất cả các loài hữu tình ở khắp bốn phương, dù
nhỏ,
hay lớn, thấy được hay không thấy được, đều bao quát trong bốn tâm từ,
bi, hỷ,
xả rộng lớn vô biên đó.
Mãi gần đây, phương Tây
mới lập ra môn học mới gọi là "Đạo
đức học môi trường" (environnmental ethics), đặt vấn đề bảo vệ cây cỏ,
nước,
không khí và các loài vật. Đó là một bước đáng khen của khoa học Tây
phương tiếp
cận thuyết từ bi rộng lớn của đạo Phật. Nhà Phật học Nhật Bản Hajime
Nakamura
viết rằng:
"Theo đạo Phật, người
chỉ là một loài hữu tình, không có
quyền, khai thác bừa bãi không có hạn chế các loài động vật thực vật,
cũng là
một bộ phận của Thiên nhiên" (Hajime Nakamura - Encyclopedia of
Bioethics - Tập
I.Free Press. New York. trg 371)
Nhà Phật học Nakamura
viết tiếp: "Một trong những đặc sắc nổi
bật của tư tưởng Phật giáo là một nếp sống hài hòa với thiên nhiên, một
nếp sống
an lạc trong một cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp, thanh tịnh, đầy thẩm mỹ
và đạo
vị". (Sách đã dẫn, trg 371)
Chắc quý vị có thể thắc
mắc là làm sao kết hợp được thuyết từ
bi của đạo Phật với yêu cầu của khoa học nông nghiệp hiện đại, dùng hàng
loạt
thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, phân hóa học để bảo vệ mùa màng, tăng sản
lượng
nông nghiệp v.v... Đúng là khoa học nông nghiệp hiện đại có những thành
tựu nhất
định trong việc bảo vệ mùa màng, diệt trừ sâu cắn lúa và cỏ dại, và tăng
năng
suất và sản lượng ngũ cốc một cách đáng kể. Nhưng, chúng ta cũng không
được quên
hậu quả tai hại lâu dài của việc lạm dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu và
thuốc
diệt cỏ. Đất, nước, bị ô nhiễm trên một diện rộng lớn, đất đai màu mỡ
trước kia
ngày càng bị cằn cỗi, thành phần hóa học và sinh vật trong đất bị mất
cân đối.
Nước sông nước biển cũng bị ô nhiễm nghiêm trọng, thậm chí tại một số
vùng,
nhiều sông, hồ, ao không còn có thể nuôi sống cá, tôm, cua và bất cứ một
loài
thủy sản nào khác! Mãi gần đây, các nhà khoa học nông nghiệp mới bắt đầu
tỉnh
ngộ và gióng tiếng chuông báo động, yêu cầu trở lại dùng phân sinh vật,
cấm
không dùng thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ trên quy mô lớn. Nói chung
khoa học
nông nghiệp phương Tây đang có xu hướng rõ rệt, bảo vệ duy trì cân bằng
sinh
thái trong đất và nước, cây cỏ, nhằm tạo ra một năng xuất ổn định, cung
cấp một
số lượng nông phẩm có thể ít hơn, nhưng chất lượng dinh dưỡng cao hơn.
Một thắc mắc thứ hai quý
vị có thể nêu lên về giới sát sinh
là ăn thịt cá, có mâu thuẫn với thuyết từ bi của đạo Phật hay không?
Quý vị đều biết rõ là
trong thời đức Phật tại thế, Đức Phật
không có yêu cầu tu sĩ không được ăn thịt, cá. Thí chủ cúng dường gì thì
ăn nấy,
dù là thịt, cá, trứng đều có thể dùng không phân biệt. Hiện nay, ở các
nước theo
Phật giáo Nam tông, như Campuchia, Lào, Thái lan, Sri Lanka tăng sĩ vẫn
theo
truyền thống đó của đạo Phật, nhưng họ chỉ ăn mỗi ngày một bữa, nếu quá
ngọ thì
họ không ăn nữa. Trái lại, ở các nước theo Phật giáo Bắc tông như Việt
Nam,
Trung Quốc có một số lớn tăng sĩ ăn trường trai, nhưng ăn nhiều bữa. Ở
các xứ
như Tây Tạng, Mông Cổ, tuy là theo Phật giáo Bắc tông, nhưng tăng sĩ ở
đấy vẫn
ăn mặn. Một bộ phận lớn của Tăng sĩ Nhật Bản và Triều Tiên cũng ăn mặn.
Tại sao như vậy? Đức
Phật là một giáo chủ rất thực tế. Ngài
biết rằng, trên thế giới có những vùng, trong năm có nhiều tháng tuyết
bao phủ
khắp nơi, cây cỏ không mọc được, thì tăng sĩ ăn chay thế nào được.
