Mục đích khác với phương
tiện. Mục đích là cái nhắm đến, cái vạch ra làm đích nhằm đạt cho được. Phương
tiện là cái dùng để làm một việc gì, là cách thức thực hiện để đạt một mục đích
nào đó. Ví dụ chiếc xe là phương tiện, mục đích là để đi lại.
Xe là phương
tiện đi lại để phục vụ mình, nếu ta quá xem trọng, sẽ bị vướng kẹt vào nó. Thay
vì làm chủ nó, ta trở thành nô lệ. Một chút hư hỏng, ta thấy mình cũng khổ sở
đau đớn, đôi khi trầy xước chút sơn thôi, lòng ta cũng đau như một vết dao cứa.
Có lần tôi cùng với một gia đình nọ ngồi trong chiếc Lexus cáu cạnh họ mới mua.
Trên xe có đứa cháu gọi vợ chồng chủ xe là bác ruột, đi nửa đường thì cháu bé
nôn ói, tìm bịch ny-lon không có, sợ bẩn xe, cô chủ cởi hai chiếc áo của đứa
cháu đang mặc làm đồ đựng nôn ói, miệng thì quát chồng cho xe vào lề đường để
vứt đồ bẩn đang đựng tạm bợ bởi hai chiếc áo quấn lại.
Tôi ngồi lặng
lẽ quan sát hành động của cô chủ mà ngẫm nghĩ về tình đời, tình người. Sao lại
đối xử với đứa cháu mình như thế. Chẳng lẽ giá trị con người không bằng chiếc
xe sao. Xe phục vụ mình hay mình phục vụ xe. Mua xe về để tôn thờ, phục vụ nó
thì mình không biết đâu là phương tiện, đâu là mục đích rồi.
Trong việc tu
tập, học hỏi giáo lý, thọ Bát quan trai giới, tụng kinh, ăn chay, niệm Phật,
trì chú… đều là phương tiện nhằm thể hiện Phật chất trong cuộc sống. Thế nhưng
chúng ta lấy phương tiện làm mục đích, xem việc ăn chay, tụng kinh làm thước đo
tu tập của mình. Ta ăn chay nhiều, tự cho đã tu giỏi hay tụng kinh nhiều, tự
hào đã tu cao, xem thường hoặc khinh khi người không biết ăn chay hay ăn chay
ít. Đây là một vướng mắc, kẹt vào phương tiện. Kẹt vào phương tiện thì không
thể đạt đến giải thoát được.
Ăn chay không
phải mục đích của sự tu tập, chỉ là phương tiện để phát triển lòng từ bi. Nếu
ăn chay mà có tâm hiểm ác, hại người, đối xử bất nhân với đồng loại, thì ăn
chay như vậy không mấy lợi ích, chẳng khác nào làm tường rào để ngăn chặn không
cho trâu bò vào phá hoại vườn hoa, nhưng bên trong thì để cỏ dại mọc um tùm.
Hơn nữa, ăn
chay mà tự hào cho mình tu giỏi, xem thường hoặc khinh chê người ăn chay thua
mình, thì rơi vào tâm lý kiêu mạn. Chính điều này mà Tuệ Trung Thượng Sĩ bảo ăn
chay chuốc thêm tội, chứ không được phúc: “Trì giới và nhẫn nhục/Thêm tội chẳng
được phúc”. Ăn chay vốn là phương tiện để đạt đến lòng từ rộng lớn, nhưng nếu
không khéo ta lại biến nó thành vật chướng ngại trên tiến trình tu tập giải
thoát của mình.
Thực ra ăn
chay hay ăn mặn không có can hệ gì đến mục đích tu tập giác ngộ cả. Giác ngộ
hay không là do trí tuệ quyết định. Ngày xưa Đức Phật và các vị La-hán sống đời
khất thực, dân chúng bố thí gì thì ăn nấy, bố thí chay thì ăn chay, bố thí mặn
thì ăn mặn. Các Ngài ăn một cách tự tại vô phân biệt. Chúng ta thì ăn trong
phân biệt, các món mặn thì khoái khẩu, thích ăn hơn. Chúng ta chưa đạt đến hành
động duy tác, tức hành động không khởi ý phân biệt, thì cách tốt nhất là ăn
chay để tránh ác nghiệp, nhưng nên nhớ ăn chay chỉ là phương tiện, chứ không
phải mục đích tu tập nhắm đến để bị vướng kẹt vào đó.
