1. Thật Tướng Niệm Phật,
tức là nhập vào đệ nhất nghĩa tâm, là niệm tánh Phật bản lai của chính
mình. Đây là quán pháp thân thật tướng của Phật, kết quả sẽ chứng được
Chân Như Tam Muội. Phương pháp này vẫn thuộc về Thiền, nhưng cảnh giới
do tâm Thiền hiển lộ lại là Tịnh Độ, nên cũng nhiếp về Tịnh Độ. Pháp này
không gồm thâu bậc trung, hạ căn, và nếu không phải là bậc thượng
thượng căn, tất không thể ngộ nhập. Vì thế trong tông Tịnh Độ ít có
người đề xướng, mà phần hoằng hóa lại thuộc về các vị bên Thiền Tông.
Nhưng theo thiển ý: khi còn đi trên đoạn đường hành trì chưa đạt đến địa
vị viên giác, thì tất cả pháp môn đều thuộc về phương tiện, niệm Phật
cũng là phương tiện mà tham thiền cũng là phương tiện. Theo ba kinh Tịnh
Độ, đức Thích Tôn mở phương tiện chỉ bày cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà,
khuyên chúng hữu tình nên niệm Phật cầu sanh về thế giới ấy để không còn
bị luân hồi, mượn cảnh duyên thắng diệu tiếp tục tu hành mau tiến lên
Phật quả. Niệm Phật tinh chuyên cũng tỏ ngộ như bên Thiền Tông, nhưng
điểm chánh yếu của môn Niệm Phật là cầu vãng sanh, còn tỏ ngộ được bao
nhiêu cũng thuộc về phần thứ yếu. Cho nên pháp Thật tướng niệm Phật,
luận về chỗ cứu cánh, vẫn nhiếp thuộc Tịnh Độ. Nhưng nếu nói đến phương
tiện vãng sanh nó vẫn chưa chính thức thuộc về Tịnh Độ, như ý nghĩa ba
kinh Tịnh Độ mà đức Thích Tôn đã đề xướng. Có lẽ do điểm này nên chư Tổ
bên Tịnh Tông chỉ đề cập để cho rộng thêm về nghĩa lý Tịnh Độ, mà không
rộng tuyên hóa để khuyên người tu chăng?
2. Quán Tưởng Niệm Phật, là chiếu theo Kinh Quán Vô
Lượng Thọ, để quán tưởng y báo chánh báo nơi cõi Cực Lạc. Trong kinh này
có dạy mười sáu phép quán, nếu quán hạnh được thuần thục, thì lúc mở
mắt hay nhắm mắt hành giả đều thấy cảnh Cực Lạc hiện tiền tâm thần dạo
chơi nơi cõi tịnh, khi mạng chung quyết định sẽ vãng sanh. Công đức của
pháp này lớn lao không thể nghĩ bàn, nhưng vì cảnh quán quá vi tế sâu
mầu, nên ít người hành trì được thành tựu. Bởi đại để trong ấy có năm
điều khó. Điều thứ nhứt, nếu căn độn tất khó thành tựu. Điều thứ hai,
nếu tâm thô tất khó thành tựu. Điều thứ ba, nếu không biết khéo dùng
phương tiện xoay chuyển trong khi tu, tất khó thành tựu. Điều thứ tư,
nếu ghi nhận ấn tượng không sâu, tất khó thành tựu. Điều thứ năm, nếu
tinh lực yếu kém, tất khó thành tựu. Trong năm điều kiện này, ít có
người được đầy đủ, nên phép Quán tưởng xét lại cũng thuộc về môn khó
hành trì.
3. Quán Tượng Niệm Phật, là phương thức đem một bức
tượng Phật A Di Đà để trước mặt, ghi nhận mọi nét của bức tượng ấy, rồi
quán tưởng cho đến khi dù không có tượng, lúc mở mắt nhắm mắt đều thấy
hình tượng Phật hiện rõ nơi trước. Phương pháp này cũng khó, vì cần phải
có tinh lực mạnh, ký ức sâu, và trí phương tiện khéo. Đã có người áp
dụng cách thức này, nhưng vì không khéo dùng phương tiện thay đổi, bị hư
hỏa xông lên, mang chứng bịnh nhức đầu khó trị. Nhưng xét lại dùng pháp
Quán tượng để vãng sanh, trong kinh không thấy nói. Đây chỉ là cách
thức phụ giúp cho sự trì danh hiệu Phật, để hành giả tâm không tán loạn,
dễ được chánh niệm mà thôi. Nếu người tu, với lòng tinh thành, cũng có
thể được cảm ứng, tiêu tội nghiệp sanh phước huệ, từ nơi hình tượng giả
mà thấy được Phật tướng thật và được vãng sanh.
4. Trì Danh Niệm Phật, là phương pháp niệm ra tiếng hay
niệm thầm bốn chữ hoặc sáu chữ hồng danh "Nam Mô A Di Đà Phật." Trì bốn
chữ "A Di Đà Phật" được điểm lợi dễ nhiếp tâm; trì đủ sáu chữ được điểm
lợi dễ phát khởi sự kính thành cơ cảm. Phương pháp này trong kinh Phật
Thuyết A Di Đà, đức Thích Tôn đã đề xướng, hiện đang được thông dụng
nhứt.
* Xét qua bốn phương pháp niệm Phật, pháp Thật Tướng và Quán Tượng trong
ba kinh Tịnh Độ không thấy nói, chỉ có Kinh Niệm Phật Tam Muội, quyển
Phổ Hiền Quán Hạnh Ký và một vài kinh luận khác đề cập đến mà thôi.
Nhưng cả hai cũng chỉ là phương tiện thứ yếu, để nói rộng thêm về giáo
nghĩa niệm Phật, không phải đường lối chánh thức của môn Tịnh Độ mà chư
Tổ bên Liên Tông hằng tuyên dương. Pháp Thật Tướng duy có tác dụng suy
diễn sâu rộng về ý nghĩa niệm Phật, lại quá cao thâm, không trùm khắp ba
căn, đi lạc về bên Thiền. Pháp Quán Tượng chỉ là cách thức phụ trợ, lại
cũng không dễ thật hành. Đối với người tu Tịnh Độ, hai môn ấy không
được thích nghi. Phương pháp Quán Tưởng tuy do Phật tuyên dương, công
đức vô lượng nhưng chỉ để dành cho bậc thượng căn, người thời mạt pháp
ít ai hành trì được. Kết yếu, duy môn Trì Danh Niệm Phật đã gồm khắp ba
căn, lại đắc hiệu mau lẹ, ai cũng có thể thật hành. Trì Danh nếu tinh
thành sẽ có cảm cách, hiện tiền thấy ngay chánh báo y báo cõi Cực Lạc,
tỏ ngộ bản tâm, đời nay dù chưa chứng thật tướng, sau khi vãng sanh cũng
quyết được chứng. Vì thế „n Quang đại sư, vị Tổ thứ mười ba của Liên
Tông, đã khen:
Chỉ duy trì danh mà chứng thật tướng,
Không cần quán tưởng cũng thấy Tây Phương!
Cổ đức cũng phê luận: "Môn Tịnh Độ là con đường tắt để chứng đạo trong
các pháp môn, mà pháp Trì Danh lại là con đường tắt trong môn Tịnh Độ."
Hiện nay phương pháp này là đường lối thông hành nhứt trong môn Niệm
Phật.