Kinh
Mâu
Ni là một Kinh trong Kinh Tập (Sutta-Nipāta), được dịch
ra từ tiếng Pali. Chúng ta có một bản dịch bằng tiếng Anh
của thầy Saddhatissa, hội trưởng của Hội Maha Bồ Đề bên
Anh. Bản dịch ra văn trường hàng được một nhà xuất bản
ở Luân Đôn ấn hành, đó là nhà xuất bản Curng on Press.
Tôi cũng đã dịch kinh này ra tiếng Việt, bản dịch này có
tham cứu nhiều bản dịch khác căn cứ trên nguyên văn tiếng
Pali. Khi học Kinh chúng ta tìm cách dịch theo tinh thần của
bản tiếng Việt. Trong Kinh Tập có một số Kinh nói về đề
tài Mâu Ni rất hay. Sau khi học Kinh Mâu Ni, chúng ta sẽ học
một số Kinh khác trong Kinh Tập. Chúng ta có thể so sánh nguyên
bản bằng tiếng Pali với những bản dịch chúng ta có bằng
chữ Hán.
Có
một nhà học giả ở thế kỷ trước tên là Hoernle đã tìm
ra được một ít tài liệu thuộc về Kinh Tập bằng tiếng
Sanskrit. Ông đã tìm ra được tài liệu đó ở miền Đông
Turkistan. Sau này chúng ta có thể so sánh chút ít tài liệu
còn sót lại từ bản tiếng Phạn với bản tiếng Pali. Chúng
ta cũng có một ít Kinh dịch ra chữ Hán và chữ Tây Tạng,
chúng ta có thể so sánh, nghiên cứu. Đây là một việc làm
rất thích thú.
Trong
Mùa Đông này, nếu có dịp chúng ta sẽ được học một số
Kinh bằng chữ Hán tương đương với các kinh trong Kinh Tập.
Các Kinh này đã được cư sĩ Chi Khiêm dịch, có thể là được
dịch từ bản tiếng Phạn của Sutta-Nipāta tại vì bây giờ
chúng ta biết chắc chắn là đã có một bản bằng tiếng
Phạn nữa chứ không phải chỉ có bản bằng tiếng Pali.
Trong
Đại Chánh Tân Tu có một kinh gọi là Kinh Nghĩa Túc. Các Kinh
trong Kinh Nghĩa Túc tương đương với phẩm thứ tư của Kinh
Tập Tức Nghĩa Phẩm (Arthaka-vagga). Khi so sánh hai bên chúng
ta thấy có nhiều điểm tương đồng rất hay. Chúng ta cũng
sẽ học những Kinh thuộc đề tài mâu ni và so sánh bản chữ
Hán với bản tiếng Pali.
Mâu
ni không phải là tên của một người. Mâu ni có nghĩa là
một vị xuất sĩ tĩnh lặng. Hồi còn nhỏ tuổi, tôi đã
được học rằng chữ Thích Ca (Sakya) có nghĩa là năng nhân,
là người có khả năng thương yêu. Chữ mâu ni (muni) có nghĩa
là tĩnh mặc, người yên lặng. Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là:
một vị xuất sĩ tĩnh lặng tên Sakya. Chúng ta đọc: Namo Sakya
Muneya Buddhaya.
Nghiên
cứu về văn học Ấn Độ, chúng ta thấy chữ muni lần đầu
tiên xuất hiện trong kinh Vệ Đà hậu kỳ (trong thời kỳ
sau của kinh Vệ Đà chúng ta đã thấy có chữ muni). Muni có
nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc
hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ
muni tương đương với chữ rishi. Một bậc thánh nhân lớn,
một nhà hiền giả lớn được gọi là maha-rishi hay maha-muni.
Đến thời đại Áo Nghĩa Thư (Upanishad) thì chữ muni cũng
có xuất hiện. Theo truyền thống Ấn Độ, đời sống con
người có thể chia ra làm bốn giai đoạn:
1-
giai đoạn ấu thơ: đi học, sống với cha mẹ.
2-
giai
đoạn thứ hai: lập gia đình, sinh con cái, làm ăn kiếm
sống.
3-
giai
đoạn thứ ba: rút về tu tập.
4-
giai
đoạn thứ tư: đi vào rừng sống như một du sĩ lang thang
không cần nhà cửa.
Những
người phạm chí (brahmanas), sau khi sống cuộc đời thế gian
thì rút lui vào rừng. Có những người tu tập rất giỏi và
trở thành những đạo sĩ, những bậc hiền giả gọi là phạm
chí hay mâu ni. Trong truyền thống Bà La Môn giáo cũng có chữ
mâu ni để chỉ những người thành công trong giai đoạn thứ
tư của đời sống, từ bỏ cuộc sống gia đình, sống một
mình trong rừng để tìm đạo và đắc đạo.
Sang
bên đạo Bụt chữ mâu ni được sử dụng lại và nó có
nghĩa là một người xuất gia thành công, một người biết
sống một mình, một người đã dứt khoát không còn vướng
bận vào cuộc đời. Người đó có khuynh hướng sống trong
rừng, không có một chỗ ở nhất định và có rất nhiều
tự do.
Khi
Đức thế Tôn thành đạo, người ta xưng tán Ngài là một
vị mâu ni, một bậc mâu ni đích thực. Chữ mâu ni ở đây
có nghĩa là một người xuất sĩ tĩnh lặng. Khi dịch Kinh
Mâu Ni tôi đã dịch là “Kinh người xuất sĩ tĩnh lặng”.
Tĩnh lặng là im lặng, không nói nhiều.
