1)- NHÂN DUYÊN:
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật
gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số
trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật. Lại có vô số Thiên Long
Bát Bộ. Tất cả đều vây quanh Phật từ trên không trung cho đến dưới đất, cung
kính cúng dàng, tôn trọng khen ngợi đức Như Lai.
Khi ấy, vào nửa buổi sáng, Tôn Giả A Nan
Đà, Thị Giả của đức Thế Tôn vào thành Vương Xá theo thứ lớp đi khất thực. Đang
khi khất thực, Tôn Giả thấy có hai mẹ con Bà La Môn vì gia cảnh suy sút gia tài
khánh kiệt nên phải đi ăn xin và cũng theo thứ lớp đi từng nhà xin bố thí thức
ăn. Tôn giả để ý thấy mỗi khi nhận được món ăn ngon hay trái cây tươi người con
dâng cho người mẹ, còn khi nhận được thức ăn không ngon hay quả héo thì người
con ăn. Tôn Giả A Nan Đà thấy thế lòng sinh vui mừng và tán thán khen ngợi
rằng:
-
Quý hóa thay! Quý hóa thay: Thiện nam tử cúng dàng cha mẹ, người con có hiếu
với cha mẹ như thế rất là hiếm có, thực khó có người sánh kịp.
Lúc đó, có một Phạm Chí nghe lời nói ấy,
người này thuộc ngoại đạo có tà kiến khi có cơ hội thường hay ghen tỵ hủy báng
Phật Pháp Tỳ Kheo Tăng, nên khi nghe những lời khen ngợi của Tôn Giả, người ấy
liền nói với Tôn Giả rằng:
-
Thầy của anh là Cù Đàm và những người trong dòng họ Thích tự cho là hay là
giỏi, có những công đức lớn lao, chẳng qua cũng chỉ là có danh mà không có thực
(hữu danh vô thực); Thầy Cù Đàm của anh mới là người bạc phước nếu không như
vậy, tại sao người mẹ vừa mới sinh ra ông ta được có bảy ngày thì chết để ông
ta phải côi cút, như thế chẳng phải là người bạc phúc là gì? v.v...
Tôn Giả A Nan Đà nghe mấy lời như thế, im
lặng không trả lời. Khi khất thực xong trở về chỗ Phật, sau khi lễ, Tôn Giả
chắp tay bạch Phật:
-
Thưa đức Thế Tôn, trong Phật pháp có sự hiếu dưỡng cha mẹ không? Kính xin Thế
Tôn cho con được biết.
Đức Phật hỏi:
-
A Nan! Ai nói: khiến ông hỏi Ta điều ấy, hay
ông tự đem trí lực của mình để hỏi Như Lai?
-
Thưa Thế Tôn, đó là vừa rồi lúc đi khất thực ở giữa đường, con gặp ngoại đạo
Tát Gia Ni Kiền Tử đem lời chê bai nhục mạ.
Rồi Tôn Giả thuật hết những gì Tát Gia Ni
Kiền Tử đã nói, khi nghe xong, đức Thế Tôn mỉm cười; từ giữa trán Ngài phóng ra
hào quang năm màu (ngũ sắc) chiếu qua vô lượng cõi Phật (vô số giải Ngân Hà) về
phương Đông tới thế giới Thắng Thượng có đức Phật hiệu Hỷ Vương tại nước Nghiêm
Tịnh. Khi ấy có vô số Bồ Tát vây quanh thấy hào quang lạ chiếu soi đến làm cho
tâm ý mọi người đều an lạc, nên đều đồng thanh bạch với Phật Hỷ Vương:
-
Kính xin đức Thế Tôn chỉ dạy vì nhân duyên gì có hào quang chiếu soi này?
