Sự phân chia bộ phái Ðại Tiểu thừa nếu  
có lợi về mặt phát huy đạo lý đến chỗ có hệ thống tinh vi thì cũng
đã gây ra không ít sự câu nệ sai lầm làm trở ngại, thiệt thòi 
cho một        số người tham học toàn bộ kinh giáo Phật đà. Thật vậy, có
những người        chỉ quan tâm đọc kinh này mà lơ là với kinh kia vì 
cho là Tiểu thừa, hay        có người chỉ quan tâm đọc kinh kia mà hờ 
hững với kinh này vì cho là        Ðại thừa. Nhưng sự thật nếu đứng ra 
ngoài thiên kiến đã gây nên bởi        căn tính, địa phương, thời đại, 
tập truyền đó, thì ai cũng nhận thái        độ trên là thái độ chấp nê 
không lưu hoạt, tưởng làm như thế là hiểu        đúng Phật pháp, nắm 
được ý Phật, không ngờ làm như thế sẽ không hiểu        trọn Phật pháp, 
không nắm được ý Phật, vì như chúng ta đã hiểu Phật        pháp là Phật 
pháp, Phật pháp không có đại tiểu. Phật pháp nhất vị.
Trong thiên        kinh vạn quyển ở đâu 
lại thiếu những nguyên lý Vô thường, Vô ngã, Giải        thoát, 
Niết-bàn, ở đâu lại thiếu Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Bát        chánh 
đạo...? Nếu gạt bỏ những nguyên lý ấy để chỉ chấp nhận một        điều 
là kinh này kinh kia có lịch sử kết tập chứng minh hay không thì tưởng  
cũng là một việc làm sai lệch và ép uổng! Nhất là ở những thời đại
xưa, người tu hành chú trọng đến giáo lý, đến sự tu chứng hơn là
chú trọng lịch sử. Vì quan niệm lịch sử là lịch sử, lịch sử chỉ 
là xác chết mà giáo lý mới là phần linh hoạt, là tinh thần sống 
động        biến hóa nẩy nở luôn. Giáo lý mới giúp cho con người giác 
ngộ.
Sau khi nghe        tụng kinh Kim cang, 
ngài Lục tổ Huệ Năng đã chứng ngộ và nói một câu        rất siêu việt: 
"con người có nam bắc, chứ Phật tánh không bắc        nam", như  thế là 
giác ngộ, nhờ        giáo lý. Với câu nói đó nếu được đem áp dụng vào 
việc nghiên cứu        kinh điển thì tự nhiên chúng ta biết rõ điều gì 
đáng thủ, điều gì        đáng xả, để đi sâu vào tinh thần chung của Phật
giáo mà cái quan niệm        Ðại thừa Tiểu thừa không làm cách ngại 
được.
Cái tinh thần        chung của Phật ấy là gì? Là
tinh thần dắt dẫn, khuyến hóa chúng sanh        biến đổi điều dữ ra 
điều lành, mê ra ngộ, khổ ra vui trong cảnh giải        thoát Niết-bàn.
Vậy bất cứ là kinh nào trong Tam tạng, dù mỗi kinh với        mỗi sự 
trình bày khác nhau, nhưng nếu nhận có tinh thần giải thoát, có        
mục đích Niết-bàn trong đó tức chúng ta phải đem hết tinh thần khoáng   
đạt mà cố công tham cứu và học hỏi, không vì cớ kinh này nói 
Niết-bàn        với các tính đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, còn kinh kia 
nói Niết-bàn mà        không kèm theo các đức tính đó rồi phê phán kinh 
này là đại, kinh kia là        tiểu. Không, Niết-bàn tự nó đã là cứu 
đích giải thoát an lạc, vô ngại        tuyệt đối, dù có cắt nghĩa 
Niết-bàn theo mặt tiêu cực hay tích cực Niết-bàn        cũng không vì đó
mà giảm giá trị không còn là mục đích của đạo Phật,        của người tu
Phật, và đức Phật đã không khuyên chúng ta phải tinh tiến        để đạt
Niết-bàn.
Cái tinh thần        khoáng đạt cần 
thiết trên sẽ giúp cho chúng ta tham học kinh điển được        nhiều lợi
ích, chúng ta sẽ đọc từ kinh này đến kinh khác mà không có        gì là
vướng ngại, thắc mắc.
Bây giờ đến        lượt chúng ta đọc 
kinh A Hàm. Ðây là bộ kinh được xem phổ cập sớm        nhất trong lịch 
sử truyền giáo của Ấn Ðộ và hiện nay vẫn thịnh        hành tại các nước 
Phật giáo mà Tăng        già sống theo thể chế khất thực. Ở các nước 
Trung Hoa, Nhật Bản, Việt        Nam v.v... thường gọi là các nước theo 
Phật giáo Ðại thừa, thì kinh        này ít được phổ cập, nhưng những ai 
muốn hiểu trọn tinh thần Phật        giáo đã không quên những giáo lý 
thâm trầm được gói ghép trong các lời        lẽ giản dị mà A Hàm là kinh
trọng yếu nhất có tính cách đó.