Trong
thời Đức Thế Tôn có nhiều học phái triết học, thường
thì nguời ta nói có sáu học phái. Các học phái triết học
đàm luận, thuyết giảng rất nhiều và tranh chấp với nhau
cũng rất nhiều. Trong Kinh Mâu Ni sắp học, chúng ta được
nhắc nhở, nếu là một vị mâu ni đích thực thì nên buông
bỏ những đàm luận, những lý thuyết và những hí luận.
Một vị mâu ni không cần chủ trương một lý thuyết hay một
ý thức hệ nào. Đối với mộtvị mâu ni, giải thoát là
quan trọng, không vướng bận, có hạnh phúc, có tự do, vượt
thoát được thời gian và không gian và đi vào một thế giới
gọi là kiếp ngoại. Kiếp ngoại là thế giới không có thời
gian, có nghĩa là sống được trong bản môn. Đức Thích Ca
khi thành đạo đã sống một đời sống như vậy, người
ta gọi Ngài là một bậc mâu ni lớn, Maha-muni hay Đại mâu
ni.
Quí
vị
đã từng học Duy Thức Tam Thập Tụng của ngài Thế Thân
(Vasubandhu), trong đó có bài tụng thứ 30:
Thử tức vô lậu giới
此即無漏界
Bất
tư nghị, thiện thường
不思議善常
An
lạc, giải thoát thân
安樂解脫身
Đại
mâu ni danh pháp
大牟尼名法
Trong
bài này chữ Đại mâu ni là chỉ Đức Thế Tôn. Đó là giáo
pháp vang lừng của Đức Đại mâu ni của chúng ta. Vô lậu
giới là đạt tới chỗ không còn trở lại trong cuộc đời
nữa. Bất tư nghị là không thể diễn tả, đàm luận hay
khái niệm được. Bất khả tư nghị là không thể nói năng,
suy nghĩ hay đàm luận được. Thiện là kusala, an lạc là sukha,
giải thoát thân là vimutti-kaya. Đó là giáo pháp của Đức
Đại mâu ni. Đến thế kỷ thứ năm người ta vẫn còn tiếp
tục xưng tán Đức Thế Tôn là một vị mâu ni lớn, một
ông thầy tu không lý thuyết. Vì vậy chữ Dharma discussion không
hay bằng chữ Dharma sharing, chữ discussion có vẻ đàm luận
quá.
Sutta-Nipāta
thuộc về bộ kinh cổ nhất trong các kinh và được giữ lại
dưới hình thức thi kệ (verse) vì thi kệ có thể dễ dàng
học thuộc và truyền tụng từ thế hệ này sang thế hệ
khác, điều mà văn xuôi khó làm hơn. Vì vậy những Kinh cổ
nhất là những Kinh truyền tụng được giữ lại dưới hình
thức thi kệ. Sau này, những kinh viết bằng văn trường hàng
là do người ta căn cứ vào những thi kệ để làm ra trở
lại thành thể văn xuôi. Trong Kinh, nhất là trong Kinh Đại
Thừa, thỉnh thoảng chúng ta thấy có câu: “Nói tới đây
thì Đức Thế Tôn vì muốn tóm tắt lại, nên nói bài kệ
rằng,…”. Bài văn trường hàng được tóm tắt bằng bài
kệ trùng tụng, nhưng sự thật thì ngược lại, trước hết
có bài kệ tụng và từ bài kệ tụng người ta làm lại thành
văn xuôi.
Các
nhà khảo cứu đều công nhận văn thể của Sutta-Nipāta thuộc
về văn thể cổ nhất, như vậy chứng tỏ rằng Bụt dạy
Kinh này vào những năm đầu sau khi giác ngộ. Lúc đó chưa
có tu viện Kỳ Viên hay tu viện Trúc Lâm. Trong những năm đầu
Đức Thế Tôn là một du sĩ lang thang. Ngài ở chỗ này vài
hôm, ở chỗ kia vài tháng và các đệ tử của Ngài cũng vậy.
Nhiều năm sau đó, vua Bimbisara cúng dường vườn tre cho Ngài
làm tu viện đầu tiên và sau đó vài năm thì ông Cấp Cô
Độc cúng dường tu viện Kỳ Thọ.
Giai
đoạn đầu của Đức Phật là giai đoạn du sĩ tức là giai
đoạn của những vị xuất sĩ du hành (wandering ascetics). Giai
đoạn thứ hai là giai đoạn sống trong tu viện, tức là những
vị xuất sĩ đồng trú trong tu viện. Đến giai đoạn thứ
ba thì đạo Bụt trở thành một tôn giáo. Giai đoạn thứ
tư là giai đoạn truyền kỳ. Đạo Bụt mà người ta theo rất
nhiều bây giờ là đạo Bụt truyền kỳ, mà huyền bí nhất
là đạo Bụt Tây Tạng. Đức Bụt của đạo Bụt Tây Tạng
rất khác với Đức Bụt của những năm đầu lang thang.
Khi
viết cuốn “Đường xưa mây trắng” tôi có chủ ý rõ ràng:
vượt thoát đạo Bụt thần bí và đi tìm lại Đức Bụt
như một con người. Chúng ta có thể vượt thoát khỏi Đức
Bụt của huyền thoại, và cũng vượt thoát luôn cả
Đức Bụt của tín ngưỡng tôn giáo để đi tìm lại Đức
Bụt của thời đại ban đầu khi Ngài mới thành đạo.