Vì vậy, đạo Phật đề ra
thuyết thịt trong sạch. Thịt có thể ăn
được, nếu mình không chứng kiến, không nghe biết con vật bị giết thịt,
cũng biết
rõ, con vật đã không bị giết thịt để cho mình ăn. Thịt như vậy gọi là
thịt trong
sạch và có thể ăn được.
Tất nhiên, ở những nơi
nào, với người nào có điều kiện ăn
chay và cảm thấy ăn chay ngon, có lợi thật sự cho sức khỏe, thì nên ăn
chay. Vấn
đề này không nên áp đặt, mà nên tùy theo hoàn cảnh và sở thích từng
người mà
giải quyết hợp lý. Theo đạo Phật, không phải ăn chay là sẽ được giải
thoát, cũng
không phải ăn mặn thì sẽ phải luân hồi sanh tử. Vấn đề là ở lòng tham
hay không
tham. Có người ăn thịt mà không tham, lại có người ăn chay mà tham. Tham
ăn,
cũng như tham sắc, danh, tiền, ngủ nghỉ đều dẫn tới luân hồi sanh tử.
Không tham
thì được giải thoát, trước mắt là giải thoát khỏi phải ràng buộc với
những điều
mình ham thích. Thân tâm nhờ đó mà được nhẹ nhàng, thoải mái.
Kính thưa quý vị!
Mặc dù quý vị không ăn
chay trường, chỉ ăn chay trong những
ngày nhất định, nhưng quý vị hãy bồi dưỡng cho mình và con cháu mình
lòng thương
yêu đối với loài vật, nhất là những động vật đáng thương, đáng quý, lại
có ích
như con chó, con mèo, con bò, con ngựa v.v... Quý vị và con cháu, bạn bè
quý vị
hãy học cho được, tu tập cho được tâm trạng từ bi, mà trong Kinh Từ bi,
Đức Phật
đề cao như là tâm trạng tốt nhất trong cõi thế này.
Với tâm trạng ấy, được
duy trì và bồi dưỡng trong mỗi giây
phút của đời sống quý vị, thì có thể đảm bảo chắc chắn hạnh phúc đời này
và đời
sau sẽ đến với quý vị, không tách rời quý vị, không khác gì bóng đi theo
hình,
âm vang không rời tiếng, bánh xe lăn theo bước chân con bò kéo xe:
"Ý dẫn
đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo.
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình
(Kinh Pháp Cú, Kệ 1 và 2)
Tâm ý thanh tịnh, trong
Kinh pháp Cú, chính là tâm từ, tâm bi
mà đức Phật ca ngợi như là cái tâm trạng tốt đẹp nhất trên thế gian này.
Có lần, Đức Phật thuyết
pháp cho ông Cấp Cô Độc
(Anathapindika) về công đức của bố thí. Đức Phật nói, bố thí, cúng
dường, cho
Đức Phật và Tăng chúng thì có công đức rất lớn. Nhưng có công đức lớn
hơn là xây
một tu viện cho Tăng chúng. Có công đức lớn hơn xây dựng tu viện là thọ
tam quy,
quy Phật, Pháp, Tăng. Có công đức hơn thọ tam quy là giữ năm giới. Có
công đức
hơn giữ năm giới là giữ tâm niệm từ bi, dù chỉ là trong giây phút. Nhưng
có công
đức hơn tất cả là quan sát sâu sắc đạo lý vô thường của sự vật". (Xem
Tăng Chi
IV trg 264 - 265)
Trong đoạn văn trên,
chúng tôi thấy rất rõ là Đức Phật hết
sức coi trọng việc tu tập lòng từ, lòng bi và giữ năm giới. Nếu làm như
trong
Kinh Từ bi, nếu cả đời chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, chúng ta cũng đều
giữ một
niệm từ bi, thật sự thương xót mọi người, mọi loài, thì công đức của
chúng ta sẽ
là vô lượng vô biên. Mà lòng từ, ở mức thấp nhất chính là không sát
sinh, không
giết hại, và không khuyến khích giết hại.
