Tưởng niệm 28 năm Trưởng lão HT.Thích Trí Thủ, Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN viên tịch
Hòa
thượng đã xả báo an tường, thu thần nhập diệt vào lúc 21 giờ 45 phút
ngày 2 tháng 4 năm 1984 (tức ngày 2 tháng 3 năm Giáp Tý) tại tại Tu viện
Quảng Hương Già Lam, trụ thế 76 tuổi đời, 56 tuổi đạo.
Chân dung Trưởng lão HT.Thích Trí Thủ
Truyền Trao Đèn Pháp
Hòa Thượng Thích Trí Thủ là vị Thầy của nhiều thế hệ học tăng của các
Phật học viện Báo Quốc Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang,
Quảng Hương Già Lam - Sài Gòn. Cuộc đời của Ngài phần nhiều cống hiến
cho việc đào tạo tăng tài và sự nghiệp hoằng pháp cho Đạo Phật Việt Nam
hơn là những lãnh vực phật sự khác.
Đối với việc đào tạo tăng tài, Ngài đào tạo đầy đủ cả ba mặt Giới học, Định học và Tuệ học.
Đối với giới học, Ngài luôn luôn vận động chư tôn đức mở các đại giới
đàn để thí giới cho các giới tử cầu thọ bao gồm cả giới tử xuất gia và
tại gia đủ cả giới Thanh văn và Đại thừa giới. Không những vậy, Ngài
còn dạy giới luật cho các giới tử một cách cẩn mật và tế nhị. Ngài đã
dịch và chú giải các luật Yết ma, Tứ phần làm tài liệu học tập cho các
học tăng của nhiều thế ở trong các Phật học viện.
Vì vậy, Ngài Giác Nhiên và nhiều cao tăng khác ở Huế đã tặng Ngài bức
hoành với bốn chữ sơn son thiếp vàng: “Giới Châu Quảng Thí”. Nghĩa là
vị Bồ tát có khả năng thực hành bố thí rộng rãi các loại châu báu của
giới pháp.
Đối với định học, có lần Ngài hỏi anh em học tăng chúng tôi rằng: “Quý
vị có biết Đức Phật dạy pháp căn bản cho sự nhiếp tâm là pháp nào
không?” Anh em chúng tôi chưa ai kịp trả lời thì Ngài lại dạy tiếp:
“Pháp Tứ niệm xứ và Pháp ngũ đình tâm quán là pháp căn bản cho việc
nhiếp tâm”.
Ngài kết hợp nhuần nhuyễn giữa Thiền Tông và Tịnh Độ để dạy dỗ cho anh
em tăng sinh chúng tôi. Ngài dạy: “Thiền là để định tâm và kiến tánh
thành phật; Tịnh độ không phải chỉ để định tâm kiến tánh thành Phật mà
còn phải lập Tín, Hạnh và Nguyện để trang nghiêm tự thân và thế giới,
nhằm báo đáp tứ ân, cứu giúp ba cõi”. Ngài đã khuyến khích học tăng
chúng tôi, phải trang nghiêm tự thân và thế giới mỗi ngày, bằng cách mỗi
buổi tối phải cùng nhau ngồi thiền tại chánh điện ít nhất là từ nửa
giờ cho tới một giờ, và mỗi khuya cùng nhau lễ Phật 108 lạy, để nuôi
duỡng và tăng trưởng Tín, Hạnh và Nguyện.
Đối với tuệ học, Ngài đã chú giải Bát Nhã Tâm Kinh làm tài liệu cho anh
em học tăng chúng tôi học tập (nghiên cứu Bát Nhã Tâm Kinh và trích
dẫn lời dạy của Ngài).
Hòa Thượng không phải chỉ dạy chúng tôi bằng lý thuyết mà bằng chính sự thực hành của Ngài.
Chúng tôi là những thế hệ học tăng theo học Phật học tại Phật học Viện
Báo Quốc, Huế và đã được Ngài tổ chức trao giới pháp cụ túc tại giới
đàn Phước Huệ, tại Phật học viện Hải Đức Nha Trang, năm 1973, do chính
Ngài làm đàn chủ và Hòa Thượng Phúc Hộ làm đàn đầu.