Khi
đi vào thế giới của Kinh Sutta-Nipāta chúng ta đã tìm thấy
được khung cảnh đó và được thở một không khí rất trong
lành, mát mẻ. Chúng ta tiếp xúc được với Bụt như một
con người chứ không phải như một thần linh. Sutta-Nipāta
là một cuốn Kinh rất quí, rất cổ xưa. Chúng ta đã trì
tụng vài ba Kinh trong đó như: Kinh Thương Yêu, hay Kinh Sự
Thật Đích Thực. Những Kinh này hiện giờ đang có mặt trong
cuốn Nhật Tụng Thiền Môn bản văn quốc ngữ của Làng Mai,
và thuộc về loại Kinh cổ nhất. Kinh Mâu Ni chúng ta học
ở đây cũng thuộc về loại Kinh cổ nhất. Trong Sutta-Nipāta
có nhiều Kinh lấy đề tài Mâu Ni. Sau khi học Kinh Mâu Ni này
chúng ta sẽ học một số Kinh khác và chúng ta sẽ có cơ hội
so sánh những Kinh của văn hệ Pali với những Kinh mình còn
có được trong Hán Tạng.
Thầy
Tăng Hội từ Việt Nam sang Đông Ngô trong thượng bán thế
kỷ thứ ba và đã gặp được cư sĩ Chi Khiêm. Cư sĩ là người
đã dịch được một phần của Sutta-Nipāta từ văn hệ Sanskrit
hơặc Pali ra chữ Hán. Do đó chúng ta biết, thế nào thầy
Tăng Hội cũng có mời cư sĩ Chi Khiêm về chùa Kiến Sơ. Chỉ
tiếc là sử sách không ghi chép lại sự liên hệ và sự làm
việc chung của hai vị. Sử ghi lại, lúc thầy Tăng Hội qua
Đông Ngô thì ở đó chưa có vị xuất gia nào, chỉ có một
cư sĩ đang dịch Kinh tên Chi Khiêm. Chi Khiêm là thầy dạy
học cho thái tử và thầy Tăng Hội cũng được vua Tôn Quyền
ủng hộ lập ngôi chùa đầu tiên ở Đông Ngô. Vì thế hai
người không thể không biết nhau, hai người chắc chắn đã
biết nhau và làm việc chung với nhau, có thể là trong chùa
Kiến Sơ. Có thể là thầy Tăng Hội đã mời cư sĩ Chi Khiêm
tới chùa Kiến Sơ để dịch kinh. Một trong những bằng cớ
cho việc này là thầy Tăng Hội đã lấy một Kinh do cư sĩ
Chi Khiêm dịch để đưa vào Lục Độ Tập Kinh của mình.
Trong Lục Độ Tập Kinh có rất nhiều Kinh, trong đó có một
Kinh lấy từ bản dịch của Chi Khiêm, đó là Kinh Kính Diện
Vương. Kinh này cũng có hai bản dịch cho chúng ta so sánh, một
bản bằng tiếng Pali và một bằng chữ Hán.
Một
vị mâu ni đích thực là một vị có đạo đức. Có thể
có những người không thật sự là mâu ni, nhưng vẫn thích
người ta gọi mình là mâu ni. Có những mâu ni thật và mâu
ni giả, vì vậy Đức Thế Tôn bị người ta hỏi: “Gotama,
Ngài nói cho chúng con biết thế nào là một vị mâu ni đích
thực đi?” Do đó Bụt đã nói Kinh này, Kinh Mâu Ni. Ta hãy
đọc bài kệ đầu.
Bài
kệ 1:
Còn
ái dục thì còn sợ hãi. Còn vướng vào đời sống thế tục
thì ham muốn còn phát sinh. Xuất gia để được sống thảnh
thơi, buông bỏ được mọi ham muốn và sợ hãi, đó là cái
thấy, cái làm của vị mâu ni, của người xuất sĩ.
Ở
đây nói rất rõ ràng, điều kiện đầu tiên của một vị
mâu ni là không có liên hệ tình dục. Có liên hệ tình dục
thì không phải là một vị mâu ni tại vì tình dục đưa tới
sự sợ hãi. Sống cuộc đời của người cư sĩ thì không
thể nào có những điều kiện như người xuất gia. Còn sống
trong đời thế tục thì những ham muốn về tình dục vẫn
còn cơ hội phát sinh. Khi tình dục phát sinh thì mình không
có an lạc, hạnh phúc, lúc ấy chính mình sẽ phá tan an lạc
hạnh phúc của chính mình và của người khác. Vì vậy điều
kiện đầu tiên của một vị xuất sĩ, của một vị mâu
ni là không liên hệ tình dục.
Trong
năm giới của người tại gia, giới đầu là giới bất sát,
giới không giết hại. Đến giới sa di và sa di ni vẫn còn
lấy bất sát làm giới đầu. Nhưng khi trở thành một vị
khất sĩ thì giới đầu không phải là giới bất sát mà là
giới bất dâm (không vướng vào tình dục). Đó là điều
kiện đầu tiên của một người xuất sĩ. Đời sống phạm
hạnh bắt đầu từ sự dứt khoát buông bỏ ái dục. Nếu
người xuất gia giải thoát được, sống được đời sống
phạm hạnh chính là nhờ điều kiện đầu tiên này, dứt
khoát buông bỏ ái dục. Trên thực tế, không chỉ người
xuất gia phải thực tập mà người tại gia cũng phải thực
tập nhiều lắm. Người xuất gia thực tập điều này dễ
dàng hơn người tại gia vì môi trường của người xuất
gia vốn sẵn có sự thanh tịnh nên có thể vứt bỏ ái dục
dễ dàng còn người tại gia vướng vào hoàn cảnh vứt bỏ
ái dục rất khó vì những hoàn cảnh khêu gợi xung quanh tạo
ra cho mình những dục tưởng. Nhất là bây giờ chúng ta sống
trong một thế giới mà người ta luôn luôn tìm cách khơi dậy
sự ham muốn tình dục trong con người.