Còn mặt tích cực của
giới không sát sinh là gì? Xưa nay,
chúng ta thường hiểu một cách hạn hẹp mặt tích cực của giới không sát
sinh là
phóng sanh, là vào những ngày lễ hội lớn, tổ chức mua cá đem thả lại
xuống sông,
mua chim nuôi ở lồng rồi đem thả cho bay đi tự do... Chúng tôi không
phản đối gì
những cử chỉ tốt đẹp, có giá trị biểu trưng như vậy. Nhưng chúng tôi
muốn đề
nghị một nhận thức rộng rãi hơn về thế nào là mặt tích cực của giới sát
sinh. Đó
là quý trọng, bảo vệ, làm phong phú thêm, nâng cao chất lượng của sự
sống ở mọi
cấp, trong tất cả mọi hình thức. Nếu hiểu như thế thì tham gia các phong
trào
chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, chống bạo loạn và bạo hành, khuyến
khích hòa
hợp và đối thoại trong phạm vi quốc tế, khu vực, quốc gia, địa phương
đều là thể
hiện mặt tích cực của giới không sát sinh. Đồng thời, tham gia cuộc vận
động bảo
vệ môi sinh trong phạm vi quốc tế, khu vực, quốc gia, địa phương, cho
tới quận,
phường, khu phố... Bởi lẽ bảo vệ môi trường sống, cũng tức là bảo vệ sự
sống,
nâng cao chất lượng sống. Chúng tôi hiểu môi trường sống không chỉ hạn
chế ở
không khí, đất và nước, mà còn bao gồm cả lối sống, tập quán sống, vệ
sinh hay
phản vệ sinh, đầu độc xã hội hay là làm lành mạnh hóa xã hội của cá nhân
chúng
ta từng gia đình chúng ta. Chúng tôi rất mong cho mỗi chùa, thiền viện
Phật
giáo, thậm chí cho tới mỗi gia đình Phật tử đều sẽ là những trung tâm
lớn hay
nhỏ của đạo đức Phật giáo, được thể hiện trong nếp sống hằng ngày, là
những
trung tâm của lòng từ, bi, hỷ, xả, những trung tâm đoàn kết và hòa hợp,
những
trung tâm của một lối sống giản dị, lành mạnh và đức hạnh. Kính thưa quý
vị! Đó
chính là bảo vệ sự sống và nâng cao chất lượng sống. Đó chính là mặt
tích cực
của giới sát sinh.
Nếu văn minh phương Tây
tạo ra những mẫu người sống ngăn cách
và cô độc, "đèn nhà ai rạng nhà ấy", thì văn minh phương Đông và đặc
biệt là văn
minh Phật giáo phải tạo ra những mẫu người biết sống hòa hài với mọi
người, quan
tâm tới mọi người, thông cảm sâu sắc và chân tình với niềm vui cũng như
nỗi khổ
của mọi người.
2) Giới
không lấy của không cho.
Thuộc phạm vi giới này,
không phải chỉ là những hành vi trộm
cắp lộ liễu, mà còn gồm cả những hành vi như buôn lậu, tham nhũng, lừa
đảo, lật
lọng trong buôn bán để kiếm những món lời bất chính, lạm dụng hay chiếm
dụng của
công v.v...
Ở các nước công nghiệp
phát triển và một số các nước khác,
việc khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là loại tài
nguyên không
thể phục hồi được, như quặng kim loại, dầu mỏ, hay là khó phục hồi như
rừng gỗ,
loài động vật hiếm phải được kết tội như là những hành vi chiếm đoạt tài
sản của
hậu thế.
Thánh Gandhi nói "Ăn một
miếng không cần ăn, tức là chiếm
đoạt phần ăn đó của người khác". Trên tinh thần đó, người Phật tử nên
tránh và
phê phán những cuộc ăn nhậu, tiệc tùng lãng phí, những bữa ăn đáng lẽ để
cho 20
người ăn, nhưng chỉ có ba, bốn người ăn mà thôi. Đó là khoe khoang, đó
là lãng
phí, đó là thiếu lòng trắc ẩn đối với những người nghèo, người đói, ở
trong nước
cũng như trên thế giới. Chúng ta nên nhớ rằng, ăn một miếng không cần
ăn, thì
miếng ăn đó sẽ trở thành thuốc độc, đầu độc cơ thể, sinh ra lắm chứng
bịnh. Đó
là loại bệnh của người ăn no: bệnh đường ruột, bệnh dạ dày, các loại
bệnh tiêu
hóa, bệnh huyết áp, bệnh béo bệu và bao nhiêu thứ bệnh khác nữa.
Mặt tích cực của giới
không lấy của không cho là:
a) Sống
trung thực, lương thiện, tuyệt đối không xâm phạm
tới tài sản, của cải của người khác, dù là cây kim, sợi chỉ.
b) Sống
biết đủ, bằng lòng với số tài sản của mình, có
được nhờ lao động của bản thân, không nghĩ cách làm giàu thêm bằng những
lối làm
ăn lừa lọc, không chính đáng, phi đạo đức. Cần chú ý là, đạo Phật không
phản đối
làm giàu, nếu đấy là làm giàu chính đáng. Đức Phật từng nói với ông Cấp
Cô Độc
rằng, người giàu có những niềm vui như là có được của cải, do lao động
của mình
tạo ra, có được của cải để làm việc thiện, có của cải cho nên không phải
nợ nần.
Nhưng Đức Phật kết luận là những niềm vui đó, tuy chính đáng, nhưng vẫn
thua xa
niềm vui của một người sống thiện, không hề bị lương tâm khiển trách.