Tụng kinh
cũng không phải là mục đích tu tập, mà chỉ là tìm hiểu lời Phật dạy để ứng dụng
vào cuộc sống mang lại hạnh phúc cho mình và tha nhân. Hẳn nhiên trong lúc tụng
kinh, do sự tập trung chú ý vào lời kinh, ba nghiệp thân khẩu ý không bị ngoại
duyên chi phối nên không tạo nghiệp bất thiện, nhưng nó chỉ có tính cách tạm
thời, như lấy đá đè lên cỏ, bỏ đá đi thì cỏ mọc trở lại. Cho nên tụng kinh phải
“minh Phật chi lý”, hiểu rõ lý mầu của Phật, để áp dụng vào đời sống.
Nếu Phật tử
chúng ta thường xuyên đi chùa tụng kinh mà trong đời sống nói xấu người này, đố
kỵ người kia, tị hiềm người nọ, thì tụng kinh như vậy chẳng ích lợi gì, chỉ mất
thì giờ. Hoặc có người tụng kinh rất giỏi, thuộc làu nhiều bộ kinh, nhưng khi
gặp chuyện trái ý, phật lòng, giận dữ nổi lên như phong ba bão táp, thì việc
tụng kinh đó cũng vô nghĩa. Chẳng hạn ra đường ai đó vô ý va quẹt mình, người
này không biết lỗi, lại quát mắng, chúng ta sân hận mắng chửi lại, sự việc có
khi leo thang dẫn đến ẩu đả gây thương tích. Trong trường hợp này nếu là người
tụng kinh “giỏi”, ta xin lỗi người đó, dù không phải lỗi của mình, thì sự việc
trở nên tốt đẹp.
Thông thường
khi có sự tranh chấp, mâu thuẫn xảy ra, chúng ta hay có khuynh hướng đổ lỗi cho
người khác. Theo thầy Thích Trí Siêu trong Dòng đời vô tận thì có ba
trường hợp sau đây: 1. Người chưa biết đạo thì luôn cho mình đúng và
người kia lỗi trăm phần trăm. 2. Người bắt đầu học đạo, biết tu thì thấy
cả hai bên đều có lỗi, năm mươi-năm mươi. 3. Người hiểu đạo thì thấy
mình lỗi một trăm phần trăm.
Người chưa
biết đạo thì luôn cho mình đúng một trăm phần trăm. Vì vô minh, chấp ngã, xem
cái ta là trung tâm điểm của vũ trụ, cái gì hợp ý hợp lòng ta thì đúng, trái ý
nghịch lòng ta là sai. Cho nên ai làm điều gì trái lòng mình, ta giận dữ bắt
lỗi họ.
Người bắt đầu
tu và biết đạo thì có khá hơn một chút, không đổ lỗi hoàn toàn cho người khác
mà thấy mình cũng có phần lỗi trong đó. Có thể lúc đầu không nghĩ mình có lỗi,
ta rất giận dữ bực tức, mắng nhiếc lại người khác, nhưng sau đó nhận ra mình
cũng có lỗi nên im lặng bỏ đi. Thông thường khi giận tức ai, ta nghĩ mình đúng,
họ sai. Nếu càng nghĩ mình đúng thì cơn giận càng gia tăng. Trái lại, nếu nghĩ
mình sai, có lỗi thì cơn giận sẽ lắng dịu và ít đi. Nếu thấy mình hoàn toàn có
lỗi, cơn giận sẽ tiêu tan.
Người biết
tu, hiểu đạo thì thấy mình lỗi một trăm phần trăm, cho nên nhẹ nhàng tự tại,
không giận hờn ai cả, chỉ quán chiếu nhân duyên, nhân quả, xem trong đời này
mình đã làm tổn thương gì đến người khác không, nếu không thì có thể là các đời
trước đó, mình đã có thể gây tổn thương họ nên bây giờ họ gây sự để đáp trả.