Trong
“Sám pháp địa xúc” có đoạn chúng ta phát lộ với Đức
Thế Tôn về vấn đề tình dục:
Kính
bạch Đức Thế Tôn, trong quá khứ con đã không biết cách
xử lý năng lượng tình dục của con, cho nên con đã tạo
ra nhiều lầm lỡ.
Đây
không
phải chỉ là sự thực tập của người xuất gia mà
còn là sự thực tập của người tại gia bởi vì quý vị
có thể đã từng khổ đau và từng gánh chịu những đổ
vỡ rất lớn do tình dục gây ra.
Con
biết con người cũng là một loại động vật thì năng lượng
tình dục có mặt trong con là một điều tự nhiên. Nhưng tại
vì trong quá khứ con chưa biết sống, chưa biết thực tập
nên con đã để hạt giống tình dục được tưới tẩm quá
nhiều cho đến nỗi có lúc con đã lao đao và mất hết bình
an vì sự phát hiện của năng lượng đó. Con đã đọc những
sách báo, xem những phim ảnh có nhiều hình ảnh khêu gợi
và kích thích dục tình.
Thực
sự bây giờ, hạt giống tình dục trong người trẻ tuổi
cũng như người lớn được tưới tẩm rất nhiều mỗi ngày,
không những bằng sách báo, truyền hình, mà còn bằng internet,
bằng quảng cáo. Khi hạt giống tình dục được tưới tẩm
thì mình mất an lạc.
Chúng
ta thấy rất rõ, trong sự thực tập này thì người xuất
gia dễ dàng hơn nhiều so với người tại gia vì người xuất
gia đã dứt bỏ hoàn cảnh bên ngoài để được che chở bởi
một môi trường mà trong ấy hạt giống tình dục không bị
tưới tẩm nhiều như ở ngoài đời.
Con
biết trên thị trường hiện nay người ta làm giàu bằng cách
bán dâm rất nhiều, không phải chỉ sử dụng thân xác mà
còn bằng âm thanh, hình ảnh và dụng cụ. Hình ảnh khêu gợi
dục tình đâu đâu cũng có, trên sách báo, trên màn ảnh vô
tuyến, nơi rạp chiếu bóng, trên các hình quảng cáo, trong
những cuốn băng, những đĩa hình và trong mạng lưới internet.
Tuổi trẻ bây giờ đang là nạn nhân của thị trường đó.
Hạt giống tình dục được tưới tẩm hàng ngày nhiều lần
và thanh niên, thiếu nữ từ mười ba tuổi trở đi sa vào
lưới cám dỗ của dục tình, số lượng đó đã vượt quá
mức báo động. Con biết đây là một thảm họa cho người
trẻ tuổi, biết tình dục mà chưa biết thương yêu.
Tuổi
trẻ chưa biết thương yêu là gì, chỉ biết tình dục (sex)
gọi là empty sex (tình dục mà không có tình yêu). Rất là
tội nghiệp cho tuổi trẻ! Khi bị empty sex kéo đi rồi thì
làm sao biết được thương yêu đích thực.
Những
thiếu niên, thiếu nữ này, khi lớn lên sẽ không có cơ hội
thấy được thế nào là tình yên đích thực. Sự thực tập
thủ dâm đưa tới những kết quả tương tự, chỉ làm cạn
khô nguồn suối thân tâm mà không cho con người cơ hội biết
thế nào là thương yêu.
Bạch
Đức Thế Tôn, con đã được dạy về sự thực thân tâm
nhất như, và con biết rằng những gì xảy ra cho thân mình
cũng là xảy ra cho tâm mình, cho nên con đã phát nguyện giữ
gìn thân tâm conn, không để cho những hạt giống tình dục
được tưới tẩm và không để bị lôi kéo vào thói quen
của sự thủ dâm.
Con
nguyện từ nay trở đi không đọc sách báo và xem phim ảnh
kích động dâm tính, không nghe và không nói những câu chuyện
về dâm dục, không sử dụng điện thoại và máy vi tính để
tiếp xúc với những âm thanh và hình ảnh kích động dâm
tính. Con cũng nguyện góp sức để vận động thắp sáng ý
thức về những tai hại của sự kích động dâm tính, nguyện
làm được tất cả những gì con có thể làm để tạo ra
môi trường sinh sống lành mạnh cho các giới trong xã hội,
nhất là cho các thế hệ trẻ.
Bạch
Đức Thế Tôn, từ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp, chúng con
đã vì vô minh che lấp tâm trí mà không thấy được rằng
năng lượng ái dục nếu không được nhận diện và bảo
hộ có thể gây ra tàn hại trong thân tâm, trong gia đình và
xã hội chúng con. Vì vô minh, vì không biết phép thực tập
bảo hộ thân tâm, vì không tạo được môi trường văn hóa
và xã hội lành mạnh, chúng con đã phạm giới tà dâm, đã
hiếp đáp, đã lạm dụng tình dục trẻ em và ngay con cháu
của chúng con trong vấn đề tình dục, đã gây đổ vỡ và
khổ đau kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Chúng
con ý thức rằng nếu chúng con không thực tập chánh niệm
vững vàng trong lãnh vực tiếp thọ, tiếp xúc thì hạt giống
tình dục trong chúng con sẽ bị tưới tẩm hàng ngày và mỗi
khi hạt giống đó được tưới tẩm, khi năng lượng tà dục
phát khởi thì thân và tâm chúng con không còn được an ổn
và chúng con sẽ bị năng lượng ấy thúc đẩy đi tìm sự
thỏa mãn tà dục.
