Pháp khí hay còn gọi là Phật khí, là dụng cụ trong tu chứng Phật
pháp, giúp người tu hành thực hiện các nghi thức Phật giáo và sinh
hoạt Phật pháp. Những dụng cụ được sử dụng trong các Phật sự như tu
pháp, cúng dường, pháp hội, hay những vật dụng mà giáo đồ Phật giáo
thường mang theo người như tràng hạt, tích trượng, đều được gọi là pháp
khí .
Phật giáo Tây Tạng sở hữu một lượng pháp khí phong phú, được làm từ
nhiều vật liệu khác nhau, chủ yếu đúc bằng vàng, bạc, đồng, tạo hình
sâu sắc, mỗi loại pháp khí mang một hàm nghĩa tôn giáo khác nhau, mang
đậm màu sắc thần bí. Về cơ bản pháp khí có thể chia làm sáu loại lớn là
kính lễ, tán tụng, cúng dường, trì nghiệm, hộ thân, khuyến giáo. Như
cà sa, vòng cổ, kha-ta là pháp khí kính lễ; chuông, trống, sáo xương,
vỏ ốc, đàn lục huyền, kèn thuộc loại pháp khí tán tụng; tháp, đàn
thành, bát bảo, thất bảo, đàn cúng, lọng hoa thuộc loại pháp khí cúng
dường; Tràng hạt, mõ, chùy kim cương, bình quán đỉnh, bát sọ
người thuộc loại pháp khí trì nghiệm; Phật hộ pháp, bùa bí mật là pháp
khí hộ thân; đèn mani, bánh xe mani, đá có khắc hoặc viết chân ngôn
sáu chữ thuộc loại pháp khí khuyến giáo.
Chuông Chày Kim Cang
Chày và chuông cũng là những pháp khí
không thể thiếu trong các pháp đàn, các nghi quỹ tu trì của Mật Tông.
Chày và chuông thường được làm bằng bạc hoặc đồng. Vì do những rung
động của những phân tử kim loại này có ảnh hưởng tốt tới khí mạch trong
cơ thể con người.
Chuông: tượng trưng cho phương tiện.
Chày: tượng trưng cho trí tuệ.
Dao Phurba (Kilaya)
Kila hay Kilaya là một con dao găm có
dạng tam giác, là đại diện cho thực tế tận cùng của ba cánh cửa giải
thoát - tính trống rỗng, sự độc nhất, vô sở cầu - là sự đồng nhất của
Tam Thân Phật, các năng lực này được huy động hết tất cả vào tại một
điểm để chiến thắng tất cả mọi tội lỗi và chuyển hoá nó thành tốt lành.
Vajrakilaya, hay kila, có nghĩa là một thứ gì đó sắc nhọn, một thứ
dùng để đâm, chọc xuyên qua các thứ khác, đại loại như là một con dao
găm. Một con dao găm mà nó quá bén đến mức có thể đâm xuyên mọi thứ,
trong khi không thể có cái gì đâm xuyên qua được. Sự sắc bén và năng
lượng xuyên thủng mọi thứ này là những gì được sử dụng trong thực hành
và là phương pháp quan trọng nhất trong những phương tiện vô lượng
không thể tính đếm của Kim Cang Thừa.
Dao phurba và hành giả thực hành pháp
này ở đâu thì nơi đó sẽ được an bình, tránh được các não hại, ma
chướng. Sự thực hành các pháp bí mật lại sớm được thành tựu do oai lực
bất khả tư nghì của pháp khí + đàn pháp này.
Tương truyền ngài Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche) cũng đã từng thực hành đàn pháp kilaya với pháp khí này để thành tựu
Vajrakilaya là một trong những bổn tôn phổ biến nhất được biến đến
khi dùng để tiêu diệt những chướng ngại. Guru Rinpoche đã đạt được giác
ngộ thông qua sự thực hành Yangdag Heruka, tuy nhiên trước đó ngài đã
phải thực hành Vajrakilaya để dẹp, cũng như làm sạch những chướng ngại,
và sau đó, thông qua đó, ngài thực hiện những phần còn lại và đạt được
những gì ngài mong muốn. Do vậy, Vajrakilaya được biết đến thông qua
sự dọn sạch những chướng ngại.
