Đây là tuệ giác rất cao của đạo Bụt về vấn đề làm mới. Tất cả
những lầm lỗi đều do tâm mà ra. Tâm không chánh niệm gây ra đam mê, hờn
giận, ganh ghét, ngu si v.v... Giáo lý này cho ta thấy rõ rằng tất cả
những lầm lỗi và những vọng tưởng đều xuất phát từ tâm ta.
Buổi công phu chiều Chủ nhật trong sách Nhật Tụng Thiền Môn
Năm 2000 bắt đầu bằng bài tụng Sám Nguyện. Sám Nguyện gồm có hai phần
là sám hối và phát nguyện. Sám nghĩa là làm mới trở lại, bắt đầu trở
lại, cam kết rằng ta sẽ không làm như ngày xưa nữa, sẽ không gây ra
thêm những lỡ lầm và vụng dại như đã gây ra trong quá khứ. Sám được
dịch là bắt đầu trở lại, làm mới trở lại. Nguyện nghĩa là quyết tâm
không làm những điều đã từng gây ra đổ vỡ, và quyết tâm làm những điều
có thể hàn gắn, thay đổi và đưa tới sự chuyển hóa, gây an lạc cho ta và
cho người khác. Nguyện là mong ước, là quyết tâm thực hiện được điều
ta mong ước. Mong ước nối lại tình thâm, làm mới và chuyển hóa những
khổ đau, tạo ra hạnh phúc. Trong khi tụng bài Sám Nguyện, ta có thể đi
ngang qua một quá trình chuyển hóa, tại vì tụng bài này không phải là
để cầu xin một đấng tối cao làm cho chúng ta những điều mà ta không làm
được. Bài tụng này sẽ hướng dẫn cho chúng ta thực tập. Chúng ta sẽ
thấy rằng đây là ánh sáng chiếu vào tự thân và vào hoàn cảnh hiện tại
của ta để ta thấy rõ được tình trạng. Khi đã thấy được hiện tại và đã
có tuệ giác thì ta biết được con đường đi, tức là biết nên làm gì và
không nên làm gì để có thể bắt đầu làm mới. Chúng ta luôn bắt đầu trở
lại, nhất định không chịu thua. Bài tụng này là một cơ hội để chúng ta
rọi ánh sáng chánh niệm vào tự thân và hoàn cảnh để thấy được những
vụng dại và những lỡ lầm trong quá khứ của chính ta. Ta sẽ thấy được
con đường tương lai của ta, một con đường trên đó ta sẽ không lặp lại
những lỗi lầm và vụng dại ngày xưa. Đây là sự thực tập và ta đừng nghĩ
rằng đây là lời cầu xin đối với các đấng thần linh. Sám là công nhận
với bản thân là ta đã có những hành động vụng dại, thiếu chánh niệm vì
thế đã gây nên đổ vỡ. Nguyện là mong muốn quyết tâm hành động để thay
đổi. Bài Sám Nguyện được bắt đầu bằng một đoạn sáu câu giúp ta có thể
quán tưởng, hình dung ra một khung cảnh thuận lợi cho sự thực tập sám
và nguyện. Đó là khung cảnh mà trong đó chúng ta có thể thiết lập được
sự truyền thông:
Trang nghiêm đài sen ngự tọa
Đại hùng từ phụ Thích Ca
Đệ tử lắng lòng thanh tịnh
Bàn tay chắp thành liên hoa
Cung kính hướng về Điều Ngự
Dâng lời sám nguyện thiết tha.
Chúng
ta quán tưởng đức Thích Ca đang ngồi trên tòa sen. Có bàn thờ hoặc
không có bàn thờ, có tượng Bụt hoặc không có tượng Bụt thì ta vẫn quán
tưởng được. Đức Thích Ca đối với chúng ta như là một vị thầy, một vị cha
tinh thần đầy thương yêu nên ta gọi là từ phụ. Người cha lành ấy có
rất nhiều sức mạnh, sức mạnh của trí tuệ, của thương yêu và hiểu biết,
chứ không phải là sức mạnh của quyền bính hay tiền bạc. Sức mạnh của
đức Từ Phụ đã phát sinh từ hiểu biết và thương yêu lớn, từ sự không sợ
hãi khổ đau và lỗi lầm. Sức mạnh này giúp ta biết là ta có thể vượt
được khổ đau và lỗi lầm, sẽ không bị chết đuối trong đại dương của đau
khổ. Đó gọi là đại hùng, là can đảm lớn. Chúng ta thường ca ngợi Bụt
Thích Ca là bậc đại hùng, đại lực và đại từ bi. Chúng ta quán tưởng Đức
Thích Ca hiện đang ngự tọa trên một đài sen đẹp, trang nghiêm có nghĩa
là đẹp. Đài sen đó là đài sen trong trái tim chúng ta và đức Thích Ca
cũng đang ngự tọa trên đài sen ấy. Ngồi bên cạnh đức Thích Ca có một vị
Bụt khác cũng đang ngồi trên tòa sen, như trong kinh Pháp Hoa, Bụt Đa
Bảo đang ngồi trên tòa sen và xích ra một bên để mời đức Thích Ca cùng
ngồi. Hai Bụt ngồi chung. Trong trái tim ta hiện giờ cũng có hai Bụt
ngồi chung, đó là Bụt Thích Ca và Bụt của chính ta, tại vì trong mỗi
chúng ta đều có sẵn một vị Bụt tương lai. Tất cả chúng sanh đều là Bụt
tương lai. Hai vị Bụt là một, không phải ở trong mà cũng không phải ở
ngoài. Chúng ta siêu việt ý niệm trong và ngoài. Bụt Thích Ca chính là
Bụt của ta, Bụt của ta chính là Bụt Thích Ca. Tọa là ngồi, ngự là chỉ
sự có mặt của những bậc đại nhân, như vua hay Bụt. Khi có chánh niệm
thì ta cũng đang ngự, ngự trên một tảng đá, một bãi cỏ hay trên chiếc
gối ngồi thiền của ta, ngồi một cách rất đẹp đẽ, uy hùng.