Tại
sao SIDA (HIV) đang làm tiêu hao hàng triệu sinh mạng mỗi năm?
Có hàng triệu người đồng tính và khác tính chết vì sự
truyền nhiễm. Bất cứ ai trong chúng con nếu không thực tập
chánh niệm cũng có thể rơi vào trong hiểm họa ấy ngay trong
chốc lát. Lưỡi hái của thần chết SIDA làm rơi rụng hàng
trăm ngàn sinh mạng con người từng giờ từng phút, còn khốc
hại hơn những trái bom nguyên tử. Thế giới của chúng con
đang bị ngọn lửa của tà dục làm cho bốc cháy.
Xin
Đức Thế Tôn và Đức Bồ Tát Quan Âm xót thương rải xuống
trên hành tinh chúng con những giọt nước thanh lương. Chúng
con biết chỉ có tình thương và ý thức trách nhiệm mới
cứu được thế giới chúng con ra khỏi địa ngục tạo ra
bởi sự tưới tẩm hạt giống tình dục.
Chúng
ta thấy rõ ràng sự khổ đau, tan nát của gia đình, xã hội
và sự tiêu hủy sinh mạng của hàng triệu người là do hạt
giống tình dục. Lời Kinh nói rất rõ: Ái dục tạo ra sự
sợ hãi. Còn vướng vào cuộc sống thế tục thì những hạt
giống của ái dục còn phát sinh. Có những người quyết tâm
muốn rời bỏ, muốn ra khỏi môi trường này. Họ muốn trở
thành một vị xuất gia, một người xuất sĩ, một vị mâu
ni để khỏi đau khổ vì chuyện đó, họ đã chọn lựa.
Bài
kệ 2
Hạt
giống đã sinh nay đã được đoạn diệt, không còn gieo trồng,
không để cho sinh khởi và lớn lên trở lại. Đó là hạnh
người xuất sĩ. Trong đời sống hàng ngày đừng để cho
hạt giống đó được tưới tẩm, làm thế nào để tiêu
diệt hạt giống đó. Một kẻ như thế được gọi là một
mâu ni. Làm như thế thì bậc hiền nhân lớn kia đã đã đạt
tới được bình an thật sự.
Mình
đã quyết tâm đoạn diệt hạt giống ái dục rồi thì không
còn gieo trồng để nó sinh khởi và lớn lên trở lại. Tất
cả chúng ta đều có hạt giống đó. Là người xuất gia chúng
ta đã quyết tâm dứt bỏ nó. Chúng ta đã dứt khoát đoạn
trừ rồi thì tại sao phải để cho hạt giống đó được
tưới tẩm trở lại? Chúng ta đọc lại:. Trong đời
sống hàng ngày đừng để cho hạt giống đó được tưới
tẩm, làm thế nào để tiêu diệt hạt giống đó. Một kẻ
như thế được gọi là một mâu ni. Làm như thế thì bậc
hiền nhân lớn kia đã đạt tới bình an thật sự. Trước
hết mình đạt tới sự bình yên, sự an lành. Giữ giới là
được che chở. Vì vậy khi tụng giới xuất sĩ chúng ta biết
giới đầu của khất sĩ nam và khất sĩ nữ là không dâm
dục. Hễ có sự dâm dục thì không còn là một vị khất
sĩ, một vị mâu ni nữa, dứt khoát là như vậy. Đó là giới
đầu tiên, chúng ta có phạm hạnh hay không là do giới đầu.
Bài
kệ 3
Đã
xem xét đất đai, đã quyết tâm vứt bỏ hạt giống xấu
và không còn cung cấp chất ướt cho hạt giống ấy mọc lên.
Vị mâu ni khi buông bỏ được hí luận và đạt tới vô sinh
thì không ai có thể tư lường được về người ấy nữa.
Đã
xem xét đất đai: đất đai là tâm của mình (having looked deeply
into the ground). Đã quyết tâm vứt bỏ hạt giống xấu và
không còn cung cấp chất uớt cho hạt giống ấy mọc lên:
Cung cấp chất ướt là tưới, nếu không có chất ướt thì
làm sao hạt giống ấy mọc lên? Phải để cho hạt giống
đó khô, đừng đem nước mà tưới. Những dụng cụ như điện
thoại, laptop, nếu không khéo thì chính là chất ướt tưới
cho hạt giống mọc lên rất mau. Những uy nghi giúp chúng ta
cương quyết không cung cấp chất ướt cho hạt giống nẩy
mầm sinh trở lại. Trong chùa chúng ta thực tập uy nghi, giới
luật là chắc ăn nhất. Chúng ta cùng thực tập chung, người
nào cũng thực tập như vậy, nhất định không sử dụng những
bình tưới đó tại vì hễ tưới là mất bình an, là không
còn được bảo hộ. Vị mâu ni khi đã buông bỏ được hí
luận và đạt tới vô sinh thì không ai còn có thể tư lường
về người ấy nữa: Chữ hí luận là philosophical speculations.
Đây là một dấu hiệu cho ta biết đó là một vị mâu ni:
một người không còn tranh luận về chủ thuyết, về ý thức
hệ, về triết học. Vị mâu ni phải im lặng, phải làm việc,
phải nhổ hết tất cả sự ham muốn và vô minh. Đó là việc
làm của một vị mâu ni chứ không phải là việc học hỏi
và đàm luận về triết học.