Đức Hỷ Vương nói:
-
Ở về phương Tây cách đây vô lượng nghìn muôn cõi Phật, có một thế giới gọi là
Sa Bà (có sách ghi là Ta Bà), có đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, hiện đang có
vô số Bồ Tát, Nhân, Thiên Long Bát Bộ vây quanh. Nay Phật Thích Ca muốn vì đại
chúng ấy nói Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, vì Phật Thích Ca muốn làm lợi
ích chúng sinh, muốn nhổ tà nghi, muốn cho đại chúng phát Bồ Đề tâm kiên cố,
muốn tất cả chúng sinh nhớ nghĩ trọng ân, vượt qua bể khổ, muốn tất cả chúng
sanh hiếu dưỡng phụ mẫu v.v..., nên Phật Thích Ca phóng hào quang này.
Bấy giờ một vạn (mười ngàn) Bồ Tát ở cõi
Phật Hỷ Vương đứng dậy chắp tay bạch Phật xin được qua cõi Sa Bà để cúng dường
chiêm bái Phật Thích Ca và để được nghe Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân. Phật
Hỷ Vương bảo các Bồ Tát phải sinh lòng cung kính cúng dàng, nghĩ tưởng khó gặp,
vì Phật Thích Ca đã từng ở trong vô lượng A Tăng Kỳ Kiếp làm những việc khó làm
và đã phát đại bi nguyện rằng: “Khi tôi thành Phật sẽ ở cõi nước tệ ác, núi đồi
gò đống, sành sỏi gai góc, chúng sinh ở cõi đó có đủ mọi phiền não ngũ nghịch,
thập ác, tôi sẽ tu thành Phật ở đó để làm lợi ích, đoạn trừ phiền não cho họ,
khiến tất cả chúng sanh đều được an vui...”, lời của Phật Thích Ca là như thế,
các ông tới cõi ấy cũng như ở đây vậy.
Khi ấy một vạn Bồ Tát đem theo vô số
chúng Bồ Tát quyến thuộc, trước sau vây quanh mà đi, biến mất khỏi cõi Thắng
Thượng. Khi đoàn Bồ Tát ấy đi ngang qua các cõi Phật khác, các thế giới ấy đều
rung động (động đất) và nhạc trời vang khắp cõi ấy. Khi đoàn Bồ Tát đến chỗ
Phật Thích Ca ngự tại núi Kỳ Xà Quật, tất cả đồng loạt lễ Phật, đi nhiễu ba
vòng, rồi lui qua một phía ngồi.
Đức Thế Tôn sau khi phóng hào quang về
hướng Đông, Ngài quay hào quang qua hướng Nam qua tám mươi vạn ức cõi Phật có
thế giới trang nghiêm Quảng Đức có Phật hiệu Tu Di Tướng nơi nước Thiện Tịnh,
cõi này vô cùng đẹp đẽ v.v.....
Rồi đức Phật quay hào quang qua hướng Tây
qua trăm vạn cõi Phật nơi có thế giới đẹp đẽ Tịnh Trụ của Phật Nhật Nguyệt Đăng
Quang tại nước Diệu Hỷ, có đất bằng phẳng có bảy báu v.v...
Sau nữa đức Như Lai quay phóng hào quang
qua hướng Bắc qua năm trăm vạn ức na do tha (vô số) cõi Phật nơi có thế giới
trang nghiêm Tự Tại Xưng Vương của Phật hiệu Hồng Liên Hoa Quang nơi nước Ly
Cấu. Nơi này cũng giống như hai cõi trên, rất đẹp đẽ v.v....
Cho đến phương Đông Nam, Tây Nam, Đông
Bắc, Tây Bắc, phương Trên (Thượng), phương Dưới (Hạ), tất cả mười phương, đức
Thích Ca đều lần lượt phóng hào quang tới các cõi Phật trang nghiêm đẹp đẽ. Cả
mười cõi đều có vô số Bồ Tát xin Phật ở cõi ấy được đi chiêm bái cúng dàng Phật
Thích Ca và đều muốn được nghe Kinh Phật Báo Ân, như thế vô lượng Bồ Tát và
quyến thuộc Bồ Tát mười phương đồng loạt trước sau chỉ trong vòng khoảng chốc
lát (một phút đồng hồ) đến cõi Sa Bà.
Khi mười phương vô lượng Bồ Tát đến vây
quanh rồi, thì mặt đất cõi Sa Bà này biến thành bằng phẳng, thanh tịnh, các
chúng sinh nhận được hào quang, được thấy Phật nên sinh tâm vui mừng, chắp tay
kính lễ.
