Trong khuôn khổ Tuần Văn hóa Phật giáo 2012 tại Nghệ An, GS.
Cao Huy Thuần từ Cộng hóa Pháp về tham dự và đã có buổi thuyết trình về
đề tại "Tại sao Phật giáo ảnh hưởng ở Phương Tây" tại nhà Văn hóa Lao
Động tỉnh Nghệ An. Buổi thuyết trình đã thu hút hàng nghìn người tham
dự, sau đây là toàn văn bài thuyết trình, BBT xin đăng tải để giới thiệu
cùng quý độc giả:
Tây phương biết Phật giáo từ hồi đầu thế kỷ 19. Nhưng hồi đó
chỉ mới một số ít học giả và triết gia khám phá ra sức thu hút của một
tư tưởng đến từ phương Đông mà người ta không biết nên gọi là tôn giáo
hay triết lý. Âm thầm, “im lặng, Phật giáo lan ra xã hội, phát triển
khắp nơi ở châu Âu” (1) từ giữa thế kỷ 19 cùng với sự phát triển của
trào lưu tiến hóa mà ngày nay ta gọi là hiện đại. Âm thầm, im lặng như
thế cho đến đầu những năm 60 của thế kỳ 20 thì Phật giáo bỗng được tiếp
nhận rộn ràng trong giới trẻ khi giới này phất lên một phong trào văn
hóa phản kháng (contre-culture) chống lại văn hóa tôn sùng kỹ thuật,
vật chất và tiền bạc. Giới trẻ khao khát một đời sống tâm linh mới giúp
họ giải quyết những vấn đề tâm lý, hiện sinh, và họ nghĩ đã tìm được
nơi Phật giáo. Đó là lúc mà nhiều trí thức trẻ tìm đến Tây Tạng như tìm
đến miền đất hứa. Nhanh chóng, trong vòng hai mươi năm, tu viện và
thiền viện mọc lên hàng trăm ngôi trên khắp Âu Mỹ. Giới trẻ - học thức
và trung lưu - gặp một thứ hạnh phúc mới mà họ thực chứng được bằng
kinh nghiệm tu học bản thân trong các thiền đường. Đến những năm 90 thì
báo chí, truyền thông rộ lên cả một cao trào tin tức, bình luận, phóng
sự, hình ảnh đầy cảm tình với Phật giáo. Cùng lúc, Hollywood nồng
nhiệt đưa lên màn ảnh phim truyện về cuộc đời của đức Phật, về ngài Đạt
Lai Lạt Ma, về Tây Tạng, nhiều ngôi sao màn bạc, nghệ sĩ, ca sĩ danh
tiếng trở thành Phật tử, khiến dư luận, quần chúng, càng có cảm tình
hơn. Bây giờ thì Phật giáo đã mọc rễ, đã phát triển trong xã hội, trong
đời sống văn hóa ở Âu Mỹ. Phật giáo là môn học được ưa chuộng trong
các trường đại học Mỹ danh tiếng, thu hút sinh viên ngày càng đông.
Thưa Quý Vị và các bạn thân mến, tôi rất vinh đự được nói chuyện với
Quý Vị trong Tuần Lễ Văn Hóa này, và rất vui mừng được đặc biệt làm
quen với các bậc trí thức và các bạn trẻ. Trong mấy câu nhập đề sơ lược
ở trên, chắc quý vị và các bạn đã để ý: tôi nhấn mạnh đến giới trẻ và
trí thức. Chẳng phải vì tôi thuộc vào thành phần ấy. Mà vì đó là khía
cạnh mà tôi muốn hạn chế trong đề tài của tôi. Âu Mỹ đang mở lòng tiếp
nhận một tư tưởng, một tôn giáo mà họ cho là rất trẻ và rất hiện đại.
Hiện đại: đó là khía cạnh của đề tài rộng lớn mà tôi sẽ nói chuyện với
quý vị hôm nay: tại sao Phật giáo bành trướng được ảnh hưởng trên Âu
Mỹ? Bài nói chuyện của tôi sẽ gồm 4 điểm vây quanh chủ đề hiện đại.
Trong điểm thứ nhất, tôi sẽ cắt nghĩa thế nào là hiện đại. Trong điểm
thứ hai, tôi trình bày: Phật giáo thích hợp với hiện đại như thế nào.
Trong điểm thứ ba, tôi sẽ nói: thế nhưng chính hiện đại đang bị khủng
hoảng. Trong điểm thứ tư, tôi trả lời: chính vì hiện đại bị khủng hoảng
mà Phật giáo lại càng thích ứng. Trong suốt bài nói chuyện của tôi, và
nhất là trong phần kết luận, các bạn sẽ nhận ra rằng tôi nói chuyện
phương Tây mà thật ra là tôi nói chuyện Việt Nam. Mở cửa nhìn ra thế
giới, chính là để biết mình là gì và biết mình phải làm gì.
I. Vậy thì, điểm thứ nhất:
Thế nào là hiện đại? Hiện đại là gì? Từ ngữ này đã trở thành quá phổ
thông, đã bị pha loãng ra trong ngôn ngữ thường ngày, ở ta cũng như ở
Âu Mỹ, cho nên phải trở về lại với lịch sử để tìm bản chất của nó.
Thông thường, ta dùng từ hiện đại để nói cái gì là mới, ngầm ý tán
thưởng: mới là hơn cũ, nay là hơn xưa. Thì cũng đúng thôi! Nhưng có
người sẽ nói trái lại: chắc gì mới đã hơn cũ, chắc gì nay đã hơn xưa! Ở
thời nào cũng vậy, và ở xã hội nào cũng vậy, hai khuynh hướng cứ đối
chọi nhau: một muốn đi tới, một muốn kéo lui, một cách tân, một hoài
cổ, bên nào cũng muốn biện minh khuynh hướng của mình, và nếu biện minh
có hệ thống thì trở thành ý thức hệ, trở thành chủ nghĩa, “chủ nghĩa
hiện đại” chống lại “chủ nghĩa truyền thống”. Để tránh cả hai cực đoan,
cực đoan của phe mới cũng như cực đoan của phe cũ, tôi lần theo chiều
lịch sử phân tích đâu là những yếu tố tạo thành cái mà ta gọi là hiện
đại.