Chữ
học trong đạo Phật có nghĩa là hành (siksa). Những giới
điều trong giới bản được gọi là những học pháp. Học
pháp là một phép thực tập, như sáu học pháp của Thức
Xoa Ma Na là để thực tập chứ không phải để học hỏi,
đàm luận. Đó là ý nghĩa của chữ mâu ni: im lặng và thực
tập, không tranh luận. Trong thời của Đức Thế Tôn sáu phái
triết học tranh luận rất nhiều, có bốn phái theo duy vật
chủ nghĩa và hai phái theo duy tâm chủ nghĩa. Họ tranh luận
nhau để có được nhiều người theo. Đây là thái độ và
lập trường của Đức Thế Tôn: Không vướng vào tranh luận,
im lặng. Chữ mâu ni có nghĩa là im lặng. Buông bỏ được
hí luận và đạt tới vô sinh rồi thì không ai có thể tư
lường được về người ấy nữa: Tư lường về người
ấy trong nguyên văn là chữ samkha. Samkhati là tính toán, sử
dụng những con số, sử dụng sự suy nghĩ và lý luận, nhận
diện, gọi tên. Khi một vị mâu ni buông bỏ được hết tất
cả, đạt tới sự vô sinh thì chúng ta không thể liệt người
đó vào được một trong những phạm trù của trí óc. Chúng
ta không thể nói được về người đó vì người đó đã
thoát ra khỏi sự suy nghĩ, đàm luận và những ý niệm. Chúng
ta nói một vị mâu ni là một nhà triết học không đúng mà
nói là một nhà đạo học cũng không đúng. Chúng ta nói một
vị mâu ni là thánh không đúng mà nói là phàm cũng không đúng.
Không có một ý niệm nào, một lời nói nào có thể diễn
tả được một vị mâu ni. Một vị mâu ni không thể được
nắm bắt bằng ý niệm hay bằng lý thuyết.
Trong
tiếng Phạn có chữ anupalabhya, có nghĩa là bất khả đắc,
không thể nắm bắt được. Chúng ta không thể đặt người
đó vào trong một phạm trù nào của tư tưởng. Chúng ta không
thể gọi người đó là nhà triết học hay nhà tôn giáo. Không
có danh từ nào có thể dùng để gọi một vị mâu ni.
Chúng
ta không thể tư lường được về một vị mâu ni, tại vì
một vị mâu ni đã bỏ hết mọi hí luận, lặng lẽ, không
theo một chủ thuyết nào. Đó gọi là bất khả tư nghị,
không thể đặt người đó vào một phạm trù của tư tưởng.
Chúng ta cũng không thể gọi người đó là một nhà triết
học, một nhà đạo học, một nhà khoa học hay một nhà tôn
giáo. Chúng ta không thể gọi người đó bằng bất cứ một
tên nào, không thể có khái niệm về người đó. Người đó
đã thoát ra ngoài tất cả mọi khái niệm, đó là một vị
mâu ni.
Bài
kệ 4
Kẻ
ấy đã thấy biết được mọi nẻo sinh thú mà không còn
muốn đi về một nẻo nào trong các nẻo ấy. Kẻ đã vứt
bỏ được tham và si.Kẻ ấy không còn bận tâm lao nhọc theo
đuổi bất cứ một cái gì nữa cả vì kẻ ấy đã qua được
bờ bên kia.
Chữ
sinh thú 生 趣 có nghĩa là nẻo về, nẻo về loài này hay
loài khác gọi là tứ sinh cửu hữu. Thú 趣 là nẻo về như
ngũ thú lục đạo tức là thiên, nhân, atula, địa ngục, ngạ
quỷ và súc sinh. Có loài hai chân và loài bốn chân. Người
đó biết tất cả các nẻo về nhưng không ham muốn đi về
một nẻo nào trong những nẻo đó.
Đã
vứt bỏ được tham và ái, kẻ ấy không còn bận tâm lao
nhọc theo đuổi một cái gì nữa cả: Tư tưởng này, tuệ
giác này sau được gọi là vô đắc hay vô tác (aprātitva),
không theo đuổi gì nữa cả, không có mục đích (aimless),
không còn muốn gì nữa hết. Kể ấy không còn bận tâm lao
nhọc theo đuổi bất cứ một cái gì nữa cả vì kẻ ấy
đã qua được bờ bên kia: Bờ bên kia là paramita. Trong bài
kệ thứ tư chúng ta thấy hạt giống của tư tưởng vô đắc,
tư tưởng paramita (đáo bỉ ngạn).
Bài
kệ 5
Kẻ
ấy đã vượt thoát tất cả, đã liễu tri tất cả, đã có
tuệ giác, không còn vướng bận vào bất cứ gì, đã buông
bỏ mọi tham cầu, đạt tới thảnh thơi nhờ diệt trừ tham
dục. Kẻ ấy được các bậc hiền nhân gọi là một mâu
ni.
Bài
kệ này định nghĩa thế nào là một mâu ni.
Bài
kệ 6
Kẻ
ấy có tuệ lực, kẻ ấy được sinh ra từ giới và hành,
chuộng tĩnh lặng, ưa thiền duyệt, ngày đêm chánh niệm,
không còn bị sai sử bởi tập khí, kẻ ấy được các bậc
hiền giả gọi là một mâu ni.
