Câu hỏi nêu trên không phải do tôi đặt ra, nhưng lúc đi thuyết trình về Thiền, có thính giả đặt câu hỏi “Thiền, Tịnh …chúng tôi nên tu theo pháp môn nào?”. Bài nầy sẽ tóm lược vài ý để góp phần trả lời câu hỏi rất thực tế vừa nêu.
Vài năm qua, nhiều chư Tôn đức Tăng Ni cố gắng khôi phục và phát huy
pháp môn Tịnh Độ vì thấy xã hội (không riêng gì ở Việt Nam) đang suy
đồi đạo đức trầm trọng, đồng thời cũng nhằm vạch một hướng tu cho người
phật tử tại gia, nhất là những vị lớn tuổi, khỏi bị cám dỗ theo tà ma
ngoại đạo.
Một vài nơi, đạo tràng niệm Phật hay tu Tinh độ thu hút rất đông quần
chúng tham dự. Việc khuyến tu nầy rất cần thiết và cần được tán thán
công đức.
Tuy nhiên, cũng có người nói, tu Tịnh độ có nghĩa là cầu vãng sanh.
Mà tuổi trẻ, còn quá trẻ, chưa gì đã lo đến chuyện chết, chuyện siêu
sanh. Thì phải chăng đạo Phật là đạo của người chết? Có thể vì thế, nên
các đạo tràng quy tụ phần lớn là các cụ bà; ít cụ ông và ít tuổi trè.
Người khác còn thêm, muốn vãng sanh thì người tu phải “chán ngán cảnh giới Ta bà nầy mới có thể dốc lòng tiến tu. Và như thế, tu mới có kết quả”.
Trong cẩn trọng và chừng mực tôi muốn góp vài ý như sau. Kinh Di Đà, Phật có dạy “Nhược dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc”. Nghĩa
là không thể lấy nhân lành và phước đức nhỏ mọn mà có thể vãng sanh về
Cực lạc được. Nói cách khác, người tu Tịnh độ không những không nên có
thái độ yếm thế chán đời mà còn phải tích cực làm lành lánh dử, tạo
duyên tốt với đồng loại chúng sanh mới mong siêu sanh cỏi Phật, chứ
không phải chỉ có niệm Phật nhưng tâm và hành còn mang nhiều ma nghiệp
mà có thể siêu sinh lúc lâm chung.
A Di Đà, có nghĩa là vô lượng quang, vô lượng thọ và vô lượng công đức.
Lại gặp trở ngại nữa đây. Vô lượng quang, nếu được hiểu là ánh sáng vô
lượng, thì sẽ bị chói mắt, hư mắt làm sao sống? Thật ra, vô lượng quang
đối nghĩa với vô lượng tăm tối, nghĩa là vô lượng trí tuệ đối với vô
lượng vô minh. Mà trí tuệ là thấy “đường”, vô minh bí lối.
Vô lượng thọ; sống lâu quá sẽ không có chỗ cho người khác sinh ra? Nạn nhân mãn tính sao? Sống lâu được hiểu là bất sanh bất diệt, có nghĩa là giải thoát khỏi vòng sinh tử.
Và vô lượng công đức, là làm các việc lành, giúp đỡ chúng
sanh theo khả năng và hạnh nguyện, chứ không phải yếm thế chán đời. Tu
cũng như các ngành nghề khác, ai ai cũng cần có nhiều sức khỏe, mới có
thể thành tựu sự nghiệp. Mà Thiền được khoa học chứng minh, là có khả
năng không những đem lại sức khỏe cho mọi người mà còn mang đến nhiều
lợi ích thiết thực khác như phần trình bày dưới đây.
Ngày nay, khuynh hướng của tuổi trẻ là thích vui, thích thực tế,
thích cái mới và mang tính khoa học. Do đó, phải chăng, song song với
pháp môn Tịnh độ, chúng ta nên hướng dẫn Phật tử, nhất là tuổi trẻ, tu
thiền. Hay cách hiểu thông thường là “Thiền Tịnh song tu”. Vì thiền, y
giới và khoa học gia đã chứng minh: “Thiền có khả năng làm cho con
người có hạnh phúc hơn, mạnh khỏe hơn, thông minh hơn, đẹp hơn*, sống
sâu hơn, chống bệnh tật và lão hóa”. Đó là những khám phá và thí nghiệm lâm sàng có chứng minh, có hình ảnh cụ thể.