Sau khi vô lượng Chư Bồ Tát mười phương
an vị đâu đó, đức Phật thu nhiếp hào quang ấy trở lại nhiễu quanh thân Ngài bảy
vòng, rồi hào quang trở lại nơi đỉnh đầu của Ngài.
Tôn Giả A Nan vì lợi ích chúng sinh nên
đứng lên lễ Phật rồi Bạch:
-
Mỗi khi Phật mỉm cười là có nguyên nhân, xin Thế Tôn chỉ dạy sự mỉm cười vừa
rồi để trừ mối nghi cho đại chúng.
Bấy giờ trước đức Phật tự nhiên có một hoa
sen lớn bảy báu tự đất hóa sinh ra, rồi đức Phật Thích Ca từ tòa ngồi đứng dậy
đi tới bước lên hoa sen và ngồi trên đài hoa sen ấy . Vừa ngồi xong Ngài hiện
năm thân mỗi thân một phía, rồi từ mỗi thân kết hợp bởi vô số thân nhỏ, mỗi vô
số thân nhỏ lại hợp bởi vô lượng thân nhỏ hơn nữa, mỗi vô lưọng thân nhỏ hơn
nữa lại hợp bởi vô lương thân li ti như hạt cát hạt bụi.
Sau khi hiện ra vô lượng thân như thế,
đức Phật bảo đại chúng:
-
Này Thiện nam tử, Như Lai khắp biết chân chính, tuyên nói lời chân thực rằng:
“Pháp (mọi sự việc) vốn không ngôn thuyết (không thể nói được), Như Lai dùng
phương tiện nhiệm mầu, dùng pháp không danh tướng mà nói danh tướng. Như Lai
khi còn ở trong đường sinh tử, ở trong tất cả các loài chúng sanh, cũng đã chịu
khổ đủ mọi thứ thân hình nhiều như cát bụi, vì phải chịu nhiều thân như thế,
cho nên tất cả chúng sinh đã từng là cha mẹ của Như Lai, Như Lai cũng làm cha
mẹ của chúng sanh. Vì cha mẹ nên Như Lai đã làm khổ hạnh khó làm, bỏ những sự
khó bỏ như tay chân, mắt mũi, tủy não, thịt da, đầu mặt, quốc thành (đất nước
thành quách), vợ con, cho đến voi ngựa, bảy báu, kiệu cáng, xe cộ, quần áo,
thức ăn, thuốc thang, vật dụng, v.v..., cấp cho tất cả.
Như Lai siêng tu trì giới, nhẫn nhục,
thiền định, trí tuệ v.v..., cho đến đầy đủ vạn hạnh, thường không dừng nghỉ,
tâm không mệt mỏi hiếu dưỡng cha mẹ, biết ơn đền trả, nên mới mau thành chính
quả. Bởi chính chúng sinh là trọng ân của Như Lai nên Như Lai không thể bỏ
chúng sinh. Như Lai đem tâm đại bi để cứu độ chúng sinh trong ba cõi (Trời,
Thần, Người) mà không nghĩ đến công lao của mình. Như Lai tu học mọi phương
tiện, thường tu hành từ bi bình đẳng, không chấp không cũng chẳng chấp có nên
thấu suốt tất cả đều là huyển cho nên thấu suốt được thực tướng của mọi pháp,
nên không thoái mất đại nguyện, không bỏ chúng sinh chìm đắm trong bể khổ.
Như Lai tùy căn cơ của chúng sinh nói
pháp, trước sau có khác, nhưng chúng sanh do bị ái dục che đậy, bị mê lầm làm
chìm trong bể khổ, vì sao? Vì bốn thứ điên đảo: Đối với thân mình là vô ngã
(không có cái ta), vô thường, khổ, bất tịnh (không sạch), chúng sinh lại cho là
có cái ta, thường, vui, sạch sẽ thơm tho. Sinh già bệnh chết, thay đổi biệt ly,
mỗi giây phút đổi khác, bị năm triền cái che đậy (Ngũ cái gồm: Tham ái, sân
giận, hôn trầm, phóng dật, nghi ngờ) làm cho chìm đắm trong bể khổ luân hồi
sinh tử như bánh xe quay không ngưng nghỉ.