(Xem Tăng
Chi IV 264 - 265)
c) Sống mà biết bố
thí luôn luôn và sẵn sàng giúp đỡ
người khác trên mọi mặt. Bố thí có nhiều loại: Tài thí là giúp đỡ
người
thiếu thốn bằng của cải vật chất. Đó là hình thức bố thí phổ thông nhất.
Pháp
thí là giảng pháp cho những người chưa được biết Phật pháp. Đó là
loại bố
thí được Đức Phật ca ngợi là bậc nhất. Pháp thí là đem điều thiện, điều
phải,
điều hay, đẹp mình học được từ Phật pháp chia xẻ với người khác cùng
biết và
được lợi như mình.
Có người hiểu một cách
hạn hẹp chỉ có tăng sĩ mới làm việc
pháp thí. Không phải vậy, Tăng sĩ thuyết pháp là một hình thức của pháp
thí. Nếu
có một vị nào đó trong giảng tòa này, đem nội dung bài giảng của chúng
tôi ngày
hôm nay phổ biến lại cho gia đình, con cái, bạn bè, thân hữu, như vậy
thưa quý
vị, cũng là pháp thí. Dùng mọi hình thức để phổ biến Phật pháp, đó là
pháp thí.
Thuyết pháp hằng giờ như chúng tôi ngày hôm nay là pháp thí đã đành,
giảng giải
lại cho một người khác nghe chỉ một lời Phật dạy mà thôi cũng là pháp
thí. Ở
đoạn trên, tôi có nhắc lại một lời Đức Phật nói một niệm quán vô
thường,
công đức còn lớn hơn là cúng dường Phật và Tăng chúng, lớn hơn cả xây
chùa và tu
viện, hơn cả thọ tam quy, ngũ giới v.v...
Vì vậy, chúng tôi khuyến
cáo các vị ít nhất cũng tìm hiểu đạo
lý vô thường, là một trong ba pháp ấn của đạo Phật, và giảng giải cho
mọi người
biết về đạo lý vô thường đó. Công đức của các vị thực là lớn lao vô
cùng. Vì
sao? Vì chỉ khi nào hiểu được đạo lý vô thường, thì mới dứt bỏ được lòng
tham,
lòng sân, lòng si, mở được cửa vào cảnh giới Niết Bàn an lạc. Cảnh giới
Niết
bàn, là cảnh giới không tham, không sân, không si. Mà muốn không tham,
sân và si
thì phải hiểu sâu sắc đạo lý vô thường.
Hình thức bố thí thứ ba
là vô úy thí. Bảo vệ, che chở,
an ủi những người bất hạnh, gặp nạn, thân cô, thế cô, đó là vô úy
thí,
tức là bố thí sự không sợ hãi.
Tùy hỷ thí
là chia xẻ niềm vui của người khác. Mặt trái
của tùy hỷ thí là lòng ganh ghét, đố kkhông có lòng hoan hỷ đối với sự
thành
đạt của người khác. Trong bốn vô lượng tâm được nói tới trong
Kinh tạng
Pali, có tâm hỷ. Đó chính là hạnh tùy hỷ, sẵn sàng chia xẻ
niềm
vui của tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Lòng hỷ (tùy hỷ) bao giờ cũng
đi kèm
với lòng từ. Bởi vì lòng từ chính là lòng sẵn sàng đem lại niềm vui cho
người
khác. Mà chia xẻ niềm vui cũng tức là cung cấp niềm vui, đem lại niềm
vui.
Trong sách Phật, còn nói
tới một hình thức bố thí nữa, gọi là
cung kính thí, tức là thái độ khiêm tốn, bày tỏ lòng kính trọng
đối với
mọi người, dù là người kém tuổi mình, không có địa vị xã hội bằng mình.
Thái độ
kiêu căng ngạo mạn là một thái độ không thể chấp nhận được trong đạo
Phật. Vì
dưới con mắt đức Phật, mọi chúng sanh đều có Phật tính, đều có khả năng
thành
Phật, cho nên đều bình đẳng. Hơn nữa, mình có kính trọng người ta, thì
người ta
mới kính trọng mình. Đó là thái độ có đi có lại trong cuộc sống, là quy
luật tự
nhiên.
3) Giới
không tà dâm:
Con người hay từ cực
đoan này nhảy sang một cực đoan khác. Có
người cười nhạo đồ đệ của Khổng tử là "nam nữ thọ thọ bất thân"
nhưng con
người hiện đại lại lún sâu vào một cực đoan khác tức là cuộc sống
tình dục
không hạn chế, mà những ảnh hưởng tiêu cực đã bộc lộ phổ biến: gia
đình tan
nát, tỷ lệ ly dị cao, dẫn tới tình cảnh trẻ con sống bơ vơ, thiếu tình
cảm,
không được giáo dục, cho nên tỷ lệ thanh thiếu niên phạm tội ngày càng
nhiều, số
thanh niên nghiện ngập, hút xách, mua bán dâm bừa bãi ngày càng đông.