Vajrakilaya được biết đến như là những hiện thân của tất cả mọi hoạt
động của chư Phật. Khi nói đến Vajrakilaya, thì chúng ta còn được biết
đến ngài như là một hoá thân phẫn nộ của Vajrasattva (Kim Cang Tát
Đoả)
Trống Damaru
Trống Damaru là loại trống hai mặt từ
Ấn Độ và Tây Tạng. Trống thường được làm từ gỗ, với mặt trống làm bằng
da. Đôi khi trống có thể được làm từ xương sọ. Có nhiều loại trống có
cái nhỏ khoảng chừng gần 10 cm cho đến cái lớn có thể tới 30cm. Sử dụng
trống damaru bằng một tay. Lắc trống bằng cử động của cổ tay. Trống
Damaru được dùng trong các nghi thức của Phật Giáo Tây Tạng, đặc biệt
là với sự thực hành Chod.
Trống Damaru rất nổi tiếng trong Ấn Độ.
Nó liên quan tới thần Shiva ở dạng Nataraja đang trình diễn điệu vũ của
tanvada. Âm thanh của damaru đại diện cho âm thanh và nhịp điệu nguyên
thủy.
Cờ Tây Tạng
Những là cờ nguyện cầu bay phấp phới
trong gió có thể được tìm thấy cùng với những cọc đá mani bảo trên mái
nhà, dọc đường núi, băng qua sông và những nơi linh thiêng khác
Cờ cầu nguyện thường được làm bằng vải
hình vuông bằng các màu màu trắng, xanh dương, vàng, xanh lá và đỏ. Cờ
được trang hoàng bởi những hình ảnh, thần chú và các lời cầu nguyện.
Thông thường tại tâm của lá cờ cầu nguyện này, đó là hình ảnh của con
ngựa gió là đại diện cho Tam Bảo của Phật Giáo. Ở bốn góc của lá cờ là
những linh thú như là Garuda (Kim Xí Điểu), Rồng, Cọp và Sư Tử Tuyết đó
là bốn linh thú đại diện cho bốn quyền năng: Trí tuệ, quyền năng, sự
tự tin và vô úy
Thỉnh thoảng ta có thể thấy các biểu
tượng cát tường của Phật Giáo ở các góc cạnh của lá cờ. Các khoảng
trống ở giữa được in vào các hình ảnh, lời cầu nguyện và thần chú . Có 2
loại cờ cầu nguyện, loại ngang được gọi là Lungta và loại dọc được gọi
là Darchor.
Cờ ngang thì hình vuông và được nối với
nhau tại cạnh đỉnh trên cùng bằng sợi dây dài. Cái ít phổ biến hơn là
cờ dọc thì thường là những lá cờ vuông riêng biệt hoặc nhóm những lá cờ
vuông được thêu trên cọc được trồng ở mặt đất hay trên mái nhà.
Người Tây Tạng tin rằng các lời nguyện
cầu và thần chú sẽ được thổi tới các cung trời như là những phẩm vật
cúng dường tới các hộ thần của họ và đem lại thật nhiều lợi lạc cho
những ai treo cờ, cho hàng xóm của họ, và cho tất cả chúng sinh, thậm
chí là các loài chim bay trên trời.
Tuy nhiên, nếu cờ được treo sai ngày,
chúng sẽ chỉ đem lại những kết quả tiêu cực. Và càng được treo lâu bao
nhiêu, thì chướng ngại được sinh ra sẽ lớn hơn. Cờ cũ được thay bởi cờ
mới thường niên vào Tết của Tây Tạng.
Vật khí dùng cúng dường Mandala
Trong tu học Mật Tông, thì tích lũy hai
bồ tư lương phước trí là việc cực kì trọng yếu. Chính sự tích tập cùng
lúc 2 thứ này trong pháp tu là sự khác biệt chính yếu làm cho Mật Tông
trở thành pháp tu mà mọi người hay gọi nôm na là “tu tắt” – do sức
nhanh chóng trong việc tích tập đầy đủ hai tư lương này.
Nói về phương pháp tích tập phước đức,
thì trong Mật Tông có rất nhiều pháp. Nhưng trong các pháp, pháp đơn
giản và đem lại lợi lạc nhiều nhất có thể nói đến pháp cúng dường
Mandala. Pháp cúng dường Mandala được đề cập nhiều trong pháp tu
ngondro dự bị trong tất cả mọi dòng truyền thừa của Mật Tông Tây Tạng.
Pháp cúng dường Mandala khi thực hiện
thì dùng đồ cúng dường mandala. Vừa cất lời tụng, tay vừa rãi các hạt
gạo, cát, hoặc đá quý….lên từng vòng, theo thứ lớp để tạo thành
mandala. Ở đây sự cúng dường này không chỉ mang ý nghĩa là chỉ cúng
dường gạo, cát hoặc đá quý…mà là sự dâng hiến lên cho Bổn Sư, cho dòng
truyền thừa, cho Tam Bảo tất cả những thứ tốt đẹp nhất mà mình sở hữu.