Tuệ
lực là sức mạnh của trí tuệ, kẻ ấy có sức mạnh do
trí tuệ đem tới. Tuệ giác là một sức mạnh. Vị mâu ni
là một người có sức mạnh do tuệ giác đem lại. Đạo Phật
có nói tới ngũ lực: tín, tấn, niệm, định, tuệ. Tín là
niềm tin, tấn là sự chuyên cần, niệm là chánh niệm, định
là sự tập trung và Tuệ là tuệ giác. Tuệ giác là một nguồn
năng lượng, là một sức mạnh và một vị mâu ni có nguồn
sức mạnh đó.
Kẻ
ấy được sinh ra từ giới và hành: Giới được làm bằng
chánh niệm, luôn luôn thức tỉnh, tinh cần. Hành là sự thực
tập. Một vị mâu ni là một người được sinh ra từ giới
luật và sự thực tập. Chúng ta thực tập giới luật bằng
sự thực tập chánh niệm. Sinh mạng tâm linh của mình có
được là nhờ giới và hành.
Kẻ
ấy sinh ra từ giới và hành, chuộng tĩnh lặng, ưa thiền
duyệt: Đó là hai sở thích của người ấy. Người đó không
thích ồn ào, ưa cái vui của thiền định. Ngày đêm chánh
niệm, không còn bị sai sử bởi tập khí, kẻ ấy được
các bậc hiền giả gọi là một bậc mâu ni.
Bài
kệ 7
Kẻ
ấy bước đi một mình, tinh cần, tỉnh thức, không còn bị
khen chê động tới, như một con sư tử không còn run sợ trước
âm thanh của bất cứ một loài thú nào, như một làn gió
không bị vướng vào bất cứ một chiếc lưới nào,
trong sáng như một dòng nước, tinh khiết như một đóa sen,
đưa lối cho người mà không bị ai lôi kéo, kẻ ấy được
các bậc hiền giả gọi là một bậc mâu ni.
Đi
một mình là một điều kiện của một vị mâu ni. Dù cho
có đệ nhị thân người ấy cũng bước đi một mình, là
người biết sống một mình. Không đàn đúm, không cần phải
có đám đông mới có hạnh phúc, người ấy luôn luôn có
chánh niệm và độc cư. Độc cư không có nghĩa là sống một
mình, độc cư có nghĩa là không đánh mất mình, luôn luôn
an trú trong giây phút hiện tại. Điều này được diễn bày
rõ ràng trong “Kinh người biết sống một mình”. Sống một
mình không hẳn là phải xa lánh con người mà là không đánh
mất mình, không có tham dục, tham dục là một thân thứ hai.
Hình ảnh người bước đi một mình là hình ảnh của một
vị mâu ni (solitary life).
Tinh
cần, tỉnh thức, không còn bị khen chê động tới: Được
khen không động tâm mà bị chê người ấy cũng không động
tâm. Như một con sư tử không còn run sợ trước âm thanh của
bất cứ một loài thú nào: Khi con sư tử gầm lên thì tất
cả mọi loài thú đều sợ. Nhưng khi tất cả loài thú kia
la lên thì không một tiếng kêu nào làm cho sư tử sợ. Đây
là một hình ảnh rất đẹp!
Như
một làn gió không bị vướng vào bất cứ một chiếc lưới
nào: Chiếc lưới kia có thể bắt chim, bắt thú, nhưng người
xuất sĩ như một làn gió, không một màn lưới nào có thể
bắt lại được. Hình ảnh này cũng rất đẹp, rõ ràng đúng
là cách diễn tả của một thi sĩ.
Rung
MaiTrong sáng như một dòng nước, tinh khiết như một đóa
sen, đưa lối cho người mà không bị ai lôi kéo, kẻ ấy được
các bậc hiền giả gọi là một bậc mâu ni: Đây cũng là
những hình ảnh rất đẹp! Hình ảnh một con sư tử không
khiếp sợ trước bất cứ một loài thú nào, hình ảnh một
làn gió không vướng vào bất cứ một chiếc lưới nào, hình
ảnh một dòng nước trong, một bông hoa sen, đó là những
hình ảnh rất đẹp của một vị mâu ni đang bước đi một
mình, ngồi một mình, không bị vướng bận.
Bài
kệ 8
Vững
như cây trụ trên bãi tắm, không bị ai xoay chuyển lung lạc,
không còn đam mê, sáu căn thường tĩnh lặng, kẻ ấy được
các bậc thức giả gọi là một bậc mâu ni.
Sáu
căn thường tĩnh lặng tại vì người đó có khả năng hộ
trì sáu căn, luôn luôn có mặt, nhận diện được những gì
mình thấy, mình nghe, mình xúc cảm mà không bị những cái
đó cuốn theo làm cho xôn xao. Người đó luôn luôn giữ được
sự tĩnh lặng.
Bài
kệ 9
Tâm
vững chãi, đoan chính như một con thoi, ghê sợ những hành
động thấp hèn, biết phân biệt rõ ràng đâu là tà, đâu
là chính, kẻ ấy được các bậc thức giả gọi là một
vị mâu ni.
Bài
kệ 10
Biết
tiết chế, không làm điều bất thiện, vị xuất sĩ, dù còn
niên thiếu hay tuổi đã cao, biết sống tri túc, không bị
ai thách thức và cám dỗ mà cũng không thách thức và cám
dỗ ai, kẻ ấy được các bậc thức giả gọi là một vị
mâu ni.
Bài
kệ 11
Tiếp
nhận thức ăn cúng dường, dù trước dù sau, dù hậu dù bạc,
với tâm niệm bình đẳng, an nhiên, không khen chê, không kén
chọn, kẻ ấy được các bậc thúc giả gọi là một vị
mâu ni.