Do đó, Như Lai nói ba Tạng mười hai bộ
Kinh, tùy theo nông cạn của chúng sanh, khiến cho chúng sinh có thể liễu ngộ
được thực tướng của các pháp mà chứng Niết Bàn giải thoát. Bởi thế Như Lai
chiêu tập tất cả chúng sinh hữu duyên trong mười phương hôm nay hội tụ trong
đại chúng này, diễn nói chỉ bày chỉ dẫn những lời dạy bảo muôn đời lưu truyền
khiến chúng sanh được đại an lạc, được giác ngộ giải thoát. Như Lai đã làm vô
số việc không thể nghĩ bàn như từ cõi trời Đâu Xuất thị hiện xuống trần nơi cõi
Diêm Phù Đề, nói ra vũ trụ vô biên, thế giới nhiều hơn cát sông Hằng, nói ra
nghiệp báo nhân quả, chúng sinh vô lượng v.v...,tất cả đều là không thể nghĩ
bàn.
Này A Nan! nay ông phát ra được lời hỏi
ấy, thực là do lòng đại bi thương xót chúng sanh, ông hãy nghe cho kỹ, Ta sẽ vì
ông, các đại Bồ Tát, và tất cả đại chúng, mà lược nói về nhân duyên hiếu dưỡng
cha mẹ:
2)- BÁO ÂN CHA MẸ:
Về thời lâu xa, bấy giờ có một nước nọ
tên là Ba Na Lại, trong nước đó có Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai (Cách
nay 91 kiếp về trước = khoảng 6.5 tỷ năm). Khi đức Phật ấy nhập Niết Bàn đến
thời tượng pháp, có một ông Vua tên là La Xà có rất nhiều đại thần, thống lãnh
16 nước phụ thuộc. Vua có ba người con đều làm Vua ở các nước phụ thuộc, Đại
Vương La Xà dùng luật lệ nhân đức phân minh, không làm việc gì hại nước hại
dân, nên được mưa thuận gió hòa, hoa mầu tốt tươi, nhân dân no ấm thanh bình.
Bấy giờ, có một người đại Thần tên là La
Hầu mưu phản, khởi nghịch dấy binh giết chết Vua La Xà, sau đem quân đến đánh
các nước nhỏ giết chết người con lớn, kế đó bắt giết người con thứ hai.
Khi ấy, người con út thứ ba đang làm Vua
tại một nước nhỏ, Vua có thân hình đẹp đẽ, tính tình hiền lành phúc hậu, Vua
dùng luật lệ nhân đức phân minh, cõi nước được thịnh vượng, nhân dân an lạc,
Vua sinh được một Thái tử tên là Tu Xà Đề có thân hình đẹp đẽ, mặt mũi nhân hậu
sáng láng, tuấn tú thông minh, lúc ấy đã 17 tuổi, Vua cha mến yêu vô cùng.
Bấy giờ Vua nằm mơ, mộng nghe có tiếng
mách bảo việc Đại Thần La Hầu làm phản giết hại Đại Vương vua cha La Xà, La Hầu
đã đem quân đi bắt giết hai người anh đang làm Vua ở hai nước kia, hiện tại La
Hầu đang trên đường tiến tới để hại Vua. Trong mộng Vua hỏi: “Ông là ai mà sao
chỉ nghe tiếng nói mà không thấy người?” thì có tiếng đáp rằng: “Tôi là Thần
coi cung điện, Vua là người nhân đức nên tôi mới báo để mà liệu bề đối phó, nếu
chậm sẽ không kịp nữa”.
Sau khi Vua tỉnh dậy tự nghĩ: “Đây là sự
thực, ta nên cấp thời lánh nạn qua nước láng giềng”. Lại tự nghĩ: “Đến nước
láng giềng kia có hai đường đi, một lối phải mất 14 ngày, một lối chỉ mất có 7
ngày, ta nên đi một mình theo lối gần 7 ngày cho mau chóng”; nghĩ rồi, Vua ra
lệnh cho làm một cách bí mật mau chóng cho mang lương thực cho đủ Vua ăn trong
7 ngày đến để ở một nơi ngoài thành cẩn thận.