Một trong
hậu quả tai hại nhất của lối sống tình dục bừa bãi là bệnh Sida, mà sự
xuất hiện
và lan tràn mau chóng là mối lo chung cho cả nhân loại, bởi vì đó là một
chứng
bệnh hiện nay xem như là không chữa trị được.
Trong một bối cảnh xã
hội và thế giới như vậy, tầm quan trọng
của giới thứ ba, giới không tà dâm của đạo Phật càng nổi bật lên, như
một nhu
cầu bức xúc hàng đầu.
Chúng ta cần nhớ rằng,
nhân loại từ tình trạng dã man chuyển
sang tình trạng văn minh là nhờ có thiết chế gia đình. Tình
thương của
người mẹ đối với con cái đóng vai trò lớn trong sự ổn định thiết chế gia
đình.
Con người cảm thấy được an ủi, bớt cô độc, được bước đầu giáo dục về
tình thường
đồng loại, trong cánh tay ôm ấp của người mẹ, trong tiếng ru con của
người mẹ.
Thế nhưng nếp sống tình
dục bừa bãi của con người hiện đại đã
phá hoại thiết chế gia đình đó của con người, khiến cho con người
tuy
không phải quay lại cuộc sống man dã,thì cũng sống phi đạo đức, mất hết
tính
người. Đó là điều đáng sợ, nhưng phải nói ra, không nói không được. Chỉ
có loài
vật mới quan hệ tình dục bừa bãi. Nhưng con người cũng bắt đầu quan hệ
tình dục
bừa bãi như vậy, lại còn phô trương trên màn ảnh một cách công khai,
không chút
xấu hổ e thẹn.
Kính thưa quý vị!
Đó chính là cái vòng
luẩn quẩn của con người gọi là văn minh,
gọi là hiện đại. Cảm thấy sống làm người là khổ, thì lại đâm đầu xuống
sống
không ra con người nữa để rồi cảm thấy đau khổ hơn. Nhưng đạo Phật đã
vạch cho
con người chúng ta một lối thoát ra khỏi cuộc sống đau khổ hiện tại, là
lối sống
đạo đức, hướng thượng theo năm giới, mười thiện, lối sống tránh cả hai
cực đoan:
đam mê dục vọng tầm thường, cũng như sống ép xác khổ hạnh.
Đối với người xuất gia,
đạo Phật yêu cầu một cuộc sống phạm
hạnh, từ bỏ mọi hình thức dâm dục. Đấy không phải là khổ hạnh. Đấy là
yêu cầu
tối thiểu của một cuộc sống thật sự giải thoát, hướng tới sự giác ngộ
hoàn
thiện. Nhưng đối với người Phật tử tại gia, đạo Phật không đặt yêu cầu
cao như
vậy. Đạo Phật chỉ yêu cầu họ có quan hệ tình dục chính đáng, với người
chồng,
người vợ chính thức của mình. Quan hệ vợ chồng là quan hệ vừa có tình,
vừa có
nghĩa, là trụ cột của mọi quan hệ khác trong gia đình, như quan hệ cha
mẹ và con
cái, quan hệ anh, chị em, và rộng hơn nữa là quan hệ họ hàng thân thuộc.
Trụ cột
mà vững vàng, lành mạnh thì mọi quan hệ khác trong gia đình cũng sẽ vững
vàng và
lành mạnh theo. Mà quan hệ gia đình ổn định, lành mạnh, lại là cơ sở của
một xã
hội ổn định và lành mạnh. Giữ đúng giới "không tà dâm", người chồng,
người vợ,
người cha, người mẹ đóng vai trò rất lớn, có thể nói là quyết định trong
sự
nghiệp làm lành mạnh, và ổn định xã hội, cũng như giáo dục và bồi dưỡng
thế hệ
tương lai.
4) Giới
không nói dối
Tức là giới cấm vọng
ngữ. Đối với đạo Phật, nói dối
tai hại trên nhiều mặt. Thứ nhất, nói dối ảnh hưởng tiêu cực đến
sự ổn
định xã hội. Nói dối phá hoại sự ổn định đó. Con người chỉ có thể sống
chung với
nhau trong một bầu không khí tin cậy lẫn nhau, tin cậy rằng, trong giao
tiếp,
mọi người đều nói thật. Nếu mọi người đều nói dối, thì đó là dấu hiệu
của xã hội
giải thể và tan rã. Thứ hai, trên bình diện cá nhân, nói dối có
tác dụng
tai hại là phản ứng dây chuyền. Nghĩa là, lời nói dối này kéo theo lời
nói dối
khác rồi một lời nói dối khác nữa, còn nghiêm trọng hơn, cho tới khi bản
thân
mình cũng bị bao bọc bởi tấm màn dối trá do mình tạo ra. Một con người
như thế
ngày càng tách rời xa đích giải thoát và giác ngộ, ngày càng sa đọa vào
vòng tội
lỗi, khó gỡ ra được. Một người đã sống không thật với người khác, và với
bản
thân mình, thì sẽ không bao giờ tìm tới sự thật, chứ đừng nói chứng ngộ
sự thật.