Yếu tố quan trọng nhất là tự chủ, là con người tự
chủ, con người tự mình làm chủ mình. Làm chủ là thế nào? Kant đã cắt
nghĩa bằng một câu bất hủ khi được hỏi: “Khai Sáng là gì?” Ông trả lời:
“Là con người bước ra khỏi tình trạng vị thành niên”. Trước khi tư
tưởng Khai Sáng bừng nở, con người hãy còn thơ ấu, phải vịn vào tay
người lớn mà đi, bây giờ đi được một mình. Chữ Pháp, chữ Anh làm rõ hơn
nghĩa đó. Autonomie có gốc Hy Lạp là autos (tự mình) và nomos (luật) :
con người tự mình cai trị mình theo luật tự mình làm lấy, chứ không
phải luật do người khác làm ra và bắt mình phải theo. Và luật do mình
làm ra dựa trên cái gì? Dựa trên lý trí, lý tính mà đã là người thì ai
cũng có. “Hãy có can đảm sử dụng lý tính của chính mình!”: đó là châm
ngôn của Khai Sáng và cũng là châm ngôn của con người hiện đại. Đừng
dựa nữa vào bất cứ cái gì ở ngoài con người, nhất là ở trên cao. Hãy
đứng dậy, đừng vịn nữa vào Thượng Đế!
Từ yếu tố quan trọng nhất đó, từ tự chủ, cả một loạt các yếu tố khác
sáng rõ ra, bắt đầu là sự giải phóng của lý tính phê phán, bởi vì phê
phán là chức năng của lý tính. Không có gì được thoát ra khỏi phê phán,
không có đối tượng nào được xem là Tuyệt Đối, là húy kỵ, kể cả Thượng
Đế, kể cả Nhà Thờ. Kant hô to: “Hãy dám tư tưởng!” Không có lĩnh vực
nào là lĩnh vực riêng của bất cứ quyền uy nào: tất cả đều phải bước qua
“tòa án của lý tính”.
Trước tòa án đó, bị cáo mà tư tưởng hiện đại nhắm đến trước tiên là
lòng tin tôn giáo. Phải giải phóng lý tính ra khỏi lòng tin. Phải giải
phóng Galilée ra khỏi lòng tin nô lệ, tin rằng mặt trời xoay chung
quanh trái đất. Với lý tính, khoa học sẽ phát triển, và khoa học có khả
năng vén những tấm màn bí mật của vũ trụ mà lòng tin cố cản. Khoa học,
tư tưởng khoa học, đó là ánh sáng dẫn đường cho tính hiện đại, giúp
con người tự mình biến đổi thế giới, làm thành thế giới của con người,
đập tan mọi xiềng xích của mê muội. Khoa học sẽ phát triển không ngừng,
do đó tiến bộ cũng đi tới không ngừng, tiến bộ giống như mũi tên bắn
ra, chỉ bay thẳng phía trước, không ngoằn ngoèo, vòng vo.
Với tự chủ của con người trưởng thành, với lý tính được giải phóng
ra khỏi lòng tin, với khoa học vén màn bí mật, các bạn thấy lịch sử của
tư tưởng Âu châu cứ dần dần đi vào chiều hướng củng cố địa vị của con
người, bắt đầu từ thời Phục Hưng (thế kỷ XIV-XVI). Chiều hướng đó,
khuynh hướng đó, cao trào đó, tên của nó là nhân bản chủ nghĩa
(humanisme). Không thể hiểu được tư tưởng Âu châu nếu không thấy cái
hướng đi đó của chủ nghĩa nhân bản, và cũng không thể hiểu được hiện
đại là gì nếu trước hết không hiểu sự giằng co, có khi âm thầm, có khi
dữ dội, giữa Thiên chúa giáo và nhân bản chủ nghĩa (2). Cố gắng, cố
gắng không ngừng để phát triển, phát triển không ngừng tất cả những khả
năng của con người để đừng làm mất đi bất cứ cái gì làm con người lớn
lên, làm con người vinh thăng. Lớn lên bằng cách nào trong lịch sử Âu
châu? Bằng cách làm bớt đi, làm nhỏ dần Thượng Đế. Cho đến thế kỷ 19
thì Nietzsche loan báo: “Thượng Đế chết rồi! Chúng ta đã giết!”
Sự thực là Thượng Dế vẫn còn đấy thôi, nhưng thay hình đổi dạng,
không còn là Thượng Đế nhân dạng nữa. Mà cũng chẳng còn thống trị nữa
trong tư tưởng, trong đời sống xã hội, trong luật pháp, trong chính
trị, trong sinh hoạt thường ngày của người Âu châu. Thế kỷ 20 không còn
đặt vấn đề giết Thượng Đế nữa, bởi vì người ta sống ngoài vòng cương
tỏa của Thượng Đế, chẳng cần biết Thượng Đế là ai, có hay không, và
chính thái độ dửng dưng đó làm các người bênh vực Thượng Đế bực mình
còn hơn là thái độ chống đối Thượng Đế. Xã hội ngày nay ở châu Âu đi
vào tình trạng mà các nhà xã hội học gọi là thế tục hóa. Thế tục hóa:
đó cũng là một trong những yếu tố đặc trưng của hiện đại. Trên quá
trình hiện đại hóa đó thì Tây phương gặp đạo Phật.