Khi chuẩn bị xong xuôi, nhà Vua trở vào
trong hậu cung gọi Thái tử tới rồi ôm vào lòng, rồi đứng dậy, rồi ngồi xuống,
có vẻ bối rối không yên, Phu nhân thấy Vua không an như thể có điều gì lo sợ,
bà liền tới hỏi:
-
Đại Vương hôm nay hình như có điều gì lo sợ nên đứng ngồi không yên, mặt mũi bơ
phờ, tựa như giặc đến, xin Đại Vương cho thần thiếp biết.
Vua bảo:
-
Tôi có việc hệ trọng, nhưng không phải là việc phu nhân có thể biết được.
Phu nhân nói:
-
Thiếp cùng với Bệ hạ khác nào như hình với bóng, như chim với hai cánh, như
thân thể với chân tay, như đầu với mắt. Hôm nay có việc hệ trọng như thế mà Bệ
hạ lại không muốn cho thần thiếp được dự biết!?
Vua nói:
-
Phu nhân có biết chăng? Đại Thần La Hầu làm phản đã giết hại phụ Vương, lại đem
quân đi bắt giết cả hai anh ta, nay bọn chúng đang cử binh mã đến đây bắt giết
ta, nay ta muốn trốn tránh khỏi tai họa này. Vua nói rồi liền tức tốc nắm tay
Thái tử kéo chạy đi. Phu nhân thấy thế cũng chay theo sau.
Bấy giờ vì tâm thần hoảng hốt, vội vàng,
Vua quên không lấy thêm thực phẩm; mới đi được ba ngày đã hết thực phẩm mang
theo, vì lúc dự trù chỉ có một người ăn trong 7 ngày, lúc đó có tới ba người
nên lương thực mau hết.
Hai bên đường, cây cối trơ trụi, không
một bóng người qua lại, đường đi gập ghềnh hiểm trở, ruồi muỗi nóng nực, lúc đó
Vua và Phu nhân cất tiếng than khóc: “Thật là xót xa đau đớn, chúng ta từ khi
sinh ra cho đến ngày nay chưa bao giờ bị khổ như thế này, tại sao thế hỡi
trời?!, giờ đây đã đến lúc cùng đường, họa sắp tới nơi rồi!, biết làm sao đây?
Than khóc rồi tự đấm ngực vỗ đầu, vật mình xuống đất tự trách: “Lũ chúng tôi
kiếp trước gây nên nghiệp ác gì? Hay là đã giết cha mẹ, chân nhân? Hay là hủy
báng bậc thượng tôn thánh hiền? Hay là đã làm nghề săn bắn chài lưới giết hại
chúng sinh? Hay là giết người cướp đoạt của cải, v.v..., làm sao phải chịu họa
này? Muốn dừng nghỉ một chút lại sợ oán gia ập tới, nếu để chúng bắt được sẽ bị
chết, không còn nghi ngờ gì nữa! Nếu tiến bước chạy trốn, lại bị đói khát bức
bách, tính mạng như chỉ treo mành!