Thấy mình
không lỗi mà vẫn xin lỗi, đó là thể hiện Phật chất trong đời, ứng dụng trí tuệ
của Phật vào cuộc sống. Thông thường ở đời nếu mình không lỗi mà xin lỗi thì bị
xem là ngu, nhưng người hiểu đạo và biết tu thì đó là trí tuệ. Trí tuệ trong
đạo Phật khác với trí tuệ ở thế gian. Trí tuệ ở thế gian gắn liền với phiền
não, trí tuệ trong đạo Phật liên hệ đến tự tại giải thoát. Người đời thấy vàng
bạc tham lam nổi lên lóa mắt mất hết cả đạo đức. Người tu thấy vàng bạc như
gạch ngói nên ung dung tự tại. Đó là cái nhìn bằng tuệ giải thoát trong đạo
Phật.
Phật tử chúng
ta phần lớn không biết chính xác mục đích tụng kinh là gì, cho nên đi tụng kinh
mà tranh nhau một chỗ đứng, giành nhau một chỗ ngồi. Mình tranh một chỗ đứng
tốt, giành một chỗ ngồi đẹp, thì người bạn đạo của mình sẽ đứng chỗ không tốt,
ngồi chỗ không đẹp. Thế thì tinh thần yêu thương, vị tha đâu, điều mà chúng ta
tụng trong kinh điển hàng ngày? Tụng kinh mục đích là để chúng ta có trái tim
biết yêu thương và vị tha hơn, chứ không phải để Phật chấm công mình tu nhiều
hay ít.
Trong kinh Trung
bộ, Đức Phật nói giáo pháp của Ngài giống như chiếc bè để qua sông. Ai muốn
qua bên kia sông thì dùng chiếc bè làm phương tiện để qua, ai muốn đạt đến giác
ngộ giải thoát thì nương vào giáo pháp của Ngài để tu tập. Mục đích bước lên
chiếc bè là để qua sông chứ không phải thấy chiếc bè đẹp quá rồi ở mãi trên đó.
Cũng vậy, mục đích tụng đọc kinh điển là để đoạn trừ các tâm cấu uế, cắt đứt
các nhân tố tâm lý đem lại khổ đau chứ không phải thấy kinh điển hay quá rồi ôm
tụng đọc suốt ngày mà không ứng dụng được gì vào thực tiễn cuộc sống.
Người thỏa
mãn với chiếc bè, bằng lòng với việc tụng đọc kinh điển được Đức Phật ví như
người đi tìm lõi cây mà chỉ mang về cành lá, vỏ cây và giác cây. Lõi cây là mục
tiêu giải thoát mà người tu tập nhắm đến. Học hỏi giáo pháp, tụng đọc kinh
điển, tham thiền, niệm Phật chỉ là công đoạn trảy cành lá, đẽo vỏ cây và giác
cây, mục đích là lấy được lõi cây, tức thể hiện được an vui giải thoát trong
cuộc đời.
Học pháp mà
để huyền đàm, triết lý suông, không mang lại lợi ích thiết thực, Đức Phật ví
như người bắt rắn, không bắt ở đầu mà bắt ở lưng hay đuôi nên bị nó quay lại
cắn. Như Tô Đông Pha là người học pháp uyên thâm, thường làm thơ ngợi ca Đức
Phật, nhưng khi bị Thiền sư Phật Ấn phê thơ ông dở như cái “đánh rắm”, thì ông
nổi giận lôi đình.
Nhiều người
đi chùa lâu năm, tụng kinh, ăn chay, ngồi thiền, niệm Phật, làm công quả, nghe
pháp, học hỏi giáo lý nhưng những điều này không thể chứng minh một người tu
giỏi được.
Đánh giá một
người tu giỏi hay không là nhìn vào lối sống và cách cư xử của họ. Người nào
còn tánh tham nhiều, cái gì cũng muốn vơ vét về cho mình hoặc gặp cảnh nghịch ý
thường hay nổi giận, thấy ai hơn mình cái gì, tỏ ra khó chịu, tranh giành ăn
thua với người khác, thì người đó tu chưa giỏi, mặc dù đi chùa nhiều, tụng kinh
hay. Người nào biết bố thí, làm phước, cúng dường, không bỏn sẻn keo kiệt; hoan
hỷ khi thấy người khác hơn mình, khiêm cung lễ độ, nói lời từ ái, không chỉ
trích chê bai người khác; biết yêu thương, tha thứ, khoan dung và độ lượng thì
người đó được xem là tu giỏi.
Hoàng Nguyên (GNO)