Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Chú Hành Pháp
Tôn giả Tứ Minh Tri Lễ [1], biên tập nghi quỹ.
Luật sư Hoa Sơn Độc Thể [2], sửa văn chỉnh lời.
Sa môn Gia Hòa Tịch Xiêm [3], thêm tranh khắc bản.
Việt dịch: Quảng Minh.
Nam mô đại bi Quan Thế Âm bồ tát. (3 lần)
Nhất thiết cung kính: Một lòng kính lạy Tam bảo thường trú khắp cả mười phương. (1 lạy)
(Đốt hương, rải hoa, vị chủ lễ xướng:)
Tất cả đại chúng, xin mời quỳ xuống, nghiêm cầm hương hoa, như pháp cúng dường.
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Vô biên quốc độ Phật
Vô lượng hương trang nghiêm
Đầy đủ đạo bồ tát
Thành tựu hương Như lai.
(Quán tưởng:)
Con dâng hương hoa khắp mười phương
Làm đài ánh sáng rất vi diệu
Các âm nhạc, hương báu cõi trời
Các món ăn, y báu cõi trời
Không thể nghĩ bàn pháp trần mầu
Mỗi một trần thành tất cả trần
Mỗi một trần thành tất cả pháp
Chuyển hóa vô ngại, trang nghiêm nhau
Khắp cả mười phương trước Tam bảo
Đều có thân con hiến cúng dường
Mỗi cúng phẩm khắp cả pháp giới
Thế tôn và con không ngại nhau
Cùng tận vị lai làm việc Phật
Khắp xông pháp giới các chúng sanh
Được xông đều phát tâm bồ đề
Cùng vào vô sanh, chứng trí Phật.
(Cúng dường xong, tất cả cung kính, vị chủ lễ xướng:)
Kính lạy đời quá khứ Như lai Chánh Pháp Minh, chính là đời hiện tại
bồ tát Quán Thế Âm, đấng thành công đức diệu, đầy đủ lòng đại bi, nơi
trong một thân tâm hiện ra ngàn tay mắt, soi thấy khắp pháp giới, hộ trì
các chúng sanh, phát tâm đạo rộng lớn, dạy trì chú Viên mãn, mãi rời xa
đường ác, được sanh trước chư Phật. Những tội nặng vô gián, cùng bịnh
ác quấy thân, khó nỗi cứu vớt được cũng đều khiến tiêu trừ. Các tam
muội, biện tài, những mong cầu hiện tại đều cho được toại nguyện. Quyết
định không nghi ngờ thì mau được ba thừa, sớm lên quả vị Phật. Sức oai
thần công đức, khen ngợi sao cho cùng, cho nên con một lòng, quy mạng và
đảnh lễ. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đức Phật bổn sư là Thích Ca Mâu Ni Thế tôn. (1 lạy)
(Quán tưởng:)
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Thích Ca Như lai hào quang sáng ngời
Trước Thế tôn thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
Một lòng kính lạy đức Phật ở thế giới Cực lạc phương Tây là A Di Đà Thế tôn. (1 lạy)
(Quán tưởng:)
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
A Di Đà Phật hào quang sáng ngời
Trước Thế tôn thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
Một lòng kính lạy đức phật ở đời quá khứ trong vô lượng ức kiếp là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Thế tôn. (1 lạy)
Một lòng kính lạy chín mươi chín ức hằng sa chư Phật Thế tôn ở đời quá khứ. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đức phật ở đời quá khứ trong vô lượng kiếp là Chánh Pháp Minh Thế tôn. (1 lạy)
Một lòng kính lạy tất cả chư Phật Thế tôn khắp cả mười phương. (1 lạy)
Một lòng kính lạy một ngàn đức Phật ở Hiền kiếp, ba đời tất cả chư Phật Thế tôn. (1 lạy)
Một lòng kính lạy chương cú thần diệu tên là Quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni. (xưng lễ 3 lần)
(Quán tưởng:)
Chân không pháp tánh như hư không
Pháp bảo thường trú khó nghĩ bàn
Thân con ảnh hiện trước pháp bảo
Một lòng như pháp quy mạng lễ.
Một lòng kính lạy vị thuyết ra các đà la ni là đại bồ tát Quán Thế Âm và mười phương ba đời tất cả tôn Pháp. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đại bồ tát Quán Thế Âm, bậc tự tại, đại từ đại bi, ngàn tay ngàn mắt. (xưng lễ 3 lần)
(Quán tưởng:)
Bồ tát, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Bồ tát đại bi hào quang sáng ngời
Trước bồ tát thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
Một lòng kính lạy đại bồ tát Đại Thế Chí. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đại bồ tát Tổng Trì Vương. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đại bồ tát Nhật Quang, đại bồ tát Nguyệt Quang. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đại bồ tát Bảo Vương, đại bồ tát Dược Vương, đại bồ tát Dược Thượng. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đại bồ tát Hoa Nghiêm, đại bồ tát Đại Trang Nghiêm, đại bồ tát Bảo Tạng. (1 lạy)
Một lòng kính lạy đại bồ tát Đức Tạng, đại bồ tát Kim Cang Tạng, đại bồ tát Hư Không Tạng. (1 lạy) [4]
(Lễ xong, đứng lên chắp tay tụng:)
Kinh nói: Nếu có vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, hay
đồng nam, đồng nữ nào, muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm
từ bi đối với chúng sanh và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau biết tất cả pháp.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm được con mắt trí tuệ.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau độ tất cả chúng sanh.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm được phương tiện tốt.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau ngồi thuyền bát nhã.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm vượt biển cả khổ đau.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau được các pháp giới định.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm lên núi cao niết bàn.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau về ngôi nhà vô vi.
Kính lạy đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm đồng thân thể pháp tánh.
Nguyện con đến núi đao thì núi đao tự gãy đỗ.
Nguyện con đến vạc sôi thì vạc sôi tự khô cạn.
Nguyện con đến địa ngục thì địa ngục tự hủy diệt.
Nguyện con đến ngạ quỷ thì ngạ quỷ tự no đủ.
Nguyện con đến tu la thì tu la tự hiền lành.
Nguyện con đến súc sanh thì súc sanh tự khôn ngoan. [5]
(Hành giả quán tưởng thân mình đang đối trước chư Phật và bồ tát,
xưng niệm hồng danh, tha thiết thành tâm như đang bị thiêu đốt, đắm
chìm mà cầu xin cứu giúp)
Nam mô Quán Thế Âm bồ tát. (21 lần đến 49 lần, 1 lạy)
Nam mô A Di Đà Phật. (21 lần đến 49 lần, 1 lạy)
(Tụng tiếp:)
Bồ tát Quán Thế Âm thưa với đức Phật: Bạch đức Thế tôn, nếu các
chúng sanh tụng trì thần chú đại bi mà đọa ba đường ác thì con thề không
thành chánh giác. Người tụng trì thần chú đại bi nếu không sanh về
quốc độ của chư Phật thì con thề không thành chánh giác. Người tụng trì
thần chú đại bi nếu nơi tâm không đắc vô lượng tam muội biện tài thì
con thề không thành chánh giác. Người tụng trì thần chú đại bi tâm,
sống trong đời hiện tại, có những mong cầu mà không có kết quả toại
nguyện thì thần chú này không được gọi là đà la ni đại bi tâm
Bồ tát Quán Thế Âm nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay
đứng thẳng, đối với các chúng sanh khởi tâm đại bi, nở mặt mỉm cười,
liền nói chương cú thần diệu tên là Quảng đại viên mãn vô ngại đại bi
tâm đà la ni:
1. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
(Đây là bản thân của bồ tát Quán Thế Âm, phải khởi đại bi, dụng tâm đọc tụng, đừng cao giọng, tâm ý nóng vội)
2. Nam mô a rị da.
(Đây là bản thân của bồ tát Như Ý Luân, đến đây phải gìn giữ tâm ý)
3. Bà lô yết đế thước bát ra da.
(Đây là bản thân của bồ tát Trì Bát Quán Thế Âm. Nếu muốn lấy xương
cốt xá lợi, thì tụng chú này, quán tưởng bồ tát đang cầm bát)
4. Bồ đề tát đỏa bà da.
(Đây là bồ tát Bất Không Quyến Sách, nắm giữ đại binh)
5. Ma ha tát đỏa bà da.
(Đây là chủng tử của bồ tát, tức bản thân của người tụng chú)
6. Ma ha ca lô ni ca da.
(Đây là bản thân của bồ tát Mã Minh, tay cầm chày Kim Cang)
7. Án.
(Chữ án này là các quỷ thần chắp tay lắng nghe tụng chú)
8. Tát bàn ra phạt duệ.
(Đây là bản thân của bốn đại thiên vương, hàng phục ma quân)
9. Số đát na đát tả.
(Đây là danh tự của bộ lạc quỷ thần thuộc bốn đại thiên vương)
10. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da.
(Đây là bản thân của bồ tát Long Thọ, cần phải dụng tâm mà tụng câu này, chớ có qua loa mà đánh mất tâm tánh bồ tát)
11.Bà lô cát đế thất phật ra lăng đà bà.
(Đây là viên mãn báo thân Lô Xá Na Phật)
12. Nam mô na ra cẩn trì.
(Đây là bản thân của thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật, cần phải dụng tâm)
13. Hê rị ma ha bàn đa sa mế.
(Đây là thần vương Dương Đầu, cùng với các quyến thuộc của thiên ma)
14. Tát bà a tha đậu du bằng.
(Đây là bồ tát Cam Lộ, cũng là bộ lạc của bồ tát Quán Thế Âm dùng làm quyến thuộc)
15. A thệ dựng.
(Đây là thiên vương dạ xoa Phi Đằng, đi tuần khắp bốn phương để xem xét những điều thị phi)
16. Tát bà tát đá (na ma bà tát đa [6] ) na ma bà dà.
(Đây là thần vương Bà Gia Đế, thân hình cao lớn, da đen, lấy da báo làm quần, tay cầm cây đao sắt)
17. Ma phạt đặc đậu.
(Đây là bản thân của bồ tát Quân Trà Lợi, cầm bánh xe sắt và sợi dây, có ba con mắt)
18. Đát điệt tha.
(Đây là lời nói sắc bén)
19. Án, a bà lô hê.
(Đây là bản thân của bồ tát Quán Thế Âm, chắp tay ngang ngực)
20. Lô ca đế.
(Đây là bản thân của thiên vương Đại Phạn, bộ lạc của thần tiên)
21. Ca ra đế.
(Đây là đế thần có thân dài lớn, màu đen)
22. Di hê rị.
(Đây là thiên thần Ma Hê Thủ La ở cõi trời Tam thập tam thiên thống lãnh thiên binh, thân màu xanh)
23. Ma ha bồ đề tát đỏa.
(Đây là chân tâm, cũng có nghĩa là tâm không tạp loạn, nên gọi là tát đỏa)
24. Tát bà tát bà.
(Đây là bồ tát Hương Tích nắm giữ quỷ binh của năm phương để làm tùy tùng, việc đó không thể nghĩ bàn)
25. Ma ra ma ra.
(Đây là bồ tát dùng lời nói trị phạt cũng tức là cứu giúp chúng sanh)
26. Ma hê ma hê rị đà dựng.
(Giống như câu trên)
27. Câu lô câu lô yết mông.
(Đây là bồ tát Không Thân nắm giữ tướng quân Thiên Đại thống lãnh hai mươi muôn ức thiên binh)
28. Độ lô độ lô phạt xà da đế.
(Đây là bồ tát Nghiêm Tuấn nắm giữ Khổng Tước Vương cùng binh chúng thô bạo)
29. Ma ha phạt xà da đế.
(Giống như câu trên)
30. Đà ra đà ra.
(Đây là bồ tát Quán Thế Âm, thị hiện cái thân đại trượng phu)
31. Địa rị ni.
(Đây là Sư Tử Vương, chứng nghiệm và che chở người đọc tụng)
32. Thất phật ra da.
(Đây là bồ tát Tích Lịch, hàng phục các loài ma và quyến thuộc của chúng)
33. Giá ra giá ra.
(Đây là bản thân của bồ tát Tồi Toái, tay cầm bánh xe vàng)
34. Mạ mạ.
(Họ tên …. thọ trì)
Phạt ma ra.
(Đây là bản thân của Đại Hàng Ma Kim Cang, tay cầm bánh xe vàng)
35. Mục đế lệ.
(Đây là chư Phật chắp tay nghe tụng chân ngôn)
36. Y hê y hê.
(Đây là thiên vương Ma Hê Thủ La)
37. Thất na thất na.
(Giống như câu trên)
38. A ra sâm phật ra xá lợi.
(Đây là bồ tát Quán Thế Âm, tay cầm cái bàng bài, cây nỏ, cây cung và mũi tên)
39. Phạt sa phạt sâm.
(Giống như câu trên)
40. Phật ra xá da.
(Đây là bản thân của đức Phật A Di Đà, bổn sư của bồ tát Quán Thế Âm)
41. Hô lô hô lô ma ra.
(Đây là tám bộ quỷ thần vương)
42. Hô lô hô lô hê rị.
(Giống như câu trên)
43. Sa ra sa ra.
(Thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục)
44. Tất rị tất rị.
(Đây là bồ tát Quán Thế Âm làm lợi ích tất cả chúng sanh, việc đó không thể nghĩ bàn)
45. Tô rô tô rô.
(Đây là tiếng lá cây rơi rụng ở cõi nước của chư Phật)
46. Bồ đề dạ bồ đề dạ.
(Đây là bồ tát Quán Thế Âm kết duyên với chúng sanh)
47. Bồ đà dạ bồ đà dạ.
(Đây là bản thân của tôn giả A Nan)
48. Di đế rị dạ.
(Đây là bồ tát Đại Xa, tay cầm cây đao vàng)
49. Na ra cẩn trì.
(Đây là bồ tát Long Thọ, tay cầm cây đao vàng)
50. Địa rị sắc ni na.
(Đây là bồ tát Bảo Tràng, tay cầm cây chĩa ba sắt)
51. Ba dạ ma na.
(Đây là bồ tát Bảo Kim Quang Tràng, tay cầm cây xử bạt chiết la)
52. Sa bà ha.
53. Tất đà dạ.
(Đây là thông đạt tất cả pháp môn)
54. Sa bà ha.
55. Ma ha tất đà dạ.
(Đây là bồ tát Phóng Quang, tay cầm phan đỏ)
56. Sa bà ha.
57. Tất đà du nghệ.
(Đây là chư thiên, bồ tát thảy đều vân tập, tay cầm cây đao vàng)
58. Thất bàn ra dạ.
(Đây là an tức hương)
59. Sa bà ha.
60. Na ra cẩn trì.
(Đây là bản thân của bồ tát Sơn Hải Huệ, tay cầm cây kiếm vàng)
61. Sa bà ha.
62. Ma ra na ra.
(Đây là bồ tát Bảo Ấn Vương, tay cầm cây búa vàng)
63. Sa bà ha.
64. Tất ra tăng a mục khư da.
(Đây là bản thân của bồ tát Dược Vương, chữa trị các bệnh)
65. Sa bà ha.
66. Sa bà ma ha a tất đà dạ.
(Đây là bản thân của bồ tát Dược Thượng, chữa trị các bệnh)
67. Sa bà ha.
68. Giả cát ra a tất đà dạ.
69. Sa bà ha.
70. Ba đà ma yết tất đà dạ.
71. Sa bà ha.
72. Na ra cẩn trì bàn già ra dạ.
73. Sa bà ha.
74. Ma bà lị thắng yết ra dạ.
75. Sa bà ha.
76. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
77. Nam mô a rị da.
78. Bà lô cát đế.
79. Thước bàn ra dạ.
80. Sa bà ha.
81. Án tất điện đô.
82. Mạn đá ra.
83. Bạt đà da.
84. Sa bà ha. [7]
Bồ tát Quán Thế Âm nói chú này xong thì đại địa chấn động đủ cả sáu
cách, chư thiên mưa xuống hoa báu đầy dẫy, mười phương chư Phật thảy đều
hoan hỷ. Thiên ma, ngoại đạo sợ hãi, lông tóc dựng đứng. Tất cả chúng
hội đều được quả chứng, có vị đắc quả tu đà hoàn, có vị đắc quả tư đà
hàm, có vị đắc quả a na hàm, có vị đắc quả a la hán, có vị chứng đắc
địa thứ nhất, địa thứ hai, địa thứ ba, địa thứ tư, địa thứ năm, cho đến
địa thứ mười. Vô lượng chúng sanh phát tâm bồ đề. (1 lạy)
(Niệm thầm:)
Đệ tử … cùng pháp giới chúng sanh, vô thỉ thường tạo tội chướng sâu
nặng từ ba nghiệp và sáu căn, là do không gặp được chư Phật nên không
biết lối ra, chỉ thuận theo sanh tử nên không biết lý mầu. Nay con biết
được thì cũng đã cùng chúng sanh tạo ra không biết bao nhiêu tội chướng
sâu nặng rồi. Con đối trước mười phương chư Phật, trước đại bồ tát
Quán Thế Âm, khắp vì chúng sanh mà quy mạng sám hối, nguyện xin gia hộ
khiến cho tội chướng được tiêu diệt cả.
(Quỳ xuống, xướng:)
Đệ tử chúng con khắp vì bốn ơn ba cõi và pháp giới chúng sanh, nguyện đoạn trừ cả ba thứ chướng ngại [8], nên quy mạng sám hối.
(Xướng xong, năm vóc sát đất, nhất tâm tưởng niệm:)
Đệ tử … cùng pháp giới chúng sanh, vô thỉ đến giờ, do ái và kiến [9]
mà trong chấp nhân ngã, ngoài vì bạn xấu, nên không tùy hỷ ai cả, dầu
là một điều thiện bằng tơ tóc, chỉ biết bùng dậy tội lỗi bằng cả ba
nghiệp. Việc tuy không rộng mà ác ý bủa khắp. Ngày đêm liên tục, không
có gián đoạn. Che giấu lỗi lầm, không muốn ai hay. Không sợ đường dữ,
không hổ không thẹn. Bài bác cho rằng không có nhân quả. Vì vậy ngày
nay, tin tưởng sâu xa nguyên lý nhân quả, phát sanh hổ thẹn hệ trọng, sợ
hãi to lớn mà bộc bạch sám hối. Đoạn tâm liên tục mà phát tâm bồ đề.
Đoạn ác tu thiện, siêng năng thúc giục cả thân miệng ý. Đổi bỏ tánh xấu
nặng nề ngày xưa mà tùy hỷ với người phàm cũng như bậc thánh, dầu một
điều thiện bằng tơ tóc mà thôi. Nghĩ nhớ chư Phật mười phương có phước
tuệ to lớn, có thể cứu vớt con, đem con ra khỏi biển hai chết [10] mà đặt lên trên bờ ba đức [11].
Từ vô thỉ đến nay, con không biết các pháp bản tính vắng lặng, nên đã
gây nhiều điều ác, nay biết được các pháp vắng lặng mà cầu bồ đề, muốn
độ chúng sanh mà làm nhiều việc thiện, dứt hết điều ác, nguyện xin đức
Quán Thế Âm từ bi nhiếp thọ.
(Tưởng niệm xong, quỳ xướng:)
Chí tâm sám hối: Đệ tử ... cùng pháp giới chúng sanh, hiện tiền một
tâm, vẫn đủ ngàn pháp, đều có sức thần, cùng với trí sáng, trên đồng
tâm chư Phật, dưới bằng tánh muôn loài. Do bởi u mê che ánh sáng kia,
nên đối cảnh hôn mê, khởi lòng chấp nhiễm, nơi pháp tánh bình đẳng mà
lại nhân ngã bỉ thử. Lại do ái kiến làm gốc, thân miệng làm duyên, trong
nẻo luân hồi, gây nên đủ tội: mười ác, năm nghịch, khinh chê người
khác, hủy báng chánh pháp, phá trai, phạm giới, phá tháp, hủy chùa, lấy
cắp tài vật của tăng bốn phương, làm bẩn phạn hạnh thanh tịnh, xâm tổn
tài vật, ẩm thực của thường trụ, thì dẫu cho có ngàn Phật xuất thế cũng
khó sám hối. Những tội như thế, không lường không ngằn, khi bỏ báo
thân, phải đọa ba đường ác, chịu vô lượng khổ sở. Lại trong đời này,
phiền não thiêu đốt, tật bịnh vây quanh, duyên ngoài bức bách, chướng
ngăn đạo pháp, khó nỗi tiến tu. May gặp thần chú Viên mãn đại bi, có
thể mau trừ những tội như thế, cho nên nay con, hết lòng trì tụng. Con
nguyện nương về bồ tát Quán Thế Âm, các đấng đạo sư trong mười phương,
phát tâm bồ đề, tu hạnh chân ngôn, cùng với chúng sanh, tỏ bày các tội,
cầu xin sám hối, nguyện đều tiêu trừ.
Nguyện đức đại bi Quán Thế Âm đại bồ tát nắm giữ con bằng ngàn tay,
soi thấy con bằng ngàn mắt, làm cho con bặt hết duyên chướng trong
ngoài, trở về vắng lặng, hạnh nguyện của con và người cùng được viên
thành, mở ra bản tánh thấy biết, dẹp trừ ngoại ma, ba nghiệp siêng cần,
tu nhân tịnh độ.
Xin nguyện cho con, khi bỏ thân này, không vào đường khác, quyết được
sanh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà, đích thân cúng dường đức
đại bi Quán Thế Âm, đủ các tổng trì, rộng độ quần sanh, đều thoát khổ
luân, đều thành Phật đạo.
(Đứng lên, xướng:)
Đệ tử sám hối phát nguyện rồi, xin quy mạng đảnh lễ Tam Bảo. (1 lạy)
Nam mô Thập phương Phật.
Nam mô Thập phương Pháp.
Nam mô Thập phương Tăng.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Phật.
Nam mô Quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đại đà la ni.
Nam mô Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát.
Nam mô Đại Thế Chí bồ tát.
Nam mô Tổng Trì Vương bồ tát.
Tự quy y Phật
Xin nguyện chúng sanh
Thể theo đạo cả
Phát lòng vô thượng.
Tự quy y Pháp
Xin nguyện chúng sanh
Thấu rõ kinh tạng
Trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng
Xin nguyện chúng sanh
Quản lý đại chúng
Hết thảy không ngại.
Kính chào thánh chúng.
********
Tâm này vốn phi tâm, huyễn xuất ngàn tay mắt, cõi cõi dụng toàn
chương, trần trần thể ứng hiện, quán hết thế gian âm, nhĩ căn thảy soi
thấy. Cúi đầu đại bi đà la ni, tầm thanh cứu khổ không nghĩ bàn. Một
tơ tóc còn không tha vật, lấp đầy hư không đó là anh. Ôi ! Khắp chuyển
hàm linh lên bờ giác, ngàn sai muôn khác cùng dung hợp.
Lại nữa, từ nơi văn tự chẳng lập, cả khi danh tướng chưa sanh, thử
nói cứu cánh gọi cái gì, chẳng phải suy lường tuyệt nói suy. Chân như là
như thế, tự tại là ở đây. Lấy ra trong đó cái then máy, chẳng ngại
việc tốt cả nhà hay.
Tịch Xiêm tôi thưở nhỏ có được đại bi tâm chú và xuất tượng, kính
tụng đã lâu. Đến đầu năm Khang Hy, Ất mão, hợp khắc sám pháp. Nay là
mùa đông Kỷ Mão, tôi tham duyệt mấy bản, gộp làm hành pháp, biên tập một
lần nữa. Với những vị cùng chung chí nguyện, Tịch Xiêm tôi đến lễ bái,
chào hỏi. Bạch miêu [12] tận cùng điều thiện, tự họa còn
nơi giao phó, Đường ngôn chẳng phải, Phạn ngữ không sai, trú huyễn tùy
hỷ chắp tay ngang trán, xưng niệm Quán Âm trì chú đại bi.
Chùa Tây thiên ở Mục sơn, sa môn Minh Bổn lễ bái, cảm ghi cuối quyển bài kệ:
Đại trí Quán Thế Âm
Đấng đủ đại bi tâm
Khéo thuyết đà la ni
Đại bi cứu tất cả
Con nay phát nguyện rộng
Trì tụng đà la ni
Vô ngại đại bi tâm
Ánh sáng từ đảnh xuất
Khắp soi con, cõi này
Và cả mười phương giới
Dưới cứu dáy phong luân
Trên đến trời hữu đảnh
Di lâu cùng thiết vi
Nước biển lớn, sông ngòi
Trong đây các chúng sanh
Được chiếu đều lợi ích
Rời khổ được giải thoát
Đều phát tâm bồ đề
Hết một báo thân này
Cùng sanh nước Cực lạc
Nguyện đại bi tâm này
Ánh sáng chiếu mười phương
Bao nhiêu hư không giới
Vi trần các cõi Phật
Quốc độ các Như lai
Đều sanh hoan hỷ lớn
Sức phương tiện, nguyện, trí
Thương xót gia hộ con
Ở nơi vô kiến đảnh
Khắp phóng đại bi quang
Từ cõi vi trần kia
Đều đến quán đảnh con
Diệt trừ tất cả tội
Thành tựu tất cả nguyện
Khiến con sớm đầy đủ
Vô ngại đại bi tâm
Như chư Phật Thế tôn
Rộng độ cho tất cả
Đức bổn sư Thích Ca
Thuyết kinh đại bi này
Con đối với kinh này
Quyết định tin, không nghi
Nguyện con ở vị lai
Thành tựu nhất thiết trí
Đem tâm đại bi này
Rộng lớn làm việc Phật
Cúng dường hằng sa Phật
Độ thoát các chúng sanh
Như bồ tát Quán Âm
Hay cứu khổ thế gian.
Cùng với bài kệ này, tỳ kheo Tự Như, ngày thường tụng chú, rộng phát
nguyện văn để sáng sạch đạo pháp, mở lớn bi thệ bằng việc trì chương cú
này, tụng theo thời khóa quên năm tháng. Mùa xuân năm Canh tuất, được
quyển kinh này, phù hợp bổn nguyện và tâm ý phó chúc lưu thông của đại
sĩ Quán Âm. Một hôm nâng kinh, thỉnh họa kệ trên, nhân đó mà thầy viết
rằng:
Đại sĩ không thân hiện thân, ngàn tay ngàn mắt, không lời hiện
lời, âm thanh chương cú. Nếu có thể ở bên ngoài hình tướng, ngôn ngữ mà
tin nhận vâng làm thì chỉ có đức Quán Thế Âm.
Tôi cũng từ nơi đó mà tâm đắc.
Kiến An Tự Như.
Chú âm vang thấu khắp mọi nơi, như đại luân phong giữ đại địa. Nếu
Phật, bồ tát cùng thiên tiên, nơi họng lưỡi nhả ra lửa sáng, diệt trừ
nhiều kiếp nhân nghiệp chướng, cởi mở chúng sanh thanh tịnh trí, viên
mãn vô ngại giải thoát môn. Sáng sạch đạo pháp, gốc ấy là chưa khởi một
niệm. Sáng sạch đạo pháp, là có được chú bổn này, nên ghi rằng:
Chùa Tịnh Từ, đảo Đông Tự, tỳ kheo Đức Hải.
Cúi đầu Quán Âm đại bi tâm
Hiện ngàn tay mắt không nghĩ bàn
Tuyên thuyết bí mật đà la ni
Cứu độ chúng sanh chấn đại địa
Trời ngường bi ngưỡng, quỷ thần khâm
Ngoại đạo ma quân sanh sợ hãi
Thí như mặt trời đi hư không
Phóng ánh sáng lớn khắp rực rỡ
Đập nát tất cả núi chướng ngại
Mở ra tất cả trí kim cương
Khiến trừ chúng sanh tâm nhiệt não
Ăn được vị cam lộ mát mẻ
Sáng sạch đạo pháp ngày thọ trì
Bày ra vô lượng thệ đại bi
Hoàn toàn quyết định tín, không nghi
Thành tựu tuệ thanh tịnh chư Phật.
Trụ trì chùa Kính Sơn, tỳ kheo Hy Lăng nói bài kệ ca ngợi rằng:
Đức Chánh Pháp Minh, bậc Quán Tự Tại đã thuyết thần chú, gọi là
đại bi cứu giúp chúng sanh rời biển khổ, kéo dài cõi phúc (diên hựu) mà
vẫn chưa vào mùa thu.
Chùa Tịnh Nhân, thượng nhân Nguyên Minh được mời tán thán, viết rằng:
Dũng đông can phù, tỳ kheo Phổ Dung
Không tiếng, không chữ, một bài chú
Gọi là Vô ngại đại bi tâm
Mở bày các phương người mắt sáng
Chớ đem lá vàng làm hoàng kim.
Chùa Diên Hựu, đầu mùa hạ năm Canh thân, viện Liên Hoa, sa môn Nghị Nhuận viết ở sám thất nơi Giang thành:
Một niệm đại bi tâm
Mười giới đều viên mãn
Vốn không tất cả tướng
Làm tất cả biện tài
Huyễn ứng không suy lường
Mạnh làm ngàn tay mắt
Khắp ngăn tất cả ác
Tổng trì tất cả thiện
Nước dơ trăng tự mất
Nước trong trăng tự hiện
Hiểu đặc tánh pháp giới
Xúc cảnh liền linh nghiệm
Minh sư đủ mắt này
Trời tối phát ánh sáng
Sâu chắc thể đại bi
Có được rời các kiến
Nơi ngày sáng trời trong
Có dòng chảy xoay vần
Cúi đầu đấng đại bi
Thường hưng phương tiện lớn.
Thiên trúc, quan chín phẩm, Đường Viên Chiếu kính lạy viết:
Kính lạy đầy đủ đại bi tâm
Lợi sanh thân hiện ngàn tay mắt
Một thân lại hiện sát trần thân
Diệu trí thần thông rộng phô diễn
Cứu giúp khắp cả về vô vi
Ban đầu tăng ấy huân muôn thiện
Mặt trời chiếu sáng mùa tươi tốt
Trái đất xuân về vật sinh sôi
Thể hội chân như, giữ pháp sáng
Mật ngữ, kỳ hình chẳng phân biện
Ở trong một câu hiểu tự trì
Chánh Pháp Minh Vương trong tối rõ.
Minh đạo nhân ghi.
Sau khi cung kính thư họa hình tượng của đà la ni đại bi tâm. Pháp sư Sơ Tấn lúc đó 20 tuổi, đã tụng trì đại bi tâm đà la ni.
Đại sư Văn Cốc ghi: Trần lao tội nghiệp, trí ngu không khỏi, giàu
nghèo cùng chịu. Con trong ngày đêm, tụng đủ năm biến, các thiện đua
nhóm, muôn ác tranh diệt. Không thể nói, không thể nói. Đến nay 50
tuổi, mỗi ngày thì thầm mà một niệm không động.
Tới ngày khó khăn của mẹ [13], pháp sư Thương Tuyết nói:
Mang đây thúc giục thấy nghe, quỳ xuống mở ra ngắm thưởng, sao chép
bạch miêu, giấy mực như mới. Bỗn dưng đại địa chấn động, trời mưa hoa
báu, buồn vui góp mặt.
Nhân đó pháp sư Sơ Tấn cúi đầu ghi:
Đấng đại bi Quán Âm
Xưa nay không thân
Hiện ra ngàn tay ngàn mắt
Xưa nay không chữ
Nói ra chương cú thần diệu
Lại có đời nào người nào
Huyễn xuất bốn mươi chín thân tướng hảo [14] .
Quốc sư Tỉ Trung Phong ở trong bảy thân đời quá khứ đều để lại
kệ liên hệ ở câu cuối: Quả là tràng ánh sáng, ấn là tạng thần thông.
Pháp sư Yểm Quyển một hôm cười nói: Thỉnh cầu bên ngoài hình tướng ngữ
ngôn.
Tấn tôi ẩn tu quen rồi, thường thọ trì kinh Phật, lại mười năm
qua, trắng đen tìm nhau, sự tùy hỷ như mây, do hiểu ra nên nói: Ngài
Kiến An Tự Như ca ngợi “sáng sạch đạo pháp bằng khóa tụng quên năm
tháng”, đó là thích hợp cái ý phó chúc lưu thông của đại sĩ Quán Thế Âm.
Nhân đây khắc in, lưu thông tám phương; ngước lên cám ơn lão nhân
Thương Tuyết, mang tặng chí tình. Bấy giờ ngài 62 tuổi. Tấn tôi xin kết
bạn.
Quảng Minh (dịch)
03.03.2011 (29.01.Tân Mão)
CHÚ THÍCH
[1] Tôn giả Tứ Minh (960-1028): Cao tăng Trung quốc, thuộc
tông Thiên Thai, sống vào đời Tống, tức pháp sư Tri Lễ. Vì sư trụ trì ở
núi Tứ Minh, hoằng dương giáo nghĩa Thiên Thai, là nhân vật trung tâm
của phái Gia Sơn thuộc tông Thiên Thai nên người đời gọi sư là Tứ Minh
Tri Lễ hoặc tôn xưng là Tứ Minh tôn giả. Thiên thủ thiên nhãn đại bi tâm
chú hành pháp nằm trong Tục tạng kinh, số 1480. Nghi quỹ sám pháp này
được tôn giả soạn tập, căn cứ vào Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ
Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh (ĐTK 1060), do
ngài Già Phạm Đạt Ma dịch và phần chú đại bi thì lấy từ Thiên Thủ Thiên
Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni (ĐTK 1064), do ngài Bất
Không dịch, nhưng thêm 5 âm Na ma bà tát đa (那摩婆萨多) ở câu 16.
[2] Luật sư Độc Thể (1601-1679): Ngài là vị tổ thứ hai của
phái Thiên Hoa luật tông cuối đời Minh, người Điền nam, họ Hứa, tự là
Thiệu Như, sau đổi là Kiến Nguyệt. Thuở nhỏ giỏi hội họa, nhất là vẽ
tượng Quán Âm đại Sĩ. Năm 14 tuổi cha mẹ qua đời, bác nuôi dưỡng ăn học.
Chợt một hôm nhận ra cảnh vô thường trong cuộc sống, ngài bỏ nhà đi làm
đạo sĩ Lão giáo, rồi sau đó đến học kinh Hoa Nghiêm với vị lão tăng tên
là Xích Nham ở Kiến Xuyên. Đọc phẩm Thế chúa diệu nghiêm, ngài bổng
tĩnh ngộ bèn xuất gia với Lượng Như pháp sư, ở núi Hồng Bảo. Thọ giới
cụ túc với Tam Muội Tịch Quang luật sư và trở thành bậc thượng toạ, thay
thế thầy giảng kinh Phạm Võng. Đọc qua luật Tứ Phần, chỗ nào bế tắc thì
hướng về Phật cầu nghĩa, tịnh tọa một lát thì thông suốt. Ngài 8 lần
chủ tọa đạo tràng, hơn 70 lần khai giới đàn. Lúc sắp nhập tịch, Tịch
Quang phó chúc tử y và các bộ giới bản, ngài được nối pháp Tịch Quang.
Từ đó về sau ngài cứ y luật mà tổ chức giới đàn kiết hạ an cư hết sức
nghiêm túc và gây được giá trị cảm xúc lợi lạc lớn. Ngài là tác giả bộ
Tỳ ni nhật dụng thiết yếu.
[3] Sa môn Gia Hòa Tịch Xiêm: Cao tăng đời nhà Thanh. Năm
Khang Hy thứ 60 (1795), ngài Tịch Xiêm đứng ra coi khắc bản in Đại bi
sám pháp. Đến năm Gia Khánh thứ 24 (1819), ngài duyệt lại bản in, biên
tập lại một lần nữa. Hiện tại bản Đại bi sám pháp được ghi trong Tục
tạng kinh là bản của ngài Tịch Xiêm biên tập. Bản Đại bi sám pháp do
Phật giáo Hương Cảng phát hành thì đã có thêm một ít phần, và hòa thượng
Thích Thiền Tâm có lẽ dựa vào bản này mà lược soạn Đại bi sám pháp.
[4] Bản Đại bi sám pháp của Phật giáo Hương Cảng phát hành có thêm:
Một lòng kính lạy đại bồ tát Di Lặc, đại bồ tát Phổ Hiền, đại bồ tát Văn Thù Sư Lợi. (1 lạy)
Một lòng kính lạy mười phương ba đời tất cả bồ tát. (1 lạy)
Một lòng kính lạy tôn giả Ma ha Ca Diếp, vô lượng vô số đại thanh văn tăng. (1 lạy)
Một lòng kính lạy vị xiển dương Thiên Thai giáo quán tông là tôn giả Tứ Minh, đại sư Pháp Trí. (1 lạy)
Một lòng đại vì Thiện Tra Phạm Ma, thiên tử Cù Bà Già, bốn vương hộ
thế, tám bộ trời rồng, thiên nữ Đồng Mục, thần hư không, thần sông biển,
thần nguồn suối, thần sông hồ, thần cỏ thuốc, thần cây rừng, thần nhà
cửa, thần nước, thần lửa, thần gió, thần đất, thần núi, thần đá, thần
cung điện đều thủ hộ người trì chú, tất cả trời rồng, quỷ thần và các
quyến thuộc, xin thay thế mà đảnh lễ Tam Bảo. (1 lạy)
[5] Nghi thức trì tụng chú đại bi giản lược, trước nhất là xướng “đại bi khải thỉnh”, như sau:
Kính bạch vầng trăng Quán Tự Tại
Quảng đại viên mãn thân tử kim
Ngàn tay thường hiện nơi thế gian
Ngàn mắt ánh sáng thường soi chiếu
Một ngàn hai trăm chân ngôn ấn
Làm đầy chúng sanh những nguyện cầu
Mặt lặng yên, ba mắt trang nghiêm
Đảnh đội Di Đà, cầm bảo khí
Khen nói chân ngôn, pháp vi diệu
Thọ trì sẽ chứng bồ đề Phật
Biện tài vô ngại hóa trời người
Trong chúng bồ tát làm thượng thủ
Tạm nghe trừ diệt trần sa nghiệp
Tụng niệm thêm lớn nhân thành Phật
Đại bi nguyện lực không thể nghĩ
Cho nên nay con niệm, tán thán.
Sau đó, phát nguyện theo đại sĩ Quán Thế Âm ở trên, niệm hồng danh
Quán Thế Âm bồ tát và A Di Đà Phật, tụng chú đại bi, cuối cùng là hồi
hướng công đức.
[6] Năm âm này, rõ ràng là được thêm vào, vì toàn bộ chú
đại bi ở đây là trích từ chú đại bi của kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán
Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni (ĐTK số 1064), không có 5 âm này. Phần
kinh văn thì trích trong Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng
Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh (ĐTK số 1060).
[7] Tụng 5 biến, như kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm
Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni ghi: “Nếu chúng
sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội
nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử.”
[8] Phiền não, vọng nghiệp, khổ báo (hoặc, nghiệp, khổ).
[9] Ái là lầm sự, như tham lam, sân hận … Kiến là lầm lý, như ngã kiến, tà kiến …
[10] Biển hai chết: sanh tử phân đoạn và sanh tử biến dịch.
[11] Ba đức: pháp thân đức, bát nhã đức và giải thoát đức.
[12] Bạch miêu: trường phái hội họa Trung Quốc dùng bút
vẽ cặp đôi để khắc họa chân dung thành nhiều đường nét chứ không lấy màu
làm chỗ dựa. Đầu tiên là vẽ phác bằng những nét đơn giản, rõ ràng, sau
đó thêm vào những nét chải chuốt, tô điểm làm cho tác phẩm sống động.
[13] Mẫu nan nhật: ngày khó khăn của mẹ, tức ngày sinh nhật của mình, là ngày mà người mẹ phải trải qua thập tử nhất sanh.
[14] Đại Bi xuất tướng đồ là bộ tranh vẽ hiện tướng của
Đức Quán Thế Âm trong từng mỗi câu chú. Tổng cộng có 88 bức đồ họa,
trong đó có 84 bức minh họa tướng thị hiện của Đức Quán Thế Âm (tương
ứng với 84 câu chú Đại bi), 4 bức còn lại là hiện thân Bồ tát trong hình
thể Kim Cang, Viên mãn tướng và Thiên thủ Quan âm. Tuy nhiên, nếu xét
theo thời gian, thì từ thời nhà Nguyên đến nay lưu hành không phải chỉ
có một loại 88 bức họa. Kinh Đại bi tâm đà la ni, bản in thời nhà Minh,
có 50 tôn tượng; thời nhà Thanh, vua Khang Hy, Đại bi sám pháp được
biên tập lại và bổ sung hình tượng khi in ấn, có 52 đồ tượng; thời nhà
Thanh, pháp sư Sơ Tấn ghi “huyễn xuất tứ thập cửu tướng hảo thân”; Chiết
Giang, núi Phổ Đà, tàng trữ cổ bản Đại bi xuất tướng lại có 88 tôn
tượng. Ngoài ra còn có bản Minh nhân thiên thủ thiên nhãn đại từ tâm đà
la ni kinh, tàng trữ ở cung vua (hiện nay được sao chụp, in ấn và phát
hành) dung hợp tất cả khác biệt của các bản kia. Duyên khởi của đại bi
xuất tướng đồ là từ ngài Bất Không, người dịch bản kinh Thiên Thủ Thiên
Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni (ĐTK số 1064). Trong kinh
ấy, ngài Bất Không có ghi chú (không hoàn toàn) từng câu của chú đại bi,
trong đó nêu ra 48 tôn tượng. Từ đó có ra các bản Đại bi xuất tướng,
ít nhất là 52 tôn tượng và nhiều nhất là 88 tôn tượng. Đại bi sám pháp,
phần chú đại bi thì dựa vào bản của ngài Bất Không dịch, nhưng có thêm 5
âm Na ma bà tát đa ở câu 16.
Nguồn: TVHQ