Vua và Phu nhân suy nghĩ những nỗi khổ
não, buồn rầu than khóc đến phát xỉu ngã lăn xuống đất bất tỉnh, hồi lâu mới
tỉnh lại. Vua tự nghĩ: “Nếu không lập kế sẽ không thoát khỏi nạn này”, rồi bảo
Phu nhân: “Nếu không lập kế để sống còn thì không kịp nữa, cả ba đều chết”. Hai
người bàn một lúc rồi Vua và Phu nhân đều thỏa thuận rằng: “Vua sẽ giết Phu
nhân để lấy thịt cho Vua và Thái Tử ăn để bảo toàn tính mạng cho hai người,
xong rồi, Vua tuốt gươm để giết Phu nhân. Thái Tử Tu Xà Đề thấy cử chỉ của Vua như
vậy, vội vàng giữ tay nhà Vua lại mà hỏi: “Phụ Vương định làm gì thế? Vua buồn
rầu vừa khóc vừa nói: “Ta định giết mẹ con để lấy thịt nuôi sống cha và con,
nếu không giết mẹ con thì cả ba người đều chết mất thôi, vì không còn cách nào
khác nữa!” Thái tử nói: “Nếu cha giết mẹ con, con thà chết đói chứ không bao
giờ con ăn, vì chưa bao giờ có người con nào ăn thịt mẹ mình. Đã chẳng dám ăn
thì con cũng sẽ chết mà thôi, vậy cha hãy giết con đi để cứu mạng cho mẹ”. Vua
nghe nói vậy thì sầu não nói rằng: “Con cũng như con mắt của ta, chưa bao giờ
có ai tự khoét mắt của mình để rồi lại tự ăn vậy, ta sẽ không bao giờ giết con
để nuôi sống tính mạng của ta cả.
Lúc ấy, Thái tử thưa với Vua và Phu nhân:
“Con xin nguyện đem thân này để cúng dàng cha mẹ, chỉ xin cha mẹ chấp thuận cho
con một điều”. Vua bảo: “Cha mẹ không làm trái ý con, con muốn điều gì cứ nói
ra”. Thái tử thưa: “Cha mẹ đừng giết con mà chỉ mỗi ngày xẻo đủ thịt chia cho
ba người ăn, hai phần dâng cha mẹ, một phần con ăn để tự nuôi sống”.
Bấy giờ, Vua theo ý nguyện của Thái tử mà
làm như vậy, nhưng sau ba ngày thì thịt ở thân thể Thái tử đã gần hết, chỉ còn
chút ít thịt dính với xương. Vì quá kiệt sức, Thái tử ngã lăn ra đất bất tỉnh,
Vua và Phu nhân ôm con kêu khóc mà nói: “Cha mẹ thật là người vô dụng, ăn cả
thịt con, khiến con phải đau đớn đến chết đi như thế này, biết làm sao bây giờ?
Nay đường còn chưa tới, thật là khổ sở trăm bề, chắc phải bỏ thân xác con lại
đây thôi!”, hồi lâu, Thái tử tỉnh lại
nói trong yếu ớt: “Thưa cha mẹ, con dâng thịt cúng dường cha mẹ đã đi được đến
đây, tính ra chỉ còn một ngày nữa là tới nơi an toàn, mà thân con không còn cử
động được nữa, chắc con bỏ mạng tại nơi đây, con không thể theo cha mẹ được
nữa, xin cha mẹ đừng nghĩ ngợi theo thói thường tình, để rồi chết cả ở đây! Con
kính xin cha mẹ một điều không nên trái lòng con, xin cha hãy cắt hết nốt những
chỗ thịt còn lại dùng cho cha mẹ đủ sống trong một ngày nữa mà đi đến chỗ thoát
nạn.”
Bấy giờ vua cùng Phu nhân ôm Thái tử khóc
nức nở không ngớt, nhưng rồi cũng phải nghe lời con đành lòng phải cắt nốt
những thịt còn lại, rồi chia làm ba như trước, ăn rồi, nhà Vua và Phu nhân từ
biệt con trong khóc than đau khổ mà đi, trong khi Thái tử nhỏm người lên nhìn
cha mẹ xa dần cho đến khuất bóng, rồi ngã lăn ra bất tỉnh.
Các loài côn trùng ruồi nhặng kiến v.v...
đến bâu lại khắp thân thể để châm chích cắn ăn, khó chịu vô cùng, không thể nói
cho xiết được. Tỉnh lại, Thái tử thấy thế liền lập lời thệ nguyện: “Nguyện đời
trước có điều gì oán ác, từ đây sẽ trừ sạch hết, và từ nay trở đi sẽ không bao
giờ làm ác nữa. Nay tôi đem thân này để cúng dàng cha mẹ, nguyện cha mẹ thường
được mười một điều phúc đức, đó là:
01
– Khi ngủ được an vui.
02
– Khi thức được yên vui.