II. Đạo Phật hiện đại như thế nào trước mắt Tây phương?
Con người Tây phương khám phá ra rằng cách đặt vấn đề của đạo Phật
đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tây phương đang chối từ Thượng Đế thì
đạo Phật giải thích không có Thượng Đế. Tây phương phải nhờ Darwin để
cắt nghĩa rằng vũ trụ không phải do một Đấng nào sáng tạo ra cả trong
bảy ngày thì đạo Phật đã nói cách đây hơn 2500 năm rằng thời gian là vô
thủy vô chung, vũ trụ là vô cùng vô tận. Tây phương ngay ngáy lo sợ về
ngày phán xét cuối cùng của Thượng Đế thì Phật giáo nói: không có ai
phán xét ta cả, chỉ có con người phán xét con người thôi. Tây phương
trăn trở về những vấn đề siêu hình thì Phật giao kể chuyện mũi tên: khi
anh bị mũi tên độc bắn vào thân thì anh phải rút nó ra ngay hay anh ca
vọng cổ hỏi mũi tên do ai bắn, lý lịch thế nào, hộ khẩu ở đâu. Rút mũi
tên ra: đó là nhu cầu giải phóng con người ở Tây phương và họ thấy nơi
Phật giáo một đáp số hợp với lý tính, đặt nặng trên kinh nghiệm, trên
thực hành, và kiểm chứng được bằng kết quả bản thân, ở ngay đời này,
chứ không phải đợi đến khi lên thiên đường, xuống địa ngục.
Hợp với lý tính: người Tây phương ngưỡng mộ nét đặc biệt đó của Phật
giáo, làm Phật giáo khác với các tôn giáo khác. Phật giáo từ chối lòng
tin nếu không đặt cơ sở trên trí tuệ. Bởi vậy, trong Phật giáo không
có tín điều. Tây phương ngưỡng mộ kinh Kâlâma khi Phật dạy: Đừng vội
tin một điều gì dù điều đó được ghi trong kinh điển hay sách vở. Hãy
quan sát, suy tư, thể nghiệm, thực chứng rồi mới tin. Tinh thần đó
xuyên suốt kinh kệ Phật giáo. Người trí thức Tây phương thấy tinh thần
đó hợp với khoa học, hợp với đầu óc phê phán. “Phật giáo là tôn giáo
duy nhất thích ứng với khoa học hiện đại”, Einstein đã phát biểu như
vậy.
Tại sao Phật giáo hợp với khoa học? Tại vì Phật giáo không nói điều
gì mà không có kiểm chứng. Phật giáo nói: sự vật là vô thường. Hãy nhìn
chung quanh với mắt của mình, kinh nghiệm của mình: có cái gì là
thường còn đâu? Cái thường còn duy nhất là khoảnh khắc này đây. Vậy thì
tìm thiên đường ở đâu nếu không phải nơi chính cái khoảnh khắc này?
Hạnh phúc nằm ngay nơi mỗi khoảnh khắc: đó là bài học hiện đại quý giá
nhất mà Phật giáo đem đến cho người Tây phương. Và hãy nhìn thêm nữa:
mọi sự mọi vật đều tương quan lẫn nhau mà có và tương quan lẫn nhau mà
diệt. Màu hồng nơi đóa hoa kia có phải tự nó mà có không? Đâu phải! Nếu
không có mặt trời thì nó đâu có hồng thắm như vậy? Nhưng mặt trời có
phải là tác giả duy nhất của màu hồng kia không? Không! Vì nếu không có
mưa thì làm sao hoa sống? Nhưng mưa có cũng là do mây, mây có cũng là
do hơi nước. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia cũng
không. Đó là luật vô ngã của Phật giáo và cũng là luật tương quan tương
sinh. Ai đọc sách của nhà vũ trụ vật lý học Trịnh Xuân Thuận đều biết:
những luật đó có nhiều điểm hội tụ với khoa học vũ trụ vật lý. Áp dụng
được luật đó vào đời sống bản thân, đời sống gia đình, đời sống xã
hội, cam đoan không cần tìm thiên đường ở đâu xa. Đó là chưa kể đến
luật nhân quả mà ai cũng có thể dễ kiểm chứng. Từ đó, người Tây phương
đi đến một cái nhìn hiện đại hơn nữa vào bản chất của cuộc đời để hiểu
chữ “khổ” trong Phật giáo. Họ chất vấn Thượng Đế: Nếu Thượng Đế là toàn
năng thì sinh ra làm chi thiên tai, động đất, triều cường, dịch này
dịch nọ giết hại phút chốc hàng trăm ngàn người như vậy? Nếu Ngài là
nhân từ thì sao con người khổ thế, con người khổ thế thì Ngài ở đâu?
Phải chăng, người Tây phương hỏi, khổ nằm ngay trong bản chất của cuộc
đời như muối nằm trong biển, mà sinh lão bệnh tử chỉ là những khía cạnh
dễ thấy nhất? Từ đó, Tây phương hiểu chữ “niết bàn” của Phật giáo đúng
hơn hồi thế kỷ 19: niết bàn là hết khổ, mà hết khổ là tự mình. Bản
thân tôi, mỗi khi tôi nghe ai cầu cho người chết được siêu thoát, tôi
không khỏi cười thầm, bởi vì “siêu” là vượt lên, “thoát” là giải thoát,
vượt lên trên tham sân si thì giải thoát, vậy thì nên cầu cho cả người
sống được siêu thoát. Tôi không dám đùa đâu, người Tây phương hiểu
điều đó hơn ta, bởi vì họ hiểu tư tưởng nhân bản của chính họ: nhân bản
nghĩa là con người vượt lên trên con người, con người có đủ khả năng
để vượt lên trên chính mình.