Trong
nguyên văn Kinh nói: Mình tới trước được cúng dường phần
trên thì không khởi tâm vui thích, mình tới sau được phần
giữa hay tới sau nữa được vét nồi thì mình cũng không
giận, không buồn, tâm niệm hoàn toàn bình đẳng, không khen
chê, không kén chọn. Đó gọi là một vị mâu ni.
Bài
kệ 12
Sống
phạm hạnh, tuy còn trẻ tuổi mà không bị vướng mắc vào
ai, không tự cao, không phóng dật, một mình đi thảnh thơi,
kẻ ấy được các bậc thức giả gọi là một vị mâu ni.
Có
thể có những vị mâu ni 18 hay 20 tuổi, tuy còn trẻ mà không
bị vướng mắc vào ai thì được gọi là một mâu ni. Hồi
Đức Thế Tôn mới về thành Vương Xá lần đầu, những người
tuổi trẻ đi xuất gia rất đông. Có người còn rất trẻ,
khi nhìn hình ảnh của Đức Thế Tôn, họ rất thích và cũng
muốn làm như Ngài. Họ muốn trở thành một vị mâu ni trẻ
tuổi. Xã hội Ấn Độ thời đó rất khao khát đời sống
tâm linh đạo đức, đời sống tinh thần.
Bài
kệ 13
Đã
thấy được chân tướng của thế gian, đã đạt tới đệ
nhất nghĩa đế, đã vượt dòng sinh tử, đạt tới vô sinh,
chấm dứt được mọi hệ lụy và phiền não, kẻ ấy được
các bậc thức giả gọi là một vị mâu ni.
Đã
thấy được chân tướng của thế gian: Thấy được sự thật
ngoài đời, không còn ảo tưởng, thấy được mặt mũi thật,
chân tướng của cuộc đời.
Đã
đạt
tới đệ nhất nghĩa đế: Kẻ ấy đã thấy được
sự thật, không phải sự thật tương đối mà thấy được
sự thật tuyệt đối là vô sinh bất diệt, vô khứ vô lai
(paramārtha).
Bài
kệ 14
Người
cư sĩ vướng vào vợ con, phải chăm sóc lo lắng, thiếu điều
kiện bảo vệ sự sống cho mọi loài, khó sống tiết chế
và thiểu dục; người xuất sĩ trái lại, nhờ cát ái từ
thân, sống thảnh thơi, có cơ hội giúp đời và bảo vệ
sinh mạng cho mọi loài, sống tiết chế và thiểu dục một
cách dễ dàng.
Cát
ái là cắt đứt những dây ân ái. Đây là vấn đề hoàn
cảnh, vấn đề tăng thân. Người cư sĩ cũng có thể làm
được nhưng khó hơn nhiều, người cư sĩ sống tiết chế
và thiểu dục rất khó tại vì mỗi ngày đều bị hoàn cảnh
tưới tẩm hạt giống của ham muốn, hạt giống của dục.
Các vị cư sĩ đa phần ăn mặn, không bảo hộ được sinh
mạng của các loài chúng sinh, không bảo hộ được trái đất
nhiều bằng người xuất sĩ. Người xuất sĩ sống tiết chề
và thiểu dục rất dễ dàng vì được ở trong một môi trường
có sẵn sự thanh tịnh. Người xuất sĩ ăn chay trăm phần
trăm, làm giảm thiểu được khổ đau của mọi loài và chuyển
ngược quá trình hâm nóng địa cầu dễ hơn. Người cư sĩ
bận rộn việc gia đình, phải lo kiếm sống, phải giết hại
sinh mạng, không có cơ hội sống tiết chế và tri túc. Đây
là sự so sánh giữa hai nếp sống: một nếp sống tu tập
rất dễ và một nếp sống tu tập rất khó. Ở Việt Nam người
ta thường nói: Thứ nhất là tu tại gia, thứ hai tu chợ và
thứ ba tu chùa, tu ở chùa dễ nhất. Cho nên đi xuất gia là
khôn vì biết tìm con đường dễ mà đi.
Bài
kệ 15
Con
chim công cổ xanh khi bay lên không gian không thể nào sánh được
với con thiên nga. Người thế tục vướng bận trong cuộc
đời không thể nào so sánh được với người xuất sĩ đang
ngồi thiền định một mình trên núi.
Con
chim công cổ xanh, con chim công xoè đuôi ra rất đẹp, khi bay
lên không gian thì không thể nào sánh với con thiên nga. Con
thiên nga bay rất mau. Người thế tục vướng bận trong cuộc
đời không thể nào so sánh với bậc xuất sĩ đang ngồi thiền
định một mình trên núi: Đây là một hình ảnh khác rất
đẹp của Kinh Mâu Ni: Bạch vân thâm xứ tọa thiền tăng.
Một thiền tăng đang ngồi một mình ở chỗ núi rừng có
mây bao phủ. Trong Sutta-nipāta có một Kinh, trong đó có một
cư sĩ hỏi: “Thế nào là đời sống lý tưởng của một
người xuất gia và thế nào là đời sống lý tưởng của
một người tại gia?”. Chúng ta sẽ học Kinh này sau. Kinh
Mâu Ni ở đây chỉ nói về người xuất gia nhưng Kinh trên
có so sánh hai nếp sống, có rất nhiều điều Bụt gửi gắm
và trông chờ ở người tại gia.
Thích
Nhất Hạnh (Chân Giác Lưu phiên tả)
http://www.thuvienhoasen.org