03
– Không thấy ác mộng.
04
– Chư vị Trời thường ủng hộ.
05
– Mọi người đều ái kính.
06
– Không gặp các tranh tụng.
07
– Không bị trộm cướp.
08
– Không bị giặc giã.
09
– Không bị mưu hại.
10
– Không bị tiêu diệt.
11
– Gặp mọi điều lành.
Và còn bao nhiêu máu thịt còn lại tôi
nguyện bố thí cho ruồi nhặng muỗi kiến và các côn trùng được no đủ, khiến đời
sau tôi được thành Phật, rồi đem thức ăn bằng giáo pháp trừ trọng bệnh sinh tử
đau khổ cho chúng sinh tất cả.”
Khi Thái tử Tu Xà Đề phát nguyện như thế
rồi, mặt đất sáu lần rung động, các loài cầm thú kêu vang chạy tứ tán, biển lớn
nổi sóng dữ dội, núi Tu Di giao động rung chuyển.
Bấy giờ Vua Trời Đạo Lợi, Thích Đề Hoàn
Nhân đem chư Thiên xuống, giả làm hùm beo sư tử chó sói, gầm rống nhảy tới chỗ
Thái tử như để bắt ăn thịt. Thái tử thấy thế mới nói: “Nếu các ngưoi muốn ăn
thịt ta thì cứ ăn, sao lại làm ta sợ hãi như vậy?” Vua Đế Thích liền biến ra
hình người và nói: “Ta không phải là thú dữ đâu, mà là Đế Thiên Thích đến đây
để thử Thái tử mà thôi, Thái tử thấy Đế Thích nói như vậy thì vui mừng, Đế
Thích hỏi Thái tử?
- Nhà ngươi bỏ được việc khó bỏ. Ngươi đem hết
thịt cúng dàng cha mẹ, có công đức như thế để nguyện sinh làm Phạm Vương, Thiên
Ma Vương, Thiên Vương, Chuyển Nhân Thánh Vương, hay Nhân Vương?
Thái tử Tu Xà Đề trả lời:
-
Tôi nay chẳng nguyện làm những thứ ấy, mà chỉ muốn cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề để
cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ đau mà thôi.
Vua Trời nói:
-
Ngươi thật là đại ngôn, đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chánh Giác phải chịu cần khổ
rất lâu dài, rồi sau mới thành được, làm sao Ngươi có thể chịu nổi những cần
khổ ấy?
Tu Xà Đề trả lời:
-
Giả thử vòng sắt nung đỏ để trên đầu, nhưng không vì thế làm cho tôi thoái đạo
Vô Thượng.
Thiên Đế nói:
-
Ngươi chỉ nói cho cố, nói suông, làm sao tin được?
Bấy giờ Tu Xà Đề liền lập thệ nguyện:
-
Nếu tôi nói dối Thiên Đế thì thân tôi sẽ mãi mãi bị chia lìa, còn không như vậy
thì sẽ bình phục lại.
Thái tử vừa thệ nguyện xong, thân thể từ từ
lành lặn bình phục lại, Vua Trời thấy thế khen ngợi:
-
Quý hóa thay! Ta không thể theo kịp Ngươi, Ngươi sẽ đạt đạo Vô Thượng theo ý
nguyện, khi ấy nhớ độ cho ta.
Bấy giờ Vua và Phu nhân đi đến nước kia
được Vua nước kia tiếp đón ân cần và cung cấp đầy đủ các thứ cần dùng xứng ý.
Rồi Vua và Phu nhân thuật hết sự tình về việc nghịch thần gian ác, và việc chạy
trốn xảy đến việc Thái tử tình nguyện chịu cắt thịt cứu cha mẹ đến phải hy sinh
tính mạng.