Tuy nhiên, bất cứ lãnh vực nào mà Ngài đã dấn thân hành động, thì không
phải Ngài làm cho mình, mà vì lợi ích của nhiều thế hệ học tăng, vì
lợi ích của nhiều người, vì lợi ích của dân tộc, nhân loại và muôn
loài. Hạnh nguyện của Ngài chỉ có một là thượng cầu phật đạo hạ hóa
chúng sanh, nhưng hình thức để thực hiện hạnh nguyện ấy thì vô lượng.
Bài kệ niêm hương cúng dường vào buổi sáng của Ngài đã nói cho ta ý nghĩa ấy như sau:
“Phần hương nhất nguyện Pháp không vương
Đại nguyện đồng tham biến cát tường
Sát hải trần thân thi diệu lực
Trầm kha chướng loại tận an khương”.
“Đốt nén tâm hương dưới Phật đài
Phổ hiền hạnh cả nguyện nào sai
Hiện thân cát bụi vào muôn nẻo
Chữa bệnh trầm kha khắp mọi loài”.
Đối diện với kẻ ác để đấu tranh là người hùng, nhưng đi theo với kẻ ác
để che chở cho những người hiền và biến kẻ ác trở thành người hiền thì
không phải chỉ là người hùng mà là một vị Bồ tát đích thực. Điều ấy,
tôi đã học được từ vị Thầy của tôi.
"Có lẽ
nhờ túc duyên hiếm có, nên mỗi bước đường đạo của tôi đều gần như bước
trùng lên dấu bước của thầy, khiến cho mỗi lần nghĩ nhớ thời gian quá
khứ của đời mình, tôi thấy bóng dáng của mình lồng trong bóng dáng vĩ
đại của Thầy”.
Giữ Tâm Bình Thường
Năm 1977, tại Phật học viện Báo Quốc - Huế, Hòa thượng dạy luật cho anh
em học tăng chúng tôi, trong giờ dạy luật Hòa Thượng nói: “Bình thường
tâm thị đạo”. Nghĩa là tu tập, ta phải giữ cho cái tâm của ta luôn
luôn được bình thường. Cái tâm bình dị, thường tại ấy chính là đạo.
Học đạo là học cái tâm bình dị ấy nơi ta. Tu đạo là hành theo cái tâm
bình dị ấy nơi ta mỗi ngày, trong bốn oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi ,
nhờ vậy mà ta có đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh để chế ngự
và chuyển hóa tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não ngày đêm chuyển hiện ở
nơi tâm thức ta.
Hòa thượng dạy rằng: “Ta đi đến đâu, mọi người đem tâm bình dị mà đối
xử với ta, ta biết rằng, ta có thể sống lâu với người ấy và người ấy có
thể sống lâu với ta. Người ấy với ta có thể trở thành thân hữu lâu
dài. Ta có thể lưu trú lâu dài ở nơi trú xứ của người ấy để làm phật
sự”.
“Ta đi
đến đâu mà mọi người đem tâm rất mực cung kính ta, đãi đằng ta, cung
đón ta với những lễ nghi trọng thể cầu kỳ, thì ta biết rằng, trú xứ ấy
ta không thể sống lâu, mọi người trong trú xứ ấy không thể là thân hữu
của ta lâu dài, sau khi hoàn tất công việc, ta nên cảm ơn họ và tìm
cách từ giã, không nên dừng chân lâu để làm phật sự ở trú xứ đó. Tại
sao? Vì sự trọng đãi tiếp rước như vậy, chúng không phải đi từ cái tâm
giản dị, bình thường mà từ cái tâm cầu kỳ, mất bình thường. Cái gì phức
tạp, cầu kỳ, mất bình thường, cái ấy không thể tồn tại lâu dài được”.
Đó là bài học mà tôi đã học được từ vị Thầy của tôi.
Giây Bìm Bị Cắt
Ở Phương trượng Tu viện Quảng Hương Già Lam, mỗi buổi sáng ba giờ là
Hòa Thượng đã thức dậy, tĩnh tọa, uống trà và sau đó đi vào chánh điện
Lễ Phật 108 lạy, theo nghi lễ sám mà chính Ngài đã soạn để hành trì.
Ngoài những khóa hành trì chung với đại chúng, Ngài còn hành trì riêng
tại Phương trượng. Sau những thời khóa như vậy, Ngài còn tưới cây cho
những cây kiểng trong vườn chùa. Việc tưới cây của Ngài không phải là
để đối phó với những công việc như những người khác mà là một pháp hành
từ bi rất thâm diệu.