Trong Kinh "Giáo giới La
Hầu La tại rừng Am Bà La" (Trung bộ
Kinh II, trg 122), đức Phật để lại trong chậu một ít nước và bảo La Hầu
La rằng:
"Này La Hầu La, ngươi có
thấy một ít nước còn lại trong chậu
không?"
"Thưa có, bạch Thế Tôn."
"Cũng ít vậy, này La Hầu
La là đức hạnh Sa môn của những
người nào biết mà vẫn nói dối, nói dối mà không có xấu hổ".
Rồi Đức Phật hắt chút ít
nước trong chậu đi, lật úp chậu lại
rồi lật ngửa chậu ra và nói:
"Này La Hầu La, người có
thấy chậu nước này trống không hay
không?".
"Thưa có, bạch Thế Tôn".
"Cũng trống không như
vậy, này La Hầu La là hạnh Sa môn của
người biết mà nói dối, không xấu hổ."
Rồi ở một đoạn sau của
Kinh, Đức Phật lại khẳng định:
"Này La Hầu La, đối với
ai biết mà nói dối, không có xấu hổ,
thời Ta nói rằng, người ấy không có việc gì ác mà không làm. Do vậy, này
La Hầu
La, ta quyết không nói dối, dù là nói để mà chơi. Như vậy, này La Hầu
La, ngươi
phải học tập"
Kính thưa quý vị!
Rất mong quý vị, về gia
đình, cũng dậy dỗ con cháu mình như
vậy, nghĩa là tuyệt đối không nói dối, dù là nói để mà chơi. Hiện nay,
người ta
nói dối với nhau một cách quá dễ dàng. Trong nhà, người mẹ muốn dỗ con
nín,
không khóc, cũng nói dối. Cha mẹ, muốn đi chơi với nhau một mình, không
cho con
đi theo cũng nói dối. Chủ nhà mời khách ăn cơm, cũng là mời để mời, chứ
không
muốn mời. Khách tuy chưa ăn cơm ở nhà, nhưng để từ chối một lời mời
không thật
của chủ nhà cũng nói dối: "Xin lỗi, tôi đã vô phép rồi".
Người ta gọi đó là nói
dối theo phép lịch sự. Thế nhưng, thưa
quý vị, phép lịch sự, theo đúng nghĩa của nó chính là không nói dối.
Nhất là cha
mẹ đối với con cái còn nhỏ, lại càng không nên nói dối. Bởi vì, không
nên coi
thường trẻ con. Chúng nó biết hết. Một ngày, chính chúng nó sẽ nói dối
lại với
cha mẹ, với bạn bè, như chúng ta đã nói dối với chúng. Cho nên, thà để
cho chúng
khóc cũng không sao. Khóc một chút cũng như tập thể thao, càng khỏe
phổi.
Tất nhiên, có những
trường hợp, chúng ta không thể nói sự
thật được. Nhưng không nói sự thật được thì hãy im lặng, chứ đừng có nói
dối.
Nói dối cũng như ăn vặt, sẽ quen mồm và gây tác hại không nhỏ.
Người Phật tử không
những không được nói dối, mà còn không
được nói lời chia rẽ, gây hiện tượng mất đoàn kết. Trái lại, người Phật
tử bao
giờ cũng nói lời hòa hợp, để đoàn kết lại những người vốn bị chia rẽ, và
tăng
cường đoàn kết hơn nữa, đối với những người vốn đã hòa hợp.
Động cơ xấu nói chia rẽ
có thể là lòng hận thù, ganh tị đối
với sự thành công của người khác, là tâm ác muốn gây đau khổ cho người
mà mình
không ưa, muốn cho những người khác xung đột nhau, mâu thuẫn nhau, hiểu
lầm
nhau.
Khi lời nói xấu, nói
chia rẽ đồng thời cũng là lời nói dối,
thì hai tội nói dối và nói chia rẽ cộng lại tạo ra nghiệp ác nghiêm
trọng, có
thể quyết định người phạm giới tái sinh vào cõi ác, cõi khổ.
Mặt tích cực của giới
không nói chia rẽ là nói lời hòa hợp,
xuất phát từ động cơ lòng từ, lòng bi. Theo sách Phật, người nói lời hòa
hợp
thường có nhiều bạn trung thành với mình, ở đời này cũng như ở đời sau.
Người Phật tử, không
những không nói dối, nói chia rẽ, mà
cũng không được nói lời ác độc, khó nghe, làm đau lòng người khác. Kích
bác
người khác với lời chua cay, chửi rủa, mắng nhiếc người hay là chế nhạo
người
với lời thâm độc đều là những điều ác về lời nói, mà người Phật tử nhất
định
không phạm, dù là mình có bị trái ý, không bằng lòng. Trong mọi trường
hợp,
người Phật tử phải biết kiên nhẫn, lại biết thông cảm với những yếu kém
của
người khác.
Người Phật tử biết nói
đúng thời, đúng lúc, nói lời có ích,
tránh nói nhảm nhí, nói lời vô nghĩa. Đối với người xuất gia, đức Phật
thường
dặn là chỉ nên nói những lờiđúng sự thật, có lợi lạc đối với người nghe,
những
lời có liên hệ đến pháp và luật của đạo Phật, những lời hướng tới giác
ngộ và
giải thoát. Lời nói của vị tu sĩ phải có giá trị như là vàng bạc, châu
báu đem
tặng người nghe, mà lại tặng đúng lúc, đúng thời.
Người Phật tử tại gia có
học Phật, cũng nên tranh thủ nói với
mọi người những lời nói có ích, có đạo lý, những lời nói khiêm tốn, lịch
sự, dễ
nghe, dễ thấm vào lòng người. Người Phật tử có học Phật, cũng phải tranh
thủ nói
pháp, pháp thí dù là với một người, hai người cho đến số đông người.
5) Giới
không uống rượu và các chất say khác.
Tác hại của rượu thì ai
cũng biết, nhưng ai cũng uống. Ngay ở
nước ta cũng vậy. Uống rượu, uống bia trở thành một cái mốt, một thứ
thời
thượng, không thể thiếu trong tất cả bữa tiệc nhỏ hay lớn, dù là tiệc
gia đình.
Trên báo chí, tỷ lệ tai
nạn giao thông, các vụ tội phạm do
say rượu cũng tăng lên tới mức báo động. Thanh thiếu niên ở nước ta uống
rượu và
hút thuốc lá rất nhiều, xem đó như là một dấu hiệu của tuổi lớn và lỗi
đời.
Các cuộc thí nghiệm khoa
học cho thấy, rượu làm nóng cơ thể,
chứ không cung cấp được chất dinh dưỡng nào cho cơ thể. Phần lớn rượu
hay bia
uống vào đều bốc thành hơi. Chúng ta đứng gần người uống rượu như bị hơi
rượu
phả vào mặt. Điều này chứng tỏ, rượu hay bia uống vào bị đốt cháy trong
cơ thể
rồi bốc thành hơi tỏa ra ngoài, không có lợi gì cho việc nuôi dưỡng và
tái sinh
các tế bào.
Mặc dù rượu uống với
liều lượng ít có khả năng kích thích
thần kinh, và có thể dùng làm thuốc, thế nhưng nếu uống nhiều, uống hằng
ngày
thì lợi bất cập hại, tuy rằng không uống đến mức độ say. Một tờ tạp chí Y
học
của Anh cho biết, người uống bia hằng ngày có nguy cơ bị ung thư đường
ruột gấp
12 lần người không uống bia. Phụ nữ có thai mà uống rượu, thì dễ bị đẻ
non và
đau màng óc. Uống rượu cũng gây tác hại đến tế bào óc, dù là đối với
người lớn.
Vì tất cả những lý do
trên, cho nên đạo Phật xem giới cấm
rượu là một trong năm giới cơ bản.
Trong Kinh Thiện sanh
(Sigalovadasutta), Phật tuyên bố nghiện
rượu là một trong sáu nguyên nhân làm cho tan cửa nát nhà.
Đức Phật nói: "Này gia
chủ, đam mê các loại rượu có sáu nguy
hiểm. Tài sản bị tổn thất, hay gây tranh cãi, mắc nhiều bệnh tật, danh
dự thương
tổn, quần áo hở hang để lộ âm tàng, trí lực bị tổn hại. Này Gia chủ,
nghiện các
loại rượu có sáu nguy hiểm như vậy" (Trường bộ kinh, Kinh Giáo thọ Thi
Ca La
Việt).
Trong Kinh Phật, có
chuyện thanh niên nhà giàu
Mahadhanasettin phung phí một số tài sản rất lớn trong việc rượu chè,
đến nỗi
khi về già phải ăn mày để kiếm sống qua bữa. Tệ nghiện rượu, say rượu là
đầu mối
của bao nhiêu thảm họa gia đình: vợ chồng cãi nhau, đánh nhau, con cái
hư hỏng.
Người say rượu không còn biết phải trái, có thể phạm đủ mọi tội ác, kể
cả giết
người.