Ngoài phước báu lợi lạc do sự cúng dường
này, thực cúng dường mandala còn là một phương pháp tuyệt vời để cắt
bỏ tâm chấp trước, chấp ngã….
Kèn ốc loa
Kèn ốc loa thường được làm bằng vỏ ốc.
Âm thanh được tạo ra của kèn ốc loa khi thổi vào tượng trưng cho
âm Om là âm thanh khởi đầu của vũ trụ ( theo quan niệm của Phật Giáo và
Hindu giáo). Trong kinh, kèn ốc loa còn được xem như Pháp loa là biểu
tượng cho chánh pháp được lưu truyền khắp nơi do sức vang rền, chấn
dộng không gian của nó.
Theo Mật Tông Phật Giáo thì Kèn ốc
loa là một trong 8 thứ quý báu để cúng dường cho Bổn Tôn (hay còn được
gọi là Bát Cúng Dường - bao gồm có nước, rượu, hoa, ánh sáng - nến,
trầm, nước hoa, trái cây và Kèn ốc loa). Kèn ốc loa cũng là thứ bảo vật
mà ta thường thấy ở trong Bát Báu Kiết Tường mà Chakravatin ( Chuyển
Luân Thánh Vương) thường hay sử dụng.
Mạn đà la Kalachakra - Kim Cang Thời Luân
Biểu tượng Kalachakra (Kim Cang Thời Luân) là sự kết hợp của 10
chủng tự mật tông kết hợp với nhau. Là biểu tượng cho 10 quyền lực của
Phật (thập lực). Là tinh hoa của tất cả tinh hoa.
Tương truyền rằng biểu tượng này còn là đại diện cho bàn thờ thập
phương chư Phật. Nếu không có bàn thờ, nếu không có hình ảnh, tôn tượng
của chư vị. Thì chỉ cần thờ hình ảnh của biểu tượng này, cũng xem như
là đã có bàn thờ hướng tới thập phương chư Phật. Công năng, diệu dụng
của Kalachakra thật không thể nghĩ bàn và diễn tả hết được.
Nơi nào có biểu tượng kalachakra, nơi đó sẽ không bị nạn về đất, nước, gió, lửa và được cát tường.
Trống Chod
Một trong pháp môn hành trì của Mật tông nổi tiếng là Chöd để dứt
trừ chấp ngã, theo đó hành giả đi vào trong nghĩa địa lúc 12 giờ đêm và
xướng tụng bài kệ. Chöd trong khi bàn tay phải thì quay một cái trống
lớn.
Kèn Kangling
Chiếc còi làm bằng xương xương đùi làm thoát ra âm thanh như muốn xé nát không gian .
RÌU KIM CƯƠNG
Với hình dáng tương tự như một loại rìu dùng trong chiến đấu thời cổ
đại, ngụ ý Phật pháp là không thể xâm phạm. Thể hiện sự bảo vệ đối với
Phật pháp. Như tạo hình các vị Không Hành Mẫu(Dakini) đầu hổ, Không
hành mẫu đầu sư tử, Đại Uy Đức Kim Cương (Vajrabhairava) trong Phật
giáo Tây Tạng đều mang rìu kim cương.
Ngoài rìu, rìu cong cũng là một loại pháp khí của Mật Tông, với vẽ
ngoài tượng trưng cho chùy kim cương, nhưng phần đuôi có hình chóp
nhọn. Ở chính giữa gắn vào một cán dài, pháp khí này thường thấy trong
các bức họa Thang-kar, thế nhưng số liệu rùi cong trên thực tế rất ít
ỏi. Rìu cong tượng trưng cho đức nhiếp triệu của Như Lai, đưa tất thảy
chúng sinh vào trí tuệ Phật.
Trống Gabbra
Trong tiếng Phạn, gabbra có nghĩa là đầu lâu. Loại trống này được
làm bằng hai nắp sọ người ghép lại với nhau,bịt bằng da khỉ, tang trống
thắt lại, bên dưới có gắn cán nhỏ và dây lụa, bên tang trống buộc thêm
hai cục xương nhỏ. Khi lắc trống. Hai cục xương nhỏ đập vào mặt trống
phát ra âm thanh. Loại trống này thường được sử dụng trong khi tu pháp,
nhằm ca ngợi công đức của chư Phật Bồ Tát, thường được sử dụng phối
hợp với chuông kim cương, chùy kim cương.