Vì cảm mến đức hạnh từ hiếu ấy mà Vua nước
kia khởi lòng muốn giúp đỡ, khởi binh chính nghĩa đi đánh nghịch thần La Hầu
gian ác. Thuận đường đi cùng đại quân, Vua và Phu nhân đi ngang qua chỗ Thái
tử, nơi cha con, mẹ con từ biệt với ý nghĩ: “Con ta đã chết rồi, ta nên thu
lượm xương cốt của con đem về quê hương.” Vì lòng thương con vô bờ bến, nên vừa
đi tìm kiếm vừa kêu gào khóc than rất là thảm thiết. Nhưng bỗng xa trông thấy
con còn sống, vội chạy đến ôm con vào lòng, vừa thương vừa mừng vừa khóc nức nở
mà hỏi con rằng: “Con ơi! Con vẫn còn sống ư, làm thế nào con qua khỏi nạn này,
thật là ngoài sức tưởng tượng của cha mẹ!?!”
Thái tử liền kể hết sự việc cho Vua và Phu
nhân nghe, nghe xong, Vua và Phu nhân hết sức vui mừng, rồi cùng nhau trở về
nước, Thái tử có phúc đức rất lớn như thế, nên chẳng bao lâu lấy lại được nước,
Vua cha bèn lập Thái tử lên làm Vua trị vì thiên hạ.
Bấy
giờ đức Phật bảo Tôn giả A Nan Đà:
-
A Nan nên biết, phụ Vương La Xà lúc bấy giờ, nay là cha Ta, Duyệt Đầu Đàn phu
nhân lúc ấy, nay là mẹ ta, Ma Da phu nhân, còn Thái tử Tu Xà Đề, nay chính là
Ta, Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Lại nữa, Vua Trời Đế Thích lúc ấy, nay là Ông Kiều
Trần Như ngày nay, được Ta độ trước nhất vậy.
LỜI BÀN:
Đọc Kinh trên, chúng ta nhận thấy:
1
– Khởi đầu của Kinh, chúng ta đã thấy đức Phật lúc đó là Thái tử Tu Xà Đề.
Người được sinh vào làm con Vua và là Thái tử, tất phải là người đời trước đã
làm được nhiều phúc đức mới được như thế.
2
– Sự báo hiếu của đức Phật đối với bậc cha mẹ thật là hiếm có trên đời, nếu
không phải lúc ấy đức Phật đang hành hạnh Bồ Tát rồi thì không thể làm được
việc chịu đựng đau đớn khủng khiếp như thế, một việc làm chỉ có bậc Bồ Tát mới
làm được mà thôi.
3
– Một điểm cần nêu ra, đó là khi cắt thịt Thái tử vẫn còn đi được, và khi cắt
hết thịt rồi mà vẫn còn sống được, nhất là sau đó tự nhiên lành lại, đó là một
điều khó tin, tại sao? Vì khi cắt thịt, máu chảy ra hết là phải chết, thiết
tưởng, trong trường hợp này chỉ có thể giải thích bằng sự mầu nhiệm nào đó,
khiến Thái tử Tu Xà Đề không bị mất máu nhiều, đủ sức chịu đựng sự đau đớn, và
sau là lành lại. Ở đây, chúng ta lại thấy trái với khoa học, nhưng nếu chúng ta
chấp nhận những gì gọi là huyền bí mầu nhiệm do Chư Thiên làm, thì chúng ta
phải chấp nhận trường hợp này.
4
– Từ thời đức Phật Tỳ Bà Thi (91 kiếp về trước = khoảng 6.5 tỷ năm)) đến thời
đức Phật Thích Ca đã trải qua một thời gian quá lâu dài, điều này chứng tỏ đức
Phật Thích Ca đã hành đạo Bồ Tát rất lâu dài mới đạt quả Phật.
5
– Trong bộ Tăng Nhất A Hàm, quyển 2, Phẩm Lực, từ trang 533, đức Phật nói: “Do
công đức che lọng cho Thần tự (chỗ thờ) của Bích Chi Phật mà được lưu chuyển
trong Trời Người và làm Vua hoặc Đại Phạm Thiên Vương, hoặc Đế Thiên Thích,
hoặc Chuyển Luân Thánh Vương (Đại Vương) mấy trăm nghìn lần; chúng ta thấy công
đức cúng dàng Chư Phật, Bích Chi Phật, và A La Hán Thánh Hiền có vô lượng phúc
đức vậy.
Toàn Không