Nếu không        chỉ vì tìm hiểu triết 
lý siêu huyền, lý luận xa xôi, thì đọc A Hàm ai        mà không cảm kích
trước những lời dạy nồng hậu thuần khiết và cách        thức giáo hóa 
của Phật đối với đương thời. Ðây, chúng ta thử đọc        một đoạn Phật 
thuật lại đại nguyện độ sanh của Ngài:
"Này các Tỷ-kheo! Ta nhớ xưa kia đã 
không biết bao        nhiêu lần, Ta thường qua lại, nói năng với hàng 
Sát-đế-lợi, Bà-la-môn,        cư sĩ, chư thiên... Nhờ định lực và tiên 
tiến mà nơi nào ta hiện đến,        họ có sắc đẹp thì sắc Ta đẹp hơn, họ
có tiếng hay thì tiếng Ta hay        hơn, họ từ bỏ Ta mà lui, Ta không 
từ bỏ họ, điều họ nói được Ta        cũng nói được, điều họ không thể 
nói được, Ta cũng nói được. Sau        khi đã thuyết pháp dạy điều ích 
lợi, vui mừng cho họ, Ta ẩn đi chỗ        khác, mà họ chẳng biết Ta là 
trời hay là người".
Xem đó thì        Phật đã hóa độ chúng 
sanh trong nhiều kiếp trước và kiếp sau, chớ        không phải chỉ một 
đời của đức Thích Ca tại cõi Ta bà này. Và biết        đâu chúng ta đã 
không một lần nhờ duyên lành nghe Ngài thuyết pháp mà        vì u mê 
không nhận ra Ngài là ai, để rồi ngày nay cứ mãi tìm Phật.
Tiếp đến        đoạn này lại thấy phảng 
phất một đạo lý khác, đạo lý: "Hết        thảy chúng sanh đều có tính 
Phật" mà chúng ta thường gặp ở các        kinh:
"Ta dùng Phật nhãn xem thấy thế giới 
chúng sanh,        có kẻ nghiệp chướng sâu dầy, có kẻ nghiệp chướng cạn 
mỏng, có kẻ        căn tánh lanh lợi, có kẻ căn tính chậm lụt, có kẻ dễ 
khai hóa, có kẻ        khó khai hóa. Kẻ dễ khái hóa vì biết sợ tội lỗi 
kiếp sau nên gắng lo        bỏ điều ác làm điều lành. Họ như các hoa sen
xanh vàng đỏ trắng, có        cái lên khỏi bùn mà chưa đến mặt nước, có
cái lên ngang mặt nước mà        chưa nở, nhưng cái nào cũng không bị 
nước dính bẩn và đều nở ra được        cả. Các loại chúng sanh cũng như 
thế".
Thật là một        lời dạy đầy khích lệ 
tinh thần tiến giác, nâng cao giá trị con người        biết bao. Nếu 
càng đọc nhiều, chúng ta càng nhận thấy qua lời dạy        bình dị như 
thế, cái tinh thần từ bi, bình đẳng, thực tế, bất mê        tín... được 
bộc lộ đầy đủ, cũng như lối ứng cơ thuyết pháp rất        khéo léo của 
Phật. đối với căn cơ tu tại gia thì chỉ dạy pháp tại        gia, đối với
căn cơ tu xuất gia mới dạy pháp xuất gia. Không mang thuốc        này 
trị cho bệnh kia để phải gây thiệt thòi cho người bệnh.
Ðể ý thức        đầy đủ sự ích lợi khi 
đọc kinh A Hàm, ở đây tôi nhắc lại mấy điểm        của nhà học giả Lương
Khải Siêu đã ghi:
1. A Hàm là bộ kinh được thành lập sớm 
nhất với        hình thức kiết tập công cộng (khác với những kinh kiết 
tập ở địa        phương), do đó, tuy không dám nói nó ghi chưa trọn lời 
Phật dạy nhưng chắc        chắn  nó là bộ phận trọng yếu đã        ghi 
lời Phật dạy.
2. Ðại bộ phận kinh Phật là tác phẩm văn
học. A Hàm        tuy không thể sánh kịp các kinh khác về mặt này song 
chắc chắn nó gần        với lý thuyết chân thật hơn. Do đó, không dám 
nói mỗi câu mỗi chữ        trong A Hàm toàn đúng hẳn lời Phật dạy lúc 
tại thế, (bút tích ngôn        giáo nào khỏi nạn tam sao thất bổn) nhưng
hẳn nó hàm chứa được đa phần        lời Phật dạy hơn.
3. A Hàm hẳn có cái thể tài của một tập 
sách        "Ngôn-hạnh-lực", tính chất giống như sách luận ngữ của Khổng
giáo. Nên nếu ai muốn thể nghiệm nhân cách cao thượng của đức 
Thích        Tôn mà không đọc A Hàm thì không làm sao đạt được.
4. Các giáo lý căn bản của Phật giáo như
Tứ đế, Thập        nhị nhân duyên, Ngũ uẩn giai không, Nghiệp cảm luân 
hồi, Tứ niệm xứ,        Bát chánh đạo v.v... đều có thuyết minh ở A Hàm.
Nếu đối những giáo        lý này không có trước một quan niệm minh xác 
thì rất dễ lạc lối trong        khi nghiên cứu kinh luận Ðại thừa. Ðọc A
Hàm chúng ta càng hiểu thêm những        giáo lý này Phật đã dạy trong 
các trường hợp nào nữa.
5. A Hàm chẳng những không xung đột với kinh Ðại thừa,        trái lại còn chứa nhiều ý nghĩa căn bản của Ðại thừa.
6. A Hàm thuật đến tình hình xã hội Ấn 
Ðộ thời bấy        giờ rất nhiều. Có đọc nó chúng ta mới cảm thông nỗi 
khổ tâm ứng cơ        khai hóa của Phật trong một hoàn cảnh khó khăn 
biết chừng nào!
Tuy nhiên,        bên bao nhiêu cái hay,
cái quí đó không khỏi kèm theo điều đáng tiếc, đã        làm cho kinh A
Hàm không phổ cập sâu rộng ở các nước theo Phật giáo Ðại        thừa, 
không được nhiều người ham đọc! Và đây lại mấy lý do khác        chúng 
ta phải đồng ý với ông Lương Khải Siêu:
1. Quyển điệt quá nhiều. Nói kinh A Hàm 
tức là nói 4        bộ A Hàm là Tăng Nhất A Hàm, Trung A Hàm, Trường A 
Hàm và Tạp A Hàm        (Anguttara Agama, Majjhima Agama, Digha Agama, 
Samyutta Agama), theo tạng Pali là Tăng        chi bộ kinh, Trung bộ 
kinh, Trường bộ kinh, Tương ưng bộ kinh và Tiểu bộ        kinh. Mỗi bộ A
Hàm ấy có tính cách là một tòng thư góp nhiều kinh (bài        thuyết 
pháp) lại tạo thành, trong đó kinh trước kinh sau không liên lạc        
chặt chẽ như ở các bộ khác. Có bộ gồm 30 kinh như Trường A Hàm, gồm     
222 kinh như Trung A Hàm, gồm 72 kinh như Tăng nhất A Hàm, lại có bộ 
gồm tới        1.200, 1.300 kinh như Tạp A Hàm.
2. Chương thiên trùng lặp. Có những kinh
ở bộ này có        ở 3 bộ kia cũng có. Hoặc một kinh mà có tới 3, 4 lần
trùng trong một bộ,        tuy văn cú hơi khác đôi chút.
3. Từ ngữ trùng lặp. Nhiều khi chỉ một 
chuyện, một        câu nói mà nhắc đi nhắc lại nhiều lần từ khi mới suy 
nghĩ, rồi phát        ra ở miệng người hỏi, nhắc lại ở miệng người trả 
lời... thật là        phiền phức!  Như tuồng ngữ pháp Ấn        Ðộ thời 
xưa là thế? Nên hễ đọc sơ ý một chút là khó nhận ra câu        nào 
chính, câu nào phụ.
4. Văn dịch chữ Hán do các cao tăng Ấn 
Ðộ, Tây Vức        dịch quá xưa, lủng củng, các thuật ngữ dùng không xác
đáng thành rất        khó lãnh hội cho những ai không kiên chí.
Tuy        nhiên ở một phương diện khác,
chúng ta hiểu rằng Phật khai hóa cho        chúng sanh tỉnh thức giác 
ngộ chứ không cốt văn chương, nên một câu        nói được nói đi lặp lại
nhiều lần, nhắc đi nhắc lại nhiều nơi, để        cho chúng sanh nghe, 
nhớ, thấm vào lòng, hầu chuyển cái mê thành cái ngộ        mới thôi.
Bấy        nhiêu ý kiến thô sơ, tôi xin 
nêu ra        để hiến quí vị sẵn có lòng hoan hỷ muốn học hỏi, nghiên 
cứu toàn        diện giáo lý Phật đà mà không bỏ qua các kinh sách chính
yếu và tiên khởi.