Màn kinh
Đây là một pháp khí hết sức phổ biến tại vùng Tây Tạng, thường được
đặt trên nóc nhà, chân núi, bờ sông, ven đường, chùa chiền tu viện. Bên
trên có chép kinh Phật, mỗi khi gió thổi vào màn kinh cũng như tụng
được một lượt kinh, truyền đạt tâm nguyện của con người đến với chư
Phật Bồ Tát để cầu xin sự phù hộ.
Bát Gabbra
Tức là bát sọ người, một đồ đựng có hình chiếc bát được làm từ bát
được làm từ nắp hộp sọ người, phần lớn được chế tác từ nắp hộp sọ của
cao tăng đại đức căn cứ vào di chúc của họ. Miệng bát và lòng bát được
khảm bạc, bên dưới có trôn đế bằng kim loại, người Tây Tạng còn thêm nắp
kim loại cho bát.
Bát sọ người cũng là một pháp khí được dùng trong nghi thức quán
đỉnh, thượng sư Mật Tông đựng nước hoặc rượu trong bát, sau đó nhỏ lên
đầu người thụ pháp, với ngụ ý đem lại sự gia trì.
Khata
Một vật dụng bày tỏ sự tôn kính trong Phật giáo Tây Tạng. Đây là một
tấm lụa mỏng hình chữ nhật, có các màu trắng, đỏ, vàng, xanh lam, dài
từ ba thước đến hơn trượng.
Màu sắc và độ dài của khata có thể thay đổi tùy theo thân phận của
người được nhận, địa vị càng tôn kính thì khata càng dài. Khata màu
trắng là cao quý nhất, tượng trưng cho sự thuần khuyết, cao thượng
Thang-kar
Một loại tranh Phật được bồi trục, một trong những loại hình nghệ
thuật đặc thù của Phật giáo Tây Tạng. Việc bảo quản cất trữ tranh
thang-kar cần tuân theo những quy tắc nhất định, phải cuốn tranh theo
chiều từ dưới lên trên, nếu làm ngượi lại sẽ làm bất kính, phỉ báng
thánh thần.
Thang-kar được dùng trong tu hành chủ yếu với tư cách là đối tượng quán đỉnh và chiêm bái.
Torma
Một loại đồ ăn làm bằng bột mì, bột mạch chín, dùng để cúng tế chư
Phật Bồ Tát, Bản tôn, các vị thần, hoặc bố thí cho vong hồn. Cũng có
khi dùng trong quán đỉnh, tượng trưng cho sự gia trì của thần Bản tôn
đối với đệ tử.
Bánh xe Mani (kinh luân)
Đây là một loại pháp khí được giáo đồ Phật giáo sử dụng trong tụng
niệm, có hình trụ tròn, có thể quay quanh một trục ở chính giữa. Trong
hình trụ này dán các tấm giấy chép kinh văn. Người cầu nguyện vừa xoay
bánh xe mani vừa tụng chân ngôn sáu chữ Om mani padme hum
(Án ma ni bát di hồng ), nhằm ca tụng chư Phật. Bánh xe mani cần phải
xoay theo chiều đồng hồ, xoay được một vòng tượng trưng cho đọc một
lượt thần chú.
Chủng loại và công dụng của pháp khia
a. Chủng loại pháp khí
Pháp khí là những vật dụng dùng trong tu chứng Phật pháp, về cơ bản
có thể chia làm sáu loại, là kính lễ, tán tụng, cúng dường, trì nghiêm,
hộ thân, khuyến giáo.
Kính Lễ: Khata (kha-gtags) : dâng lụa khata dể thể hiện lòng tôn kính với chư Phật.
Cúng dường: đèn nến : dùng của cải và vật chất và tấm lòng thanh tịnh dể cúng dường chư Phật.
Tán Tụng: Sáo xương : dùng âm thanh dể mời gọi chư tôn, thức tỉnh chúng sinh.
Hộ Thân: Hạt ô: mang theo Phật. Bồ Tát bên mình để hộ thân.
Khuyến Giáo: Đá mani: dùng chân ngôn của chư Phật để khuyến giáo chúng sinh cầu phúc cho chúng sinh.
Trì Nghiệm: Bình Quán Đỉnh: dụng cụ dùng trong tu trì, tạo phúc, trấn tà ma.
b. Công dụng của pháp khí
Trong quá trình tu luyện, người tu hành nhờ vào sự trợ giúp của pháp
khí để tăng cường trí tuệ và linh cảm, nhanh chóng đạt đến chứng ngộ.