Đệ tử lắng lòng thanh tịnh
Nhờ
quán tưởng như vậy mà tâm ta lắng xuống, không còn bận rộn bởi những
lo âu, thổn thức và giận hờn. Tâm tư ta an tịnh trở lại. Lắng lòng tức
là có sự bình an, trong lòng không dậy sóng. Lắng lòng thanh tịnh là cả
một sự thực tập. Chúng ta ngồi thiền, tụng kinh, thực tập hơi thở
chánh niệm và lễ Bụt là để lắng lòng thanh tịnh. Tất cả những sự thực
tập đó là để trái tim chúng ta lắng xuống, thanh tịnh lại. Làm cho êm
dịu lại, tập trung lại, đó là chỉ, là samatha.
Gần Wasington DC,
tại Oakton, có một trung tâm thực tập chánh niệm (Mindfulness
Practice Center) nằm ngay trong thành phố. Các vị giáo thọ bên đó cho
biết là mỗi khi họ tổ chức một khóa tu ở xa thành phố thì thiền sinh
phải lái xe ra khỏi thành phố và đi khoảng một hai giờ đồng hồ mới tới
địa điểm của khóa tu. Từ chỗ đậu xe đi vào khóa tu để ghi tên họ phải
đi bộ. Khi tới được chỗ khóa tu thì tâm của họ đã lắng lại được nhiều
rồi, họ đã rũ bỏ bớt được một số những lo âu phiền muộn. Họ chứng
nghiệm được một ít ly sinh hỷ lạc, nghĩa là đã rời bỏ được một ít những
phiền muộn trên con đường từ thành phố tới khóa tu. Những bụi bặm
trong tâm đã rơi rớt ở dọc đường trong hai giờ lái xe và trong lúc đi
bộ, nhờ đó cho nên khi tới nơi tâm họ đã lắng lại, đã thanh tịnh được
khá nhiều. Nhưng tại MPC, Trung Tâm Thực Tập Chánh Niệm trong thành
phố, thiền sinh đi thẳng từ cửa xe vào ngay trong thiền đường. Sự căng
thẳng của thân thể cũng như sự căng thẳng của tâm hồn còn nhiều, vì thế
họ mang vào trong thiền đường rất nhiều bụi bặm của tâm. Khi đang ngồi
trong thiền đường mà có chừng năm người như vậy đi vào thì ta thấy
không khí đột nhiên trở nên nặng nề ra một cách rõ ràng. Chúng ta phải
thực tập lắng lòng thêm, họ cũng thực tập lắng lòng thêm thì trong vòng
mười hay mười lăm phút sau, không khí thiền đường mới nhẹ ra như trước
được. Tôi có đề nghị là khi tổ chức một trung tâm tu học ta phải làm
thế nào để cho thiền sinh đậu xe xa thiền đường. Đậu xe rồi thiền sinh
sẽ được hướng dẫn đi thiền hành ngay trên con đường từ bãi đậu xe đến
thiền đường. Đi bộ thong thả theo kiểu thiền hành chừng mười lăm phút
thì họ đã làm rơi rụng ở dọc đường khá nhiều những bụi bặm của cuộc
sống hàng ngày, những lo lắng, những sự căng thẳng trong thân tâm họ.
Con người ta nhẹ ra và ta không làm phiền đến những người đang ở trong
thiền đường. Quý vị nào đang thiết kế tổ chức một trung tâm tu học, thì
nên nghĩ tới điều này, rất quan trọng.
Lắng lòng thanh tịnh là
để cho những bụi bặm của phiền não, của sự căng thẳng rơi rụng bớt và
tâm ta yên lại. Khi tâm đã thanh tịnh thì ta mới có định và mới tiếp
xúc được với đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn ở trên bàn thờ và đức Thế Tôn ở
ngay trong lòng chúng ta.
Đệ tử lắng lòng thanh tịnh
Bàn tay chắp thành liên hoa
Khi
chắp tay lên, hai bàn tay của chúng ta trở thành một đóa sen. Bao
nhiêu chuyện quá khứ, tương lai, và dự án đều được bỏ đi hết. Chúng ta
trở về đối diện với chính mình, với đức Thế Tôn. Đó là sự thực tập.