Nhưng vượt lên như thế nào, cụ thể bằng cách nào? Đây là cái mới mà
Phật giáo đem đến cho Tây phương và đem đến trong tinh thần khoa học.
Trong lịch sử, Tây phương đã vượt quá ta hằng mấy thế kỷ nhờ khám phá
thế giới bên ngoài. Nhưng đến một lúc họ bỗng giật mình thấy rằng khám
phá thế giới bên ngoài không đủ để đem lại hạnh phúc như họ tưởng bởi
vì con người còn có đời sống ở bên trong. Ngài Đạt Lai Lạt Ma nhắc họ:
“Những vấn đề của chúng ta, dù đến từ bên ngoài, như chiến tranh, như
bạo lực, như tội ác, hay đến từ bên trong dưới hình thức khổ đau về tâm
lý hay tình cảm, đều sẽ không tìm ra giải pháp chừng nào chúng ta còn
không hiểu chiều sâu nội tâm của ta” (3). Đó là lúc mà ngài và các vị
sư đắc đạo của Tây Tạng đến Âu Mỹ, mang theo một ánh sáng khoa học mới
rọi soi vào nội tâm của con người, để làm một cuộc cách mạng thứ hai mà
người Tây phương gọi là “cách mạng ở bên trong”, bổ túc cho “cách mạng
ở bên ngoài” mà Tây phương đã từng làm, từng biết với khoa học. Chìa
khóa của hạnh phúc không nằm ở đâu khác hơn là trong nội tâm mỗi cá
nhân. Mà muốn nhìn thấy cái chìa khóa đó thì phải rọi soi vào bên trong
bằng những kỹ thuật thiền định mà các nhà sư Tây Tạng đã thực chứng do
chính kinh nghiệm của họ. Trong lĩnh vực này, đừng hòng các lang băm
đến làm ăn bịp bợm: khoa học Âu Mỹ đã đặt nền móng vững chắc cho cuộc
thám hiểm vào não bộ của con người. Các nhà sư Tậy Tạng đã đem chính
bản thân để các máy móc tối tân trong các đại học danh tiếng nhất của
Mỹ đo lường ảnh hưởng của thiền định trên não bộ. Họ không phải chỉ đem
lời nói, họ đem thực hành, họ đem kỹ thuật, phương pháp cụ thể để các
nhà khoa học quan sát, phán xét tính hiệu nghiệm của thiền định, góp
phần lớn vào sự phát triển của ngành sinh học thần kinh. Tôi xin thú
thực: bản thân tôi có tính đa nghi, khi đọc lịch sử đức Phật, tôi không
hiểu làm sao Phật có thể ngồi thiền định dưới bóng cây bồ đề trong suốt
49 ngày. Bây giờ thì tôi hiểu: mỗi người chúng ta đều có một sức dự
trữ tâm linh mà ta không ngờ bởi vì chưa bao giờ sử dụng. Tôi sẽ trở
lui lại điểm này - cuộc hành trình của ta tìm ta để chữa bệnh cho chính
ta và chữa bệnh cho thời đại.
Bây giờ, tiếp tục vấn đề nhân bản và khoa học, có phải sức quyến rũ
của Phật giáo chỉ nằm ở tính khoa học của Phật giáo mà thôi hay không?
Tôi không nói đến chiều sâu của triết lý Phật giáo ở đây, cũng không
nói đến tính minh triết mà Tây phương đang tìm lại. Tôi chỉ hạn chế
trong một vấn đề nữa thôi: đạo đức. Đạo đức học ở Tây phương là những
răn cấm, những mệnh lệnh. Người Tây phương hiện đại có cảm tưởng như có
ngón tay chỉ vào trán và ra lệnh: mày không được thế này, mày không
được thế kia, mày làm là phạm tội. Phạm tội với ai? Tại sao như thế là
phạm tội? Tại sao tội đó phải nhờ một người khác giải tội với Trên Cao?
Đạo đức đó, con người hiện đại chối bỏ vì họ cảm thấy như vậy là hãy
còn vị thành niên. Đạo đức của Phật giáo trái hẳn, bắt nguồn từ con
người. Không ai ra lệnh, không ai răn cấm. Phật giáo nói: tham thì khổ,
sân thì khổ, si thì khổ. Từ thì vui, bi thì vui, hỷ thì vui, xả thì
vui. Từ bi hỷ xả, cứ thực hành sẽ thấy vui. Tham sân si, cứ mắc vào sẽ
thấy khổ. Đừng giết hại, đừng nói dối, đừng trộm cắp, đừng tà dâm, đừng
say rượu: đó là năm điều tôi tự nguyện với tôi, làm được đến đâu chính
tôi nhẹ nhàng đến đó. Đạo đức của Phật giáo là thực nghiệm, nhắm mục
đích làm cho con người tốt hơn đã đành, nhưng cốt nhất là làm nội tâm
thanh thản, bởi vì thanh thản chính là hạnh phúc.
Hơn thế nữa, đạo đức Phật giáo còn thức tỉnh con người hiện đại ở
Tây phương ở chỗ nới rộng lòng từ bi và ý thức liên đới ra khắp chung
quanh, không những giữa người với người, mà còn giữa người với thú vật,
với thiên nhiên. Dưới ảnh hưởng của tôn giáo cổ truyền của họ, Tây
phương đã cổ vũ, huy động từ thế kỷ 17 mọi cố gắng để chinh phục, cai
trị thiên nhiên. Chiến công đó, nhân loại cám ơn. Xẻ sông, lấp núi: cái
gì con người cũng làm được, thiên nhiên đã bị nhân hóa. Nhưng thiên
nhiên cũng đã bị khai thác, bóc lột đến kiệt quệ, rừng trọc đầu, mưa
hóa chất, nước nhiễm độc, chúng ta biết rõ hơn ai hết. Và rốt cục, con
người ăn trong miếng ăn những chất độc do chính con người thải ra. Đạo
đức đối với thiên nhiên trở thành trách nhiệm của chính con người. Các
tôn giáo khác nói: không được giết người. Phật giao nói: tôi nguyện
không sát sinh, nghĩa là không giết sự sống, và sự sống đó, thú vật đều
có, cây cối thiên nhiên đều có, vũ trụ, khí quyển, trái đất đều có,
tất cả đều liên đới với con người, phải yêu thương nhau như một thì mới
sống còn với nhau.
Tôi vừa động đến một vấn đề hiện đại có tính tiêu cực: vấn đề môi
trường. Bởi vì hiện đại không phải cái gì cũng hay. Hiện đại cũng có
lắm tiêu cực. Hiện đại cũng đang gặp khủng hoảng. Bởi vậy, sau khi tán
thưởng hiện đại và giải thích Phật giáo hiện đại như thế nào, tôi bắt
qua điểm thứ ba, trình bày những khủng hoảng của hiện đại.
III. Khủng hoảng của hiện đại.
Khủng hoảng quan trọng nhất của hiện đại là khái niệm về Tiến Bộ.
Hồi thế kỷ 19, với sự phát triển thần kỳ của khoa học, ai cũng lạc quan
về tương lai. Cha đẻ của môn xã hội học, Auguste Comte, xây dựng cả
một hệ thống lý thuyết cắt nghĩa rằng lịch sử của nhân loại là lịch sử
của tiến bộ, tiến bộ của đầu óc con người từ giai đoạn thần linh qua
giai đoạn siêu hình để cuối cùng đến giai đoạn khoa học. Đó là một sự
tiến bộ không ngừng và giai đoạn sau tốt đẹp cho con người hơn giai
đoạn trước về phúc lợi, vật chất cũng như tinh thần. Lạc quan đó, Tây
phương đã thấy đổ vỡ phũ phàng với chiến tranh thế giới thứ hai. Một
nước văn minh như nước Đức trở thành một nước dã man, phi nhân, trong
học thuyết cũng như trong hành động. Nước Đức quốc xã đưa ra hình ảnh
ghê rợn của một phá sản tinh thần, khi phá sản đó xảy ra trong chính
niềm tin vào “tiến bộ đạo đức” mà người ta chờ đợi ở hiện đại. Rồi bom
nguyên tử, rồi Hiroshima, rồi chiến tranh lạnh, rồi leo thang vũ khí
tận diệt nhân loại, đâu là Tiến Bộ, đâu là đạo đức của khoa học? “Khoa
học mà không có lương tâm là đổ nát của linh hồn”, câu nói ấy trở thành
thời sự trước mắt. Khoa học là mục đích nhưng lương tâm phải là người
bạn đồng hành. Nói là nói thế, nhưng trên thực tế người bạn đồng hành
của khoa học lại là chiến tranh, buôn bán vũ khí, chiến tranh làm phát
triển khoa học, khoa học phục vụ chiến tranh.
Khái niệm “tiến bộ” cũng được cảnh báo cả khi khoa học làm đúng
nhiệm vụ của khoa học là tìm tòi, nghiên cứu, phát minh, vén màn bí mật
của vũ trụ và đời sống. Không có gì quý hóa cho con người hơn là những
phát minh càng ngày càng nhiều trong y khoa. Khám phá về tế bào gốc
chẳng hạn là một trong những phúc lợi lớn mà nhân loại chờ đợi. Nhưng
lương tâm có cho phép ta tạo ra đồng loạt vô số những người y chang
giống nhau trong tương lai? Chẳng lẽ khoa học cũng bắt chước Tôn Hành
Giả nhổ một sợi lông, thổi một cái, để biến ra thành cả trăm con khỉ
giống hệt nhau, chẳng biết con nào là khỉ gốc họ Tôn? Hiện đại đang gặp
phải vấn đề của “đạo đức sinh học”, mà đạo đức sinh học không thể
không liên quan đến cái nhìn của tôn giáo.
Cuối cùng, khái niệm “tiến bộ” còn được đặt lại khi tiến bộ vật chất
đưa đến xã hội tiêu thụ trong đó con người bị tha hóa, nghĩa là mất
địa vị chủ. Đây là mê lộ trong đó con người Âu Mỹ nhởn nhơ sa vào. Muốn
phồn thịnh kinh tế, phải sản xuất. Muốn sản xuất, phải có tiêu thụ.
Muốn có tiêu thụ, phải kích thích nhu cầu, không có nhu cầu cũng phải
kích lên cho có. Nhu cầu này được thỏa mãn, phải kích lên nhu cầu khác,
nhu cầu phải luôn luôn mới để đáp ứng sản xuất phải mới luôn luôn.
Hiện đại đòi hỏi những con người có lý tính. Đâu còn là lý tính nữa
trước cuộc chạy đua không ngừng đuổi theo nhu cầu giả tạo, đuổi theo
tiêu thụ phù du? Con người trở thành nô lệ của quảng cáo, và quảng cáo,
tuyên truyền, có đủ mánh lới để tước bỏ phê phán ra khỏi đầu óc người
nghe. Lúc nhỏ, ở lớp 11, 12, tôi học câu thơ của Nguyễn Công Trứ: “Tri
túc tiện túc, đãi túc hà thời túc”. Biết đủ thì đủ, tìm đủ thì biết đến
bao giờ mới thấy đủ! Ấy là câu thơ dí cái chìa khóa vào tay ta để mở
cửa thoát ra khỏi mê lộ tiêu thụ. Nhưng cái tài của quảng cáo là mê
hoặc, đưa con người tiêu thụ vào siêu thị mà làm người ta tưởng vào
chốn đào nguyên!
Tha hóa: con người hiện đại thoát ra khỏi tha hóa đối với Trên Cao
thì lại rơi vào tha hóa ở dưới đất. Tha hóa trước sản phẩm, hàng hóa.
Tha hóa trước thị trường. Bởi vì cái gì bây giờ cũng trở thành thị
trường, cái gì cũng bị thị trường khai thác, kể cả lĩnh vực tâm linh.
Phật giáo cũng bị thôi, và bị chính vì sự thành công của mình. Tôi chỉ
lấy một ví dụ thôi: cái nhãn hiệu “Nirvana” trên một sản phẩm sắc đẹp
của quý bà. Thoa kem ấy vào, lập tức thấy cực lạc! Cực lạc bỗng trở
thành nạn nhân của tha hóa. Tôi nhấn mạnh điểm này để giải thích cho
các bạn về sự biến đổi của lòng tin ở Tây phương. Đúng là người Âu châu
có vấn đề với Thượng Đế. Đúng là nhà thờ vắng tín đồ. Đúng là linh mục
khan hiếm, phải cầu viện đến tận các linh mục Phi châu. Đúng là người
Âu châu không đi tìm nữa trong tôn giáo truyền thống của họ câu giải
đáp lớn cho những khắc khoải của tâm linh, mà đi tìm những phương thuốc
tức thì trên hạ giới này, trên đời sống này, ở đây và bây giờ, here
and now. Đúng như quy luật của thị trường, ở đâu có cầu thì ở đấy có
cung. Hàng loạt tín ngưỡng lang băm, chính tà lẫn lộn, xuất hiện trên
thị trường tâm linh, tranh nhau giành khách. Và khách ở đây là những
người có đời sống vật chất đầy đủ, nhưng bơ vơ, cô đơn, mất tập thể,
mất phương hướng, mất ý nghĩa sống. Ngày trước, con người Âu châu cũng
yếu đuối trước Thượng Đế, nhưng họ có cái gì để tin, họ có cái chắc
chắn. Bây giờ họ cũng yếu đuối, nhưng không có cái gì để tin nữa, họ
mất chân đứng, họ mất quân bình, họ mất chiều cao lẫn chiều ngang, họ
lung lay. Và vì họ lung lay, họ tưởng cần phải củng cố cái “tôi” của họ,
cái “tôi” mà một chủ nghĩa cá nhân quá đà đã đề cao lên thượng đỉnh.
Các bạn hiểu tại sao ngành phân tâm học phát triển như thế ở Âu Mỹ, tại
sao các bác sĩ phân tâm học đông khách nhà giàu và trí thức: họ đi tìm
cái “tôi” của họ! Nhưng cái “tôi” của họ trốn ở đâu? Một số người đi
tìm trong cùng tận thâm sâu bí ẩn của ý thức dưới ánh đèn pin của ông
Freud. Một số, nông cạn hơn, nghĩ rằng cái “tôi” của mình là cái thân
này đây, phải làm cho nó mạnh, khỏe, đẹp, và nhất là trẻ mãi, để “cực
lạc” mãi. Tất nhiên họ biết: cung cấp món ăn cho cái thân thì cũng phải
cung cấp món ăn cho cái tâm, vì tâm không yên thì thân cũng khó khỏe.
Nhưng họ ăn gì trên mâm cơm tinh thần của họ? Ăn lẫu. Nghĩa là hổ lốn.
Chút tôm, chút mực, chút thịt gà. Chút Chúa chút Phật. Bác ái lộn xà
ngầu với từ bi. Lấy một chút chỗ này, một chút chỗ kia, cái gì mà cá
nhân mỗi người thấy hoặc tưởng thích hợp cho riêng mình thì gắp bỏ chung
vào cái lẫu nước xúp tâm linh. Người Pháp gọi cách thực hành tân thời
này là “bricolage” - lắp ghép thủ công.
Trong chiều hướng đó, ngồi thiền phát triển khắp nơi tại Âu Mỹ. Tất
nhiên là hay. Nhưng trong cái hay đó, coi chừng cái dở. Cái dở là thị
trường tâm linh đánh đúng vào tâm lý con người thời đại, quảng cáo ngồi
thiền như một kỹ thuật để gìn giữ sức khỏe và chỉ như một kỹ thuật mà
thôi. Như một kỹ thuật, quảng cáo biến ngồi thiền thành một thứ kem xức
mặt, xức vào thì da mặt mát ra, nhìn vào gương thấy cái “tôi” của mình
như gái một con trông mòn con mắt. Chắc các bạn biết thần thoại Hy Lạp
về anh chàng Narcisse. Anh chàng mê mình đến độ ngất ngây soi bóng
mình trên mặt nước, soi gần, thật gần, môi chạm môi, và anh chàng lộn
cổ xuống ao. Con người hiện đại ở Tây phương cũng mê cái “tôi” của mình
như thế, ve vuốt nó, hôn nó, tưởng nó có thật trong một dòng sông ảo.
Nhà sư danh tiếng Tây Tạng Chögyam Trungpa gọi đùa khuynh hướng đó là
“chủ nghĩa duy vật tâm linh” (“spiritual materialism”). Nhưng đó đích
thực là một vấn đề, một thách thức đối với hiện tại và tương lai của
Phật giáo tại Âu Mỹ. Bởi vì ngồi thiền không phải chỉ là một kỹ thuật,
lại càng không phải để phục vụ cho cái “tôi”. Ngồi thiền, chính là để
thấy cái “tôi” là không có. Và như vậy là tôi bắt qua điểm thứ tư: Phật
giao trong thời hiện đại bị khủng hoảng.
IV. Phật giáo và khủng hoảng của hiện đại.
Nhiều tác giả gọi thời đại này là “hậu hiện đại”. Tôi không đồng ý
với khái niệm này nên chỉ đề cập ở đây hiện tượng khủng hoảng thôi. Và
tôi cũng chỉ xin hạn chế vấn đề vào một khủng hoảng thôi là khủng hoảng
của cái “tôi”.
Trước hết, tôi không phủ nhận phúc lợi của việc ngồi thiền, dù cho
ngồi thiền chỉ để tăng cường sức khỏe. Ai đã ngồi thiền và ngồi thiền
đúng kỹ thuật rồi đều nói: không phải chỉ sức khỏe được tăng cường, tâm
hồn cũng được thư thái. Bản thân tôi không phải chỉ chứng nghiệm một
lần mà cả ngàn lần: chỉ cần biết nén giận trong một giây thôi, đừng cho
nó nổ ra, đã là khóa được cái cửa của địa ngục. Huống hồ ngồi thiền
không phải chỉ trong một giây! Bởi vậy, người Tây phương biết đưa việc
ngồi thiền vào nhiều lĩnh vực: bệnh viện, nhà tù, trường học, công sở,
xí nghiệp… Họ làm có phương pháp, bài bản, làm việc gì cũng phải làm
cho đến nơi đến chốn.
Nhưng thiền không phải chỉ là thế. Thiền là tự biết mình, và tự biết
mình là để quên mình. Quên mình là để nhập làm một với tất cả những gì
hiện hữu. Đó là câu định nghĩa của Đạo Nguyên mà các thiền viện ở Âu
Mỹ áp dụng như kinh nhật tụng. Thế nào là tự biết mình? Tôi không muốn
đưa các bạn vào lý thuyết xa xôi. Chỉ nói một hành động nhỏ nhặt, cụ
thể, của một người Âu Mỹ khi lần đầu tiên bước vào thiền đường. Cử chỉ
đầu tiên là cởi giày. Cởi giày, xếp ngay ngắn. Bước nhẹ vào thiền
đường. nghe một mùi hương thoảng, gặp một im lặng thẳm sâu, đi trên một
sàn gỗ sạch không một hạt bụi, thấy một không gian không chướng ngại
mở rộng ra trước mắt. “Cởi giày”: đó là bài kinh đầu tiên của họ. Cởi
vướng mắc ra, giải thoát cho hai bàn chân, hai bàn chân quý lắm, bao
nhiêu nút thần kinh nằm ở trong đó, hai bàn chân quý lắm, nhờ nó mà
mình đứng vững được, hai bàn chân quý lắm, hãy biết quý hai bàn chân
như chưa bao giờ mình biết quý nó trước đây, hãy nghe hai bàn chân đang
hạnh phúc khi gặp hơi mát của sàn gỗ, nó và cái sàn gỗ đang tan thành
một, người bước vào phòng đang biến thành một với gian phòng trống, với
im lặng mênh mông. Bàn chân quên nó. Người bước vào phòng quên mình,
để cái “tôi” ngoài cửa, như để đôi dép.
Từ khi sinh ra, ta đã muốn chỉ huy cả thế giới, sai khiến mọi người
chung quanh. Đói, khóc ầm lên, mẹ phải đưa ngay bầu sữa. Thèm hơi ấm,
mếu máo để được người bồng. Muốn cái gì phải có ngay cái nấy, không thì
la hét. Ta là trung tâm của vũ trụ, tất cả mọi người đều phải chiều
ta. Lớn lên, ta cũng vậy thôi, 99% của cuộc đời ta được xài phí để lái
thiên hạ, bắt thiên hạ phải thỏa mãn ý muốn của ta. Thậm chí, cái mà ta
gọi là “tình yêu” suy cho cùng cũng chỉ là nhu cầu cần có một quan hệ
gần gũi để ta cảm thấy sung sướng. Có lẽ ở đâu cũng vậy, nhưng trong
văn hóa của cá nhân chủ nghĩa Âu Mỹ, nghĩ đến ta được xem là chuyện
bình thường, tất nhiên. Ai lái người khác giỏi để phục vụ mình tốt,
người ấy được xem là thành công. Thiền là trái ngược lại. Không nhắm
tích tụ. Không nhắm chinh phục. Càng nhiều cái “có” càng ít cái “là”,
cái tinh túy, cái bản chất, cái đem lại hạnh phúc. Và tôi “là” gì,
chính là ở phút này đây. Ở phút này đây, tôi còn sống, còn thở, còn
nói, còn có các bạn để nghe, còn có nắng đẹp ngoài kia, gió mát đang
thổi, hạnh phúc vô biên, hạnh phúc được sống với cái khoảnh khắc này,
được làm một với các bạn, được làm một với tất cả, được làm một với tờ
giấy trước mắt tôi. Thiền không phải là ngồi yên. Thiền là không đi ăn
mày nữa, không ngửa tay xin xu hào nơi người khác, nơi bên ngoài, bởi
vì thiền là biết rằng cả một kho tàng châu báu nằm ở trong ta, hãy nhìn
vào để thấy, và để chiêm nghiệm rằng ta càng trống đi cái “tôi” thì kho
tàng ấy càng đầy.
Các thiền viện Âu Mỹ biết nhắm đến cái mục đích ấy. Kho báu trong
tôi càng đầy, khả năng nhập thành một với mọi vật chung quanh càng nhạy
bén, và khi ấy, tôi khổ với cái khổ của bạn, tôi vui với cái vui của
bạn, tôi không còn nữa, bạn cũng không còn nữa, chỉ còn cái khổ chung,
cái vui chung. Định nghĩa của chữ “từ bi” là như vậy, và ngồi thiền
chính là để mở rộng lòng từ bi. Tôi đã là một với tất cả, làm sao tôi
không thương tất cả, từ thiên nhiên đến loài vật, từ người gần đến
người xa?
Tôi biết: đó là lý thuyết rất cao mà không phải ai cũng đạt được
hoặc hiểu được. Nhưng, tôi xin quả quyết: cứ bước dần đi mỗi bước rồi
sẽ thấy: quên mình nhiều nhiều hơn một chút, nghĩ đến người khác nhiều
nhiều hơn một chút, ấy là con đường đi đến hạnh phúc. Và xin các bạn
hãy biết điều này: các người Âu Mỹ ngồi trong thiền đường phần đông là
trí thức hoặc thuộc thành phần cao trong xã hội, đã nắm khá vững lý
thuyết Phật giáo và có lòng hướng đến một cái gì cao hơn đời sống vật
chất, vị kỷ. Tôi nói điều này là để nghĩ đến tương lai của Phật giáo ở
Âu Mỹ. Phật giáo hạn chế ở tầng lớp trí thức hay mở rộng ra cho đại
chúng?
Tôi không có thì giờ để đi sâu vào câu hỏi này. Chỉ xin nói rằng: bộ
não của con người gồm hai phần: khả năng lô-gích, trừu tượng, phân
tích, tương ứng với não bộ phía trái; khả năng nhận ra sự giống nhau
giữa những cái khác nhau, trực giác, tổng hợp, tương ứng với não bộ
phía phải (4). Tác giả Frédéric Lenoir cho rằng văn minh Tây phương chú
trọng tác động trên vũ trụ, tương ứng với việc đặt ưu tiên trên não bộ
phía phải. Phật giáo đến Tây phương đã đóng vai trò tích cực trong
việc làm quân bình hai vùng trong não bộ con người Tây phương. Trong
cái ý đó, câu nói nổi tiếng của nhà sử học Arnold Toynbee đã thành dễ
hiểu: “Sự gặp gỡ giữa Phật giáo và Tây phương là biến cố có ý nghĩa
nhất của thế kỷ 20”.
Tôi cũng nhân cái ý đó để nói thêm rằng Phật giáo chính là sự quân
bình và trước hết là quân bình giữa trí tuệ và lòng tin. Không có trí
tuệ thì không hiểu được đức Phật. Nhưng không có lòng tin thì cánh cửa
cuối cùng của trí tuệ vẫn không mở ra. Trí tuệ cũng như hoa mai. Lòng
tin cũng như hơi ấm đầu tiên của mùa xuân. Chạm vào một điểm của hơi ấm
đó thôi, hoa nờ bung. “Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa” là vậy. Chỉ một
làn gió xuân thoảng qua thôi, chốn chốn hoa mai bừng nở. Thiền là cây
cầu bắt qua giữa trí tuệ và lòng tin. Đó là pháp môn - cánh cửa đạo -
mở ra cho các bậc thượng thủ. Nhưng không phải ai cũng là thượng thủ
cả, cho nên Phật giáo nói có đến “bốn vạn tám ngàn pháp môn” thích hợp
với căn cơ của mỗi người. Ai giàu trí tuệ, như giới trí thức ở Âu Mỹ,
đi vào Phật giáo bằng cửa thiền. Ai giàu lòng tin… Đây chính là tương
lai của Phật giáo tại Tây phương. Bởi vì Phật giáo muốn lan tỏa ở đây
phải biết rằng không phải ai cũng là trí thức. Vậy thì, có một nhánh
Phật giáo nào ở Âu Mỹ có khả năng lan tỏa ra đại chúng chăng? Có. Đó là
Phật giáo Tây Tạng mà ngài Đạt Lai Lạt Ma là hình ảnh sống động. Phật
giáo bám rễ được ở Tây phương là nhờ ngài và cả một loạt những nhà sư
Tây Tạng xuất chúng qua giáo hóa tại đấy. Chỉ mỗi một việc xuất hiện
của các vị đó thôi đã làm dấy động được lòng tin nơi quần chúng. Phật
giáo Tây Tạng đáp ứng được những khắc khoải về tâm linh của quần chúng
hơn là thiền tông đến từ các thiền sư Nhật Bản. Nhưng dù là thiền tông
hay Phật giáo Tây Tạng, trí tuệ và lòng tin phải cùng bay với nhau như
hai cánh của con đại bàng.
Các bạn đồng nghiệp trí thức và sinh viên thân mến, chính vì hai
cánh của con đại bàng mà tôi chọn đề tài này để nói chuyện với các bạn
hôm nay. Tôi đâu có nói chuyện bên Tây. Tôi nói chuyện bên ta! Chúng ta
đã lãng quên trí tuệ của thiền tông Yên Tử. Chẳng lẽ đạo Phật trí tuệ
đã bay cả rồi qua bên Tây? Chẳng lẽ Tây phương thừa hưởng hết tinh túy
của Phật giáo? May thay, chúng ta rất giàu lòng tin, nhưng buồn thay,
lắm khi, lắm nơi, đó là tin nhảm, đó là mê tín, đó không phải là đạo
Phật. Không, nhất quyết ta không để gãy chiếc cánh trí tuệ của con đại
bàng Lý Trần. Nhất quyết ta củng cố lòng tin chân chính. Đó là nhiệm vụ
của Tuần Lễ Văn Hóa hôm nay. Các bạn trí thức Nghệ An thân mến, hãy
chắp lại hai cánh của con đại bàng lịch sử. Hãy bay với hai cánh vào
hiện đại.
C.H.T
Chú thích:
• Câu nói của Nietzsche, trích trong Frédéric Lenoir, Le bouddhisme en France (xem l ại) trang 9.
• Fernand Braudel: Grammaire des civilisations, Arthaud-Flammarion, 1987, trang 371.
• Dẫn trong Frédéric Lenoir, La rencontre du bouddhisme et de l’Occident, Albin Michel, 2001, trang 318.
• Frédéric Lenoir, như trên, trang 353.
Source: DPNN