Tim, gan, bao tử, phổi, thận, ung thư, Sida… được chữa bằng Thiền**
Tại Mỹ, Thiền được dạy trong bộ Quốc phòng, trong thể thao,
trong các cơ sở giáo dục, văn phòng, hảng xưởng, trại tù v.v. Tổng
thống Obama cũng ngồi thiền, cựu Tổng thống Clinton cũng ăn chay và
ngồi thiền để chữa bệnh tim mạch.
TT. Obama - Former President Bill Clinton embraces Buddhist meditation
Không những Thiền, mà Tịnh, Tụng kinh, Niệm Phật cũng có ích lợi như
người tu thiền. Nhưng người Tây phương đã từng sống trong nền văn hóa ỷ
lại, quỵ lụy van xin Thần (Thượng đế) ban cho mà không tự lực cánh
sinh; không đứng thẳng trên đôi chân của mình. Do đó, họ thích bàn luận
về Thiền và tu Thiền là vì thế.
BS. Phan Thị Phi Phi, HN, trình bày: bệnh sida có thể chặn đứng nhờ tụng kinh.
Thiền làm gia tăng chất xám - Telomeres dài nhờ ngồi thiền, sống lâu hơn
Đặc ngữ của Tịnh độ có câu “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”. Lúc Thân Khẩu Ý thanh tịnh, thì Thiền và Tịnh giống nhau. Hoặc lúc niệm Phật mà có được nhất tâm bất loạn và lúc “Đối cảnh vô tâm thì không cần nói đến Thiền”. Điểm nầy cho thấy Thiền và Tịnh là anh em sinh đôi. Tâm Tịnh, mới có Độ Tịnh.
Một điểm khác, cũng quan trọng không kém, là có một số hành giả tu
Tịnh độ nhưng quy hướng với Hòa thượng Tịnh Không ở Đài Loan. Hòa
thượng là vị cao tăng thạc đức rất đáng quý. Mặc dầu người Phật tử được
dạy “Y pháp bất y nhân”, nhưng vì chúng sanh còn nhiều chấp
trước, và thái độ bất cần pháp luật, không cần biết đến chủ quyền là
ai, chính phủ Hoa ngang ngược chiếm biển hải của dân tộc Việt Nam. Nên
hầu hết người dân Việt yêu nước, trong đó có đa phần là phật tử, bị dị
ứng với một số người Hoa. Hoa lục địa hay Hoa Đài loan cũng thế, không
khác nhau nhiều lắm.
Thêm vào đó, trong hơn hai ngàn năm qua, Việt Nam ta có rất nhiều
Thiền sư lỗi lạc, há không có những vị Tịnh độ sư để cầu pháp, mà lại
cầu một vị sư từ một quốc gia ít thiện cảm với người Việt, mặc dầu ngài
Tịnh Không chắc chắn không thuộc vào thành phần bất hảo như nhiều đồng
hương của Ngài.
Tóm lại, Thiền - Tịnh - Mật hoặc bất cứ pháp môn nào của Phật cũng
đều mang lại lợi ích cho người tu, tùy theo căn cơ, tuổi tác và môi
trường của xã hội để chọn pháp môn. Và chư Tôn Đức Tăng Ni chắc chắn
cũng vì hạnh nguyện của chúng sanh mà hoan hỹ hướng dẫn pháp môn tu học
hợp với khế lý, khế cơ, khế thời để, và giới thiệu một pháp môn tu vừa
hợp với tuổi và căn cơ chúng sanh, vừa hợp
với thời đại khoa học và lợi ích thân tâm cho con người trong một xả hội
còn cần rất nhiều sự cố gắng của tất cả dân chúng.
Kính cẩn,
Hồng Quang, 22.8.2012 (PLO)