Người Phật tử, ngay từ
tuổi nhỏ, phải được giáo dục về sự cần
thiết tự chăm lo sức khỏe của bản thân mình, và giữ gìn tâm hồn trong
sách và
lành mạnh, để kịp thời ứng phó với mọi biến thiên và cảnh ngộ bất trắc
của cuộc
sống. Người Phật tử cần nhận thức rõ phung phí sức khỏe, làm mê muội
tinh thần
bằng lối sống buông thả và trác táng là một tội lỗi, nhiều khi phải trả
giá đắt
bằng cả cuộc đời của mình.
Kết Luận
Kính thưa quý vị!
Như vậy, trong bài thuyết pháp nhân ngày lễ Phật đản hôm nay,
chúng tôi đã trình bày khá chi tiết nội dung của năm giới nhà Phật, nên
được
nhận thức dưới con mắt của con người hiện đại như thế nào.
Ở nước Việt Nam chúng ta đang chuyển mình trong thời đại đổi
mới và mở cửa này, cuộc sống đạo đức có xuống cấp thật, trong mấy chục
năm lại
đây, nhưng không đến nỗi tồi tệ. Văn minh vật chất phương Tây tuy có xâm
nhập
vào nước ta và có ảnh hưởng tiêu cực đến một bộ phận của nhân dân ta,
nhất là
đối với từng lớp thanh thiếu niên, nhưng vẫn gặp phải sự đối kháng mạnh
mẽ của
giáo dục gia đình, tôn giáo, trường học, được chính quyền hỗ trợ. Cho
nên, tình
hình của đạo đức xã hội ta không đến nỗi quá bi quan, như một vài người
lo lắng.
Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức rõ trách nhiệm của chúng
ta, những người cha, người mẹ, các bậc đàn anh, trước tình hình đang
biến chuyển
mau lẹ. Hướng biến chuyển có thể tốt, hay xấu là tùy ở nỗ lực của chúng
ta.
Phương hướng hoạt động của chúng ta có thể là:
- Hết sức hỗ trợ cho chương trình xóa đói giảm nghèo của
chính phủ, bằng những việc làm thiết thực, có ý nghĩa từ thiện xã hội.
- Khuyến cáo chính phủ sớm tăng lương cho công nhân viên
chức, cho người hưu trí, giảm bớt mức chênh lệch thu nhập giữa công nhân
viên
Nhà nước, và công nhân viên làm việc cho các hãng nước ngoài hoạt động
tại Việt
Nam.
- Tuyên truyền, đề cao mọi giá trị đạo đức truyền thống,
trong đó có đạo đức Phật giáo, như việc chúng tôi làm hôm nay trên giảng
tòa
này, như việc quý vị sẽ làm ở gia đình, với bài giảng này của chúng tôi.
Kính thưa toàn thể quý vị!
Qua thời gian khoảng một giờ, chúng tôi đã cố gắng trình bày
cho toàn thể quý vị định nghĩa năm giới theo lời đức Phật dạy, nêu rõ
những lợi
ích do giữ năm giới này đem lại cho những ai thành tâm thực hành. Chúng
tôi cũng
cố gắng phân tích cả hai mặt tích cực và tiêu cực của mỗi giới và sự áp
dụng của
từng giới trong đời sống cá nhân của từng người, của từng gia đình, quốc
gia và
xã hội.
Điều quan hệ là chúng ta cố gắng đem áp dụng năm giới này của
đức Phật vào đời sống cá nhân của mình, của gia đình mình. Có áp dụng
như vậy,
chúng ta mới xây dựng một xã hội văn minh và lành mạnh, thực sự hạnh
phúc và an
lạc.
Như chúng tôi đã thường nói với quý vị, chúng ta cố gắng xây
dựng Thiền viện Vạn Hạnh này thành một môi trường tu học lý tưởng cho
Phật tử
Vạn Hạnh tại gia và xuất gia của chúng ta. Và muốn vậy, chúng ta cố gắng
ứng
dụng năm giới vào đời sống cá nhân của mình, đời sống gia đình của mình.
Chúng
ta có gắng phổ biến năm giới này cho nhiều người được biết để cùng nhau
ứng dụng
năm giới này trong đời sống cá nhân và gia đình của mình. Chúng ta cố
gắng,
người người hành trì năm giới, nhà nhà hành trì năm giới, người người
phổ biến
năm giới, nhà nhà phổ biến năm giới, như vậy chúng ta cùng nhau xây dựng
một xã
hội lành mạnh, có đạo đức, có văn minh, thiết thực lợi ích cho thế hệ
của chúng
ta, chúng ta còn giúp cho thế hệ trẻ, con cháu của chúng ta được sống
trong một
xã hội tương lai tươi đẹp.
Kính chúc toàn thể quý vị một mùa Phật Đản sáng chói hào
quang của năm giới được thiết thực ứng dụng, đem lại hạnh phúc an lạc
cho toàn
thể quý vị, cho toàn thể gia đình quý vị!
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thích Minh Châu