Trước khi tưới, Ngài lượm hết tất cả những lá vàng trên cây và trên
chậu và Ngài tưới chậm rãi từ ngọn cho tới gốc và từ gốc cho tới ngọn.
Ngài không phải chỉ tưới cho cây sống mà còn làm cho cây sống, xanh và
sạch từ trên đọt cho xuống dưới gốc và từ dưới gốc cho đến trên đọt và
từng kẽ lá.
Có lần Ngài vì Phật sự phải đi xa một tuần, đại chúng lại cử một vị
khác chăm sóc vườn cây, chậu kiểng, nhưng vườn cây, chậu kiểng đã không
xanh đẹp và sạch như chính Ngài đã chăm sóc. Trên chậu và cây có nhiều
lá vàng úa, lại thêm cây bìm bìm leo nơi cây bồ đề, đã bị một vị khác
cắt đứt dây còn vắt héo trên cây, nhân đây Ngài đã gọi anh em chúng tôi
mà dạy: “Quý vị tu tập phải chăm sóc tâm từ bi của mình mỗi ngày đừng
bao giờ để khinh suất. Kinh Pháp Hoa, đức Phật dạy: “Dĩ từ tu thân”, quý
vị đã học kinh Pháp hoa rồi mà!”
Ngài dạy: “Tất cả muôn vật từ hữu tình đến vô tình đều có sự sống, nên
khi ta ngắt một ngọn lá, chặt một cành cây, để sử dụng cho một công
việc phật sự nào đó là ta đều phải khấn nguyện và chú nguyện cho nó với
tất cả tâm từ bi của ta, trước khi ta hành sự. Nếu ta không làm như
vậy, oán khí của cây sẽ chạm vào tâm ta, khiến cho đức hạnh và tâm từ
bi của ta bị thương tổn”.
Hòa
thượng dạy, người biết tu tập thì không có cử chỉ lớn nhỏ nào mà không
biểu hiện đầy đủ cả đoạn đức, trí đức và ân đức của mình.
Ta biết tu tập, thì qua những động tác hàng ngày của ta, giúp cho ta
thành tựu được phước đức do đoạn trừ được hết thảy phiền não mà có.
Phiền não lớn thì phước đức teo lại, phiền não teo lại thì phước đức nở
ra, phiền não không còn thì phước đức viên mãn, toàn vẹn ấy gọi là
đoạn đức.
Ta biết tu tập, thì ta có giác và chiếu trong mỗi hành động hàng ngày
của ta, khiến cho cái biết đúng đắn sinh khởi trong ta, khiến cho ta
không còn rơi vào những nhận thức sai lầm khi sáu căn tiếp xúc với
ngoại cảnh, vì vậy phước đức có mặt là do trí tuệ phát sinh trong đời
sống của ta. Trí năng sinh đức, đức nuôi dưỡng trí.
Ta biết tu tập, biết thiết lập hạnh và nguyện để làm lợi ích cho tất cả
chúng sanh từ tâm bồ đề của ta, thì không có ý nghĩ, hành động và lời
nói nào của ta là không chuyển tải chất liệu từ bi. Do hành động từ bi
của ta đối với các loài hữu tình và vô tình mà phước đức của ta lớn lên
và thành tựu từ đó. Vì vậy, gọi là ân đức.
Nếu không có đoạn đức và trí đức, ta không bao giờ thành tựu được ân
đức. Đoạn đức và trí đức của ta càng sâu, thì ân đức của ta càng lớn.
Đoạn đức và trí đức của ta càng lớn, thì ân đức của ta càng phủ khắp và
thấm nhuần khắp hết thảy chúng sanh từ hữu tình đến vô tình.
Đó là bài học mà tôi đã học được từ vị Thầy của tôi.
Đối Mặt Với Một Công Án
Kinh Bộc Lưu, Đức Phật dạy các Tỷ-kheo rằng: “Khi đi qua một dòng sông, không dừng lại, không đi theo mà hãy vượt qua”.
Nếu đi qua dòng sông ta dừng lại, ta sẽ bị dòng nước chảy xói mòn; nếu
ta đi theo sẽ bị dòng sông cuốn trôi và nhận chìm. Nên, muốn không bị
dòng sông xói mòn, cuốn trôi hay nhận chìm ta không nên dừng lại, không
nên đi theo mà hãy vượt qua.
Được biết, sau năm 1975, bấy giờ ông Mai Chí Thọ làm giám đốc Sở Công
an Thành phố HCM, mời Hòa thượng Thích Trí Thủ làm việc, Ông Mai Chí
Thọ nói với Hòa thượng rằng: “Phật giáo có theo chính quyền không? Nếu
không theo là chống. Nếu Phật Giáo chống chính quyền, chính quyền có
công an, có quân đội, có nhà tù…”. Hòa Thượng cười và trả lời: “Phật
giáo chúng tôi không theo mà cũng không chống”.
Câu trả
lời ấy là một bài học quý báu cho tất cả Tăng Ni Phật tử chúng ta không
những trong hiện tại mà còn ngay cả tương lai. Phật giáo không xu phụ
bất cứ quyền lực chính trị nào và lại càng không lợi dụng bất cứ thế
lực chính trị nào để truyền đạo. Tại sao? Bởi vì mọi quyền lực chính
trị của thế gian đều là tạm thời, nó không phải là vĩnh cửu. Trong lúc
đó đạo giải thoát, giác ngộ là vĩnh cửu và cùng khắp. Ta không thể dùng
cái vĩnh cửu và cùng khắp để chạy theo và xu phụ cái tạm thời và giới
hạn. Vì vậy, Hòa thượng đã trả lời cho ông Mai Chí Thọ rằng: “Phật giáo
không theo chính quyền”.
Và, Hòa thượng cũng đã trả lời cho ông Mai Chí Thọ rằng: “Phật giáo
không chống chính quyền”. Tại sao? Bởi vì, trong thế gian nầy không có
bất cứ đối tượng nào là đối tượng để cho Phật giáo chống đối cả, kể cả
chính quyền. Mọi đối tượng đang hành hoạt ở trong thế gian đều đang bị
ràng buộc bởi nhân duyên sanh tử, và đang bị thúc đẩy bởi những động cơ
chấp ngã và chấp pháp. Phật giáo không hề đặt những cố chấp ấy như là
những đối tượng để chống đối mà đặt nó như là những đối tượng để thiền
quán, để thấy rõ bản chất bất thực của chúng, nhằm vượt qua, khiến cho
những bản chất bất thực ấy, không thể đánh lừa, nhằm tựu thành phẩm chất
toàn giác.
Lại nữa, trong Phật giáo chỉ có cái thấy đúng như thực đối với vạn hữu
để sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống không còn gieo những hạt nhân xấu ác
để khỏi phải bị gặt quả khổ đau. Và trong Phật giáo chỉ có tâm từ bi,
để giúp người khác sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống không còn gieo những
hạt nhân xấu ác để cho họ khỏi bị gặt những kết quả khổ đau ở trong
đời nầy và đời sau.
Vậy, với cái thấy ấy và với tâm từ bi ấy, Phật giáo chẳng chống ai mà
cũng chẳng theo ai, mà chỉ thể hiện cái thấy ấy, cái tâm ấy dưới nhiều
hình thức thuận nghịch để cứu người, giúp đời, chứ không phải bám lấy
cuộc đời để hưởng thụ ngũ dục hoặc chạy theo ngũ dục trong đời để bị
chúng nhận chìm trong tăm tối khổ đau.
Do đó, lời nói của Hòa thượng “Không chống mà cũng không theo” cho ông
Mai Chí Thọ ngày ấy, không phải là một công án của Thiền học Việt Nam
hiện đại cho tất cả chúng ta thực tập để khám phá chân nghĩa thâm diệu ở
thời đại của chúng ta hay sao?!
Mỗi khi đối mặt với công án ấy, tôi thấy cuộc sống thật có ý vị và tôi
đã thấy Thầy tôi luôn luôn nhìn những thế hệ học trò của Người để mỉm
cười, dẫu rằng Người đã đi xa…
NAM MÔ TỪ LÂM TẾ CHÁNH TÔN TỨ THẬP TAM THẾ, HÚY THƯỢNG TÂM HẠ NHƯ, TỰ ĐẠO GIÁM HIỆU TRÍ THỦ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÙY TỪ CHỨNG GIÁM.