Pháp khí cũng chính là cầu nối để liên kết người tu hành cới chư Phật
và chúng sinh.
Lục tự đại minh chú: Um Mani Padme Hum – Án Ma Ni Bát Di Hồng
Trì tụng minh chú Om mani padme hum [Án
ma ni bát di hồng] là một việc rất tốt. Tuy vậy, khi tụng chú cần phải
nhớ nghĩ đến ý nghĩa của lời chú, vì sáu âm này mang ý nghĩa thâm sâu
quảng đại vô cùng. Âm thứ nhất, OM, là tổng hợp của ba mẫu tự A, U và
M, tượng trưng cho thân miệng ý ô nhiễm của người tụng chú, đồng thời
cũng tượng trưng cho thân miệng ý thanh tịnh của Phật đà.
Mặt trên của một Mani có 6 chữ là : Om mani padme hum
Có thể nào chuyển thân miệng ý ô nhiễm
thành thân miệng ý thanh tịnh được không? hay đây là hai phạm trù hoàn
toàn tách biệt? Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước
theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có
ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm, mang đủ mọi tánh đức. Thân miệng ý
thanh tịnh đến từ sự tách lìa trạng thái ô nhiễm, chuyển hóa ô nhiễm
thành thanh tịnh.
Chuyển hóa bằng cách nào? Phương pháp tu
được nhắc đến qua bốn âm kế tiếp. MANI [ma ni], nghĩa là ngọc báu,
tượng trương cho phương tiện, là tâm bồ đề, vì chúng sinh mà nguyện mở
tâm từ bi, đạt giác ngộ. Cũng như viên ngọc quí có khả năng xóa bỏ cảnh
nghèo, tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng xóa bỏ sự bần cùng khó khăn
trong cõi luân hồi và niết bàn cá nhân. Như ngọc như ý có khả năng chu
toàn mọi ước nguyện của chúng sinh, tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng chu
toàn mọi ước nguyện chúng sinh.
Hai chữ PADME [bát mê], nghĩa là hoa
sen, tượng trưng cho trí tuệ. Hoa sen từ bùn mọc lên nhưng lại không ô
nhiễm vì bùn. Tương tự như vậy, trí tuệ có khả năng đặt người tu vào vị
trí không mâu thuẫn ở những nơi mà người thiếu trí tuệ đều sẽ thấy đầy
mâu thuẫn. Có nhiều loại trí tuệ, trí tuệ chứng vô thường, trí tuệ
chứng nhân vô ngã (con người không tự có một cách độc lập cố định), trí
tuệ chứng tánh không giữa các phạm trù đối kháng (nói cách khác, giữa
chủ thể và khách thể) và trí tuệ chứng sự không có tự tánh. Mặc dù có
nhiều loại trí tuệ, nhưng chính yếu vẫn là trí tuệ chứng tánh Không.
Trạng thái thanh tịnh có được là nhờ sự
kết hợp thuần nhất giữa phương tiện và trí tuệ, được thể hiện qua âm
cuối, HUM [hồng]. Âm này ứng vào trạng thái bất nhị, không thể phân
chia. Trong hiển thừa, phương tiện và trí tuệ bất nhị có nghĩa là
phương tiện ảnh hưởng trí tuệ, và trí tuệ ảnh hưởng phương tiện. Trong
mật thừa, sự hợp nhất này ứng vào một niệm tâm thức trong đó phương
tiện và trí tuệ đồng loạt hiện hành. Nói về chủng tự của năm vị Thiền
Phật, HUM là chủng tự của Bất Động Phật [Akshobhya], sự đứng yên không
gì có thể lay chuyển nổi.
Vậy Lục Tự Đại Minh Chú, Om mani padme
hum, có nghĩa là dựa vào đường tu kết hợp thuần nhất phương tiện và trí
tuệ mà người tu có thể chuyển hóa thân miệng ý ô nhiễm của mình thành
thân miệng ý thanh tịnh của Phật. Thường nói người tu không thể tìm
Phật ở bên ngoài, tất cả mọi nhân tố dẫn đến giác ngộ đều sẵn có từ bên
trong. Đức Di Lạc Từ Tôn có dạy trong bộ Tối Thượng Đại Thừa Mật Luận
(Uttaratantra) rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh trong tâm. Chúng
ta ai cũng mang sẵn trong mình hạt giống thanh tịnh, cốt tủy của Như
Lai (Tathatagarbha – Như lai tạng), đó là điều cần nuôi nấng phát triển
đến mức tột cùng để bước vào địa vị Phật đà.
Dalai Lama - Hồng Như (dịch)