Chúng ta thực tập buông bỏ trong khi chúng ta tụng mười hai chữ ấy với
hai bàn tay chắp thành liên hoa. Chúng ta làm thành búp sen và dâng lên
đức Thế Tôn một đóa hoa đàng hoàng chứ không phải dâng lên một lò lửa.
Chúng ta có được đóa sen đó là do sự thực tập lắng lòng mà có. Nhờ sự
thực tập mà lò lửa đã biến thành hoa sen. Lò lửa biến thành đóa sen
hồng, liên phát lô trung, là một hình ảnh trong thi ca Phật giáo, bông
sen phát sinh từ lò lửa. Chúng ta có một lò lửa ở trong tâm nhưng cũng
có một đóa sen thật tươi, thật mát trong tâm. Nếu ta biết thở và biết
đi thiền hành thì lò lửa sẽ biến thành hoa sen. Đóa sen của trái tim
này không héo được, vì nó không phải được mua ở ngoài chợ hay là hái ở
hồ, đóa sen này sinh ra từ sự thực tập của chúng ta. Đóa sen đó làm
bằng sự lắng lòng thanh tịnh. Khi muốn có một đóa sen để dâng cúng đức
Thế Tôn thì chúng ta liền có.
Đệ tử lắng lòng thanh tịnh
Bàn tay chắp thành liên hoa
Cung kính hướng về Điều Ngự
Dâng lời sám nguyện thiết tha
Điều
Ngự là một danh hiệu của Bụt, nói đủ là Điều Ngự Trượng Phu. Trượng
Phu là loài người, Bụt có khả năng điều phục con người trong đó có
những thành phần cứng đầu, hung dữ, khó trị.
Bài tụng này là về
sám và về nguyện, là một cuộc đối thoại giữa chúng ta và đức Thế Tôn.
Vì vậy sáu câu tụng đầu tiên này là để giúp chúng ta tạo ra được khung
cảnh trang nghiêm và thanh tịnh trong đó sự đối thoại giữa chúng ta với
đức Thế Tôn có thể bắt đầu được tự nhiên và dễ dàng. Ngay sáu câu đầu
chúng ta đã phải thực tập cho thành công. Đó là khả năng của quán
tưởng. Chúng ta quán tưởng có tòa sen, có đức Từ Phụ đang ngồi. Sự quán
tưởng đó tạo ra sự thanh tịnh của trái tim, và búp sen này chính là
trái tim của chúng ta để dâng lên đức Từ phụ.
Đoạn thứ hai của
bài là một đoạn sám. Đây là đoạn sám đầu nên chúng ta có thể đánh dấu
S1 (sám một). Trong đoạn này chúng ta sám tổng quát, chúng ta nhìn lại
tổng quát rồi sau đó chúng ta sẽ nhìn lại những chi tiết trong những
đoạn sám khác.
Đệ tử phước duyên thiếu kém
Sống trong thất niệm lâu dài
Không được sớm gặp chánh pháp
Bao nhiêu phiền lụy đã gây
Bao nhiêu lỡ lầm vụng dại
Vô minh che lấp tháng ngày
Vườn tâm gieo hạt giống xấu
Tham, sân, tự ái dẫy đầy
Những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng
Gây nên từ trước đến nay
Những điều đã làm, đã nói
Thường gây đổ vỡ hàng ngày.
Bao nhiêu não phiền nghiệp chướng
Nguyện xin sám hối từ đây.
Đó
là sự thực. Sự thực là chúng ta thiếu phước và thiếu duyên cho nên đã
được gặp chánh pháp và đức Thế Tôn hơi trễ. Gặp trễ là vì phước còn ít.
Duyên là những điều kiện thuận lợi đưa chúng ta tới chánh pháp. Chúng
ta đã thiếu duyên rồi lại còn thiếu phước nữa. Vì thiếu duyên thiếu
phước nên ta đã sống trong thất niệm một thời gian khá lâu. Chúng ta đã
ngủ một giấc ngủ khá lâu, một giấc ngủ dài có thể từ năm này sang năm
khác, hay là từ kiếp này sang kiếp khác. Cho đến khi được gặp chánh
pháp thì giấc mơ đã quá dài, và trong giấc mơ thất niệm đó bao nhiêu lỡ
lầm vụng dại đã được tạo ra, gây đau khổ cho chúng ta và cho bao nhiêu
người khác. Cái không may của chúng ta là thiếu phước và thiếu duyên
không gặp được chánh pháp. Ta nhận thấy rõ ràng nguyên do sâu xa nhất
của đau khổ là thất niệm. Phiền lụy là phiền não và hệ lụy. Phiền não
là những tâm tư đốt cháy con người và làm cho chúng ta điêu đứng như
tham dục, giận hờn, si mê, ganh tỵ, sợ hãi, lo lắng và buồn phiền. Hệ
lụy là những hoàn cảnh khó gỡ, những tình huống chìm đắm, vướng mắc,
không thoát ra được. Hệ lụy là bị kẹt. Phiền não là những tâm hành trói
buộc.Vụng dại là không khôn khéo. Dù ta không có ác ý làm cho người
kia khổ, không muốn làm cho tự thân ta khổ nhưng vì vụng dại ta đã vẫn
gây nên đổ vỡ. Ta không biết cách hành xử, nói năng khéo léo, chưa biết
dùng lời ái ngữ cho nên đã làm đổ vỡ và gây khổ đau cho ta và cho
những người khác. Lỡ lầm là những điều sai lạc ta đã làm, có khi biết
là không nên làm nhưng mà vẫn cứ làm. Ai cũng vậy, ai cũng đã có những
lần lầm lỡ. Bây giờ đây, trong khi tụng đọc đoạn này, ta công nhận một
cách tổng quát rằng trong quá khứ ta đã có những lầm lỡ và những vụng
dại.
Vô minh che lấp tháng ngày
Cái gốc của tất
cả những lỡ lầm, vụng dại là vô minh, nghĩa là sự thiếu sáng suốt. Vô
minh cũng là thất niệm, là bóng đêm, là sự thiếu thốn ánh sáng. Minh là
ánh sáng, vô là không. Chúng ta đã sống trong bóng tối, đã sống không
chánh niệm và đã bước những bước vấp ngã. Chúng ta đã để bóng tối bao
trùm ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác.
Vườn tâm gieo hạt giống xấu
Tham sân tự ái dẫy đầy
Trong
tự thân của mỗi chúng ta đều có một khu vườn với cây lành trái ngọt.
Vì vô minh chúng ta đã để cho những hạt giống xấu rơi xuống vườn tâm và
mọc lên quá nhiều gai góc khổ đau. Ta đọc sách, tiểu thuyết, coi ti
vi, chuyện trò, giải trí và để cho vườn tâm của ta bị xâm chiếm bởi
những độc tố và phiền não. Máy vô tuyến truyền hình được chúng ta tiêu
thụ mỗi ngày nhiều giờ. Con cháu chúng ta còn tiêu thụ nhiều hơn. Trong
thời gian đó những hạt giống xấu của những chương trình kia đi vào
trong tâm thức của trẻ thơ và của chúng ta, những hạt giống bạo động,
căm thù và thèm khát cứ tiếp tục được gieo và tưới tẩm. Ta không biết
giữ khu vườn của ta, không biết thực tập Năm giới, cứ để vườn tâm gieo
hạt giống xấu. Đó là chuyện đang xảy ra cho hàng triệu người trên thế
gian. Là người có tu học ta không nên cho phép những hạt giống xấu đó
gieo vào ruộng tâm thức của mình. Ta phải là những người làm vườn có ý
thức. Tham, sân và tự ái là ba trong những hạt giống xấu nhất.
Những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng
Gây nên từ trước đến nay
Trong
quá khứ, ta cũng đã gây ra những lỗi lầm, những nghiệp xấu. Cha ăn mặn
thì con khát nước, điều này cũng nằm trong lý nhân quả. Cha với con
không phải là hai, cha với con cùng thuộc về một dòng sống liên tục, cha
làm lành thì con được hưởng, cha làm dữ thì con cũng lãnh hậu quả.
Những gì tổ tiên đã làm thì chúng ta thừa tự. Trong quá khứ những nghiệp
sát, đạo, dâm, vọng đã được tạo ra. Sát nghĩa là giết hại, giết hại
con người và những loài khác. Đạo là tham lam, trộm cướp, sử dụng và
chiếm hữu những cái không phải của mình làm ra, giành quyền lợi cho
riêng mình và để cho những người khác đói khổ. Không phải chỉ trong
kiếp này mà trong những kiếp trước chúng ta đã có những hành động sát,
đạo, dâm và vọng. Dâm tức là tà dâm, những liên hệ tà dục tạo ra sự đổ
vỡ trong gia đình, làm khổ người kia, làm tan nát đời người kia và làm
tan nát chính đời mình. Có thể ông bà cha mẹ của ta đã từng làm điều đó
và bây giờ ta lãnh hậu quả. Vọng là nói dối, nói thêu dệt. Lời nói dối
cũng có thể giết người được, cũng có thể làm cho người ta đau khổ đến
phải đi tự tử. Phần lớn khổ đau được gây ra do cái miệng. Giữ gìn được
cái miệng thì hạnh phúc tăng tiến rất lớn. Trong quá khứ ta đã từng gây
nghiệp vọng ngữ, đã nói năng không khéo léo, đã vụng dại gây ra những
xáo trộn, nghi ngờ, đã nói những điều không cần thiết làm mất niềm tin.
Tu học với nhau ta phải sử dụng chánh niệm trong lúc nói năng. Riêng
chuyện giữ gìn được cái miệng và đừng bao giờ nói ra một câu nói ác ngữ
đã có thể đem lại hạnh phúc nhiều lắm rồi. Chúng ta hãy thực tập nói
những câu chuyện xây dựng, tạo thành những niềm vui.
Những điều đã làm đã nói
Thường gây đổ vỡ hàng ngày
Bao nhiêu não phiền nghiệp chướng
Nguyện xin sám hối từ đây
Những
điều đã làm đã nói gây đổ vỡ là chuyện thường xảy ra. Chúng ta muốn
thương yêu, muốn cho người kia có hạnh phúc, nhưng chúng ta vẫn nói và
vẫn làm những điều làm cho người đó đau khổ liên miên. Chúng ta gây ra
đổ vỡ. Liên hệ giữa ta với người kia càng ngày trở nên khó khăn. Khó
khăn là do chúng ta đã nói và làm không chánh niệm. Ta đã gây ra những
phiền não cho chính mình và cho những người khác. Những chướng ngại đó
bít lấp sự truyền thông làm mất đi hạnh phúc trong đời sống hàng ngày.
Ta nhận diện tất cả những thiếu kém, vụng dại, lỡ lầm, vô minh, nghiệp
chướng và đổ vỡ. Nhận rõ chúng là nguyên do của khổ đau, ta sám hối với
đức Thế Tôn và nguyện không làm như vậy nữa từ giờ phút này.
Bây
giờ chúng ta đi sang phần kế tiếp gọi là S2. Đoạn này quán chiếu về
liên hệ giữa ta và người khác. Phần lớn khổ đau của ta phát sinh từ
liên hệ giữa ta với người thân và những người chung quanh ta. Người đó
có thể là bạn hôn phối của ta hay là con của ta, hoặc cha, mẹ, anh,
chị, em, thầy, hay là huynh đệ của ta. Đó là liên hệ giữa người và
người.
Đệ tử thấy mình nông nổi
Con đường chánh niệm lãng xao
Chất chứa vô minh phiền não
Tạo nên bao nỗi hận sầu;
Nông
nổi là sống cạn cợt, không tuệ giác, không tiếp xúc sâu sắc trong từng
giây phút của đời sống hàng ngày, nghĩa là không có năng lượng của
chánh niệm. Ta đã không có chánh niệm khi nhìn, nghe, nói và làm việc
trong đời sống hàng ngày. Lãng xao là quên lãng, là không duy trì chánh
niệm, không thực tập miên mật. Vì sống trong thất niệm lãng quên như
vậy cho nên trong mỗi giây phút ta đều chất chứa thêm vô minh và phiền
não, tạo ra thêm những nỗi oán hận và sầu đau cho ta và cho người khác.
Hận là sự giận hờn, sự oán thù, và sầu là nỗi buồn đau của ta và của
người kia.
Có lúc tâm tư buồn chán
Mang đầy dằn vặt lo âu
Có
những lúc tâm tư ta bị tràn ngập bởi cái buồn và cái chán. Buồn vì
không thấy niềm vui trong sự sống, ta sinh ra chán nản không còn nghị
lực để đi tới. Buồn và chán là những năng lượng tiêu cực làm ta khổ đau
và không còn muốn sống. Sự liên hệ giữa ta và người kia đã trở nên quá
xấu, quá khó khăn và ta cảm thấy bất lực. Ta thấy hết hy vọng và tự
thấy không có khả năng sống hạnh phúc nữa. Tâm tư ta buồn và chán. Chán
ở đây cũng có nghĩa là hết hy vọng, muốn bỏ cuộc. Dằn vặt là hối hận,
thứ hối hận không có ích lợi. Trong 51 tâm sở có tâm sở gọi là hối. Tâm
sở hối này là một tâm sở bất định, vì nó có thể hoặc tốt hoặc xấu. Hối
có thể là một tâm sở thiện hoặc một tâm sở bất thiện. Nó là tâm sở
thiện khi nó có nghĩa là sám, là khả năng nhận diện được những lỗi lầm
và quyết tâm sẽ không lặp lại. Còn nếu chỉ là mặc cảm tội lỗi đeo sát
mình làm cho ta mất hết năng lượng thì nó là một tâm sở bất thiện. Mặc
cảm tội lỗi làm cho ta không còn năng lượng để tu tập. Dằn vặt ở đây là
sự đau khổ gây ra do mặc cảm tội lỗi. Dằn vặt là sự dày vò. Ta bị dằn
vặt bởi những lỗi lầm trong quá khứ mà không vượt thoát lên được, không
làm mới lại được. Lo âu cũng là một tâm hành xấu gọi là ưu. Ta sợ hãi
về tương lai, ta sợ rằng những cái không tốt đẹp, không hạnh phúc sẽ
xảy ra cho ta mà ta không biết làm sao để có thể ngăn chúng xảy ra. Vì
không biết cách làm mới, không biết cách chuyển hóa nghiệp cũ cho nên
ta cứ mãi sống trong lo âu.
Vì không hiểu được kẻ khác
Cho nên hờn giận oán cừu
Không
hiểu được tức là không thấy được những khó khăn, những khổ đau và ước
vọng của người kia. Theo giáo lý Bụt dạy, ta chỉ có thể thương khi ta
đã hiểu. Hiểu biết là chất liệu cho thương yêu. Ta chưa bao giờ có thì
giờ để nhìn kỹ người kia để hiểu được những khó khăn, những tập khí của
người ấy. Ta không thấy được môi trường giáo dục và sinh hoạt gia đình
của người ấy trong quá khứ cho nên ta mới giận hờn, buồn bực người ấy
về những gì người ấy đã nói, đã làm, đã phản ứng. Muốn thương ta phải
thấy và phải hiểu những khó khăn, những khổ đau và những tập khí của
người ta thương. Ta phải quán chiếu để thấy tại sao người ấy có những
khó khăn, những khổ đau, những tập khí đó và khi hiểu rồi thì ta có thể
chấp nhận được, và ta sẽ không còn phản ứng một cách giận dữ nữa.
Người kia cũng vậy, vì không hiểu được ta nên cũng đã hờn giận và oán
cừu. Vì vậy thương nhau trước hết là hiểu nhau. Phải cùng nhau tu tập,
phải nhờ tăng thân soi sáng để có thể hiểu được nhau. Thực tập được như
vậy thì ta chấp nhận được nhau và tha thứ cho nhau rất dễ.
Lý luận xong rồi trách móc
Mỗi ngày mỗi chuốc khổ đau
Chia cách hố kia càng rộng
Đó
là cái vòng luẩn quẩn trong liên hệ giữa ta với người kia. Ta thường
hay lý luận để đổ lỗi cho người ấy. Ta lý luận rất hay nhưng lý luận
không đưa tới kết quả gì. Vậy mà ta vẫn tiếp tục lý luận. Ta chỉ muốn
dùng lý luận để giải quyết liên hệ giữa ta với người kia, dù ta biết lý
luận chỉ làm cho cái hố ngăn cách giữa hai bên càng ngày càng rộng.
Chúng ta phải tự nói với mình là hãy chấm dứt lý luận. Ta đã lý luận bao
nhiêu năm rồi mà không thành công. Chỉ có chấp nhận và tha thứ mới có
thể giúp ta thay đổi và giúp được người kia. Nếu ta chuyển hóa được thì
ta sẽ bớt khổ đi nhiều lắm và người kia cũng nhờ đó mà bớt khổ. Cho
nên ta quyết tâm là không lý luận nữa, và nhất là không trách móc. Muốn
chuyển hóa liên hệ giữa ta với người kia, muốn thiết lập lại sự truyền
thông, ta phải quyết tâm bỏ cái phương pháp lý luận và trách móc. Đó
cũng là một trong năm điều nguyện ước trong nghi thức đám cưới của sách
Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn. “Chúng con nguyện tự nhắc nhở rằng sự
trách móc, sự hờn giận và lý luận chỉ làm hao tổn hòa khí và không giải
quyết được gì. Chúng con biết chỉ có sự hiểu biết và lòng tin cậy mới
bồi đắp được hạnh phúc và sự an lạc.” Đó điều ước nguyện thứ tư. Không
phải những người đang cưới nhau mới cần phát nguyện như vậy. Là những
người sống chung với nhau, muốn có hạnh phúc, chúng ta cũng phải làm
giống hệt như vậy. Không lý luận, không trách móc nữa vì mỗi lần lý
luận, mỗi lần trách móc là mỗi lần tạo thêm khổ đau. Sở dĩ cái hố chia
cách càng ngày càng rộng là vì lý luận và trách móc.
Có ngày không nói với nhau
Cũng không muốn nhìn thấy mặt
Gây nên nội kết dài lâu;
Điều
này xảy ra rất thường. Thấy cái mặt dễ ghét quá, ta không muốn nói và
không muốn nhìn nữa. Ta đã có nội kết với nhau. Trước kia ta đã nguyện
thương yêu nhau, sống chung với nhau, chia xẻ tất cả với nhau, nhưng
giờ đây cả hai không còn muốn nhìn thấy mặt nhau nữa, không muốn nói
chuyện với nhau nữa. Đó là vì chúng ta đã gây quá nhiều khổ đau cho
nhau. Rồi vì khổ đau quá nhiều nên ta có khuynh hướng trách móc, đổ lỗi
cho nhau. Tôi khổ quá và tôi nghĩ rằng tất cả những cái khổ của tôi là
do anh gây ra cho nên tôi ghét, tôi thù anh. Người kia cũng vậy. Sự
chán ghét được thể hiện rõ ràng trên nét mặt mỗi người, vì vậy không
muốn nhìn mặt nhau là điều tất nhiên. Nhìn nhau mà không hạnh phúc thì
ta đâu muốn nhìn nữa. Không biết sử dụng ái ngữ nên khi nói với nhau ta
cũng không có hạnh phúc và do đó ta không muốn nói nữa. Hai người cùng
thầm lặng đồng ý với nhau là nên cùng nhìn về phía máy vô tuyến truyền
hình cho đỡ khổ. Có một nhà văn Pháp tên là Antoine de Saint Exupery
nói: ỀThương nhau không phải là nhìn nhau mà là cùng nhìn về một
hướng.” Nhưng khi cả hai đều nhìn về hướng vô tuyến truyền hình và
không muốn nhìn nhau nữa tức là tình trạng đã trở nên quá khó khăn. Đó
là thảm kịch của không biết bao nhiêu gia đình. Có một phóng viên của
tờ báo Elle, một tờ báo của phụ nữ tại Paris, tới Làng Mai sống một
thời gian với các sư cô để học về phương pháp thực tập. Báo Elle bán
rất chạy trong giới phụ nữ Pháp. Tôi có gặp vị ký giả này và đề nghị bà
nên viết một bài thực tập để giúp cho phụ nữ Pháp. Tôi đề nghị rằng ở
phòng khách của gia đình, trong khi bà với ông đang nhìn máy truyền
hình, tức là cùng nhìn về một hướng, bà hãy quay về phía ông, nhìn ông
và nói: “Này anh yêu của em! Anh có thể tắt cái máy truyền hình vài
phút không? Em có một vài chuyện cần muốn nói với anh.” Bà phải bắt đầu
sự thực tập. Cố nhiên là ông sẽ tắt máy truyền hình vì bà đã nói một
cách dịu dàng khác với thường ngày. Bấy giờ, trong sự yên lặng bà nhìn
ông và hỏi: “Này anh, chúng ta có phải là một cặp có hạnh phúc không?”
Câu hỏi đó đã có thể được gọi là thiền rồi. Thiền là can đảm nhìn vào
sự thật để tìm ra nguyên do của sự thật đó. Nhìn trực tiếp, không sợ
hãi. Nhìn lại thì thấy hai vợ chồng có nhà, có xe, có tủ lạnh, có
trương mục tiết kiệm, có đủ thứ, mỗi tuần có thể đi ăn tiệm một hai
lần, có thể đi coi hát, vậy mà tại sao họ không có hạnh phúc? Tại vì sự
liên hệ giữa hai vợ chồng đã hư xấu mất rồi, đã chứa đầy những khổ
đau. Họ đã làm khổ cho nhau, đã gieo vào trong khu vườn của nhau những
hạt giống rất xấu. Vì nhìn nhau và nói với nhau không có hạnh phúc cho
nên cả hai phải cùng nhìn vào cái máy truyền hình cho đỡ khổ. Người đàn
bà có thể hỏi một câu hỏi như thế. Này anh, chúng ta còn trẻ, chúng ta
có nhiều điều kiện hạnh phúc, nhưng có thật là ta đang có hạnh phúc
hay không? Nếu chúng ta không có hạnh phúc là tại vì sao? Hai chúng ta
hãy thử quán chiếu lại để tìm ra những nguyên nhân của tình trạng. Nếu
cả hai đồng ý rằng câu chuyện này quan trọng hơn việc coi truyền hình
thì họ trở thành một cặp gọi là đồng minh trong chuyến đi tìm sự thật.
Nếu thấy được sự thật là họ đã hành xử vụng dại với nhau, đã chỉ biết
lý luận trách và móc nhau là họ đã thành công và họ có thể sám nguyện
để bắt đầu làm mới. Làm như vậy tức là nhìn sâu để có được hiểu biết về
sự thật. Có biết hiểu là có thể giúp nhau được. Nếu hai vợ chồng không
có khả năng làm chuyện đó thì họ phải cần đến một người thứ ba, một
người bạn. Một người bạn đã từng thực tập chánh niệm, đã từng thực tập
thiền quán, đã từng thực tập hòa giải, sẽ giúp được cho hai vợ chồng
trong việc thực tập làm mới. Người kia đóng vai trò của Bụt, vai trò
của thầy, của thiện trí thức để giúp cặp vợ chồng này. Đôi khi không
nhất thiết là cả hai vợ chồng cùng phải thực tập, có thể đọc xong bài
báo là người đàn bà có thể tự mình thực tập, cộng với sự giúp đỡ khéo
léo của một người bạn tu. Bởi vì sự chuyển hóa của chính mình sẽ dẫn
đến sự chuyển hóa nơi người kia. Tự mình giác ngộ và từ sự giác ngộ đó
mình giúp cho người bạn hôn phối của mình giác ngộ để hai vợ chồng có
thể làm mới trở lại. Phải bắt đầu từ chính mình, phải học phương pháp
lắng nghe với hiểu biết với từ bi, học phương pháp sử dụng ngôn từ hòa
ái để có thể thiết lập lại truyền thông tại vì cả hai đều đã đánh mất
khả năng lắng nghe và nói năng bằng ngôn ngữ từ ái.
Gây nên nội kết dài lâu
Nội
kết là một khối đau khổ ở trong lòng. Nếu ta nhận diện được nội kết và
thấy được nguyên do phát sinh ra nội kết thì đó đã là một sự giác ngộ
rồi, và ta sẽ tiếp tục đi tới từ giác ngộ đó.
Nay con hướng về Tam Bảo
Ăn năn khẩn thiết cúi đầu.
Ăn
năn là hối hận, là tâm sở thiện, là muốn làm mới. Con không muốn làm
như vậy nữa, con muốn làm mới. Làm mới với tất cả trái tim của con. Con
cúi đầu để phát nguyện với Bụt và với chính con rằng con muốn làm mới.
Đó là kết thúc đoạn thứ ba nói về sám hối, làm mới về quan hệ giữa
người với người.
Bây giờ chúng ta đi tới đoạn thứ tư có thể gọi
là S3. Đoạn này có công năng giúp ta thấy được sự cần thiết của sự thực
tập chánh niệm và sự nhận diện tập khí của riêng ta.
Đệ tử biết trong tâm thức
Bao nhiêu hạt tốt lấp vùi
Ban
đầu ta nghĩ rằng trong ta chỉ có đau khổ, nhưng thật sự ta cũng đang
có những hạt giống của hạnh phúc. Điều này rất là quan trọng. Đây là
tuệ giác của Duy Biểu Học. Trong ta có những hạt giống xấu nhưng cũng
có những hạt giống tốt, trong đó có hạt giống của đại từ, đại bi, đại
hùng và đại lực.
Hạt giống thương yêu, hiểu biết
Và bao hạt giống an vui.
Nhưng vì chưa biết tưới tẩm,
Hạt lành không mọc tốt tươi.
Đây
là một sự giác ngộ khác. Giác ngộ rằng trong ta có hạt tốt mà trong
người kia cũng có hạt giống tốt. Người kia cũng có thể hiểu, có thể
thương và cũng có thể có hạnh phúc. Nhưng trong quá khứ ta chưa bao giờ
tìm cách để tưới tẩm những hạt giống ấy để chúng mọc lên và đơm hoa kết
trái. Và những hạt giống tốt trong ta cũng chưa được ai tưới tẩm.
Chính ta cũng không biết tưới tẩm, cho nên cả hai đều đã không có hạnh
phúc. Ở Làng Mai, pháp môn tưới hoa được chỉ dạy rất thường. Ta phải
tưới tẩm những hạt giống tốt mà đừng tưới tẩm những hạt giống xấu nơi
ta và nơi người kia. Hai bên phải ngồi lại với nhau để ký một hiệp ước,
hiệp ước sống chung an lạc. Này anh yêu của em, nếu anh thương em thì
xin anh đừng tưới những hạt giống xấu nơi em. Đừng tưới tẩm hạt giống
ghen tuông của em, nếu không sẽ em trở thành ra một bà chằng rất khó
chịu. Không những em khổ mà em sẽ làm cho anh khổ. Trái lại, xin anh
tưới giùm cho em mỗi ngày những hạt giống tốt trong em, hạt giống hiểu
biết và thương yêu, những hạt giống của hạnh phúc. Em cũng có thể hiểu,
có thể thương, có thể có hạnh phúc và như vậy anh cũng sẽ có hạnh
phúc. Phương pháp này gọi là phương pháp tưới tẩm hạt giống một cách
khôn khéo (selective watering). Ta biết là ta đang tưới hạt giống nào.
Mỗi cái nhìn, mỗi hành động, mỗi lời nói đều có thể có tác dụng tưới
tẩm hạt giống tốt nơi người khác. Chú ý để đừng tưới tẩm những hạt
giống xấu nơi người kia. Chỉ tưới tẩm những hạt giống nơi người ấy tốt
thôi, ta sẽ có hạnh phúc ngay. Nếu tưới tẩm có chánh niệm thì chỉ cần
một ngày hoặc hai ngày người kia cũng đã thay đổi. Tôi xin cam kết rằng
tưới tẩm một giờ đồng hồ cũng đủ cho quý vị thấy được kết quả tốt. Khi
trồng hướng dương, trồng bưởi, trồng quít ta phải tưới nhiều tháng
nhiều năm mới có hoa trái. Nhưng người kia rất nhạy cảm, ta chỉ cần
tưới một giờ hoặc hai giờ đồng hồ là ta đã có hoa trái. Chúng ta tưới
hoa bằng những lời nói dịu dàng, những hành động săn sóc, bằng ánh mắt
thương yêu, bằng tuệ giác của ta. Tưới hoa ở đây không có nghĩa là nịnh
nọt. Đây là nói lên sự thật, nói ra những điều tốt đẹp nơi người kia.
Người kia thế nào cũng có những hạt giống tốt, những tài năng và khả
năng làm hạnh phúc cho người và cho mình. Ta chỉ công nhận những hạt
giống đó và tưới tẩm những hạt giống đó.
Tôi nhớ có lần một cặp
vợ chồng ở Bordeaux về dự Phật Đản ở đây. Trong buổi pháp thoại, tôi đã
giảng về phương pháp tưới tẩm hạt giống. Bà vợ khóc, hai con mắt đỏ
hoe. Sau pháp thoại và thiền hành, tôi nói riêng với ông ấy “Bông hoa
của anh héo rồi, anh phải tưới mới được.” Sau lễ Phật Đản, hai vợ chồng
trở về Bordeaux. Người đàn ông nghe lời thầy vừa lái xe vừa thực tập
tưới tẩm. Từ Làng Mai về Bordeaux đi xe hơi chỉ cần chừng một giờ hai
mươi phút. Về tới Bordeaux, người đàn bà trở thành rất tươi mát. Mấy
đứa con ngạc nhiên quá vì khi mẹ đi thì héo như thế mà đến khi về thì
tươi như thế. Ba đưa mẹ đi và đem về cho các con một bà mẹ rất mới, rất
tươi mát và hạnh phúc. Chỉ có hơn một giờ tưới hoa thôi mà kết quả đã
tốt như vậy. Ta chỉ cần nói sự thật tích cực. Ta tưới hoa cho người đó
và ta cũng đồng thời phải tưới hoa cho ta. Trong khi đi thiền, ngồi
thiền, nấu cơm, giặt áo, tụng kinh, niệm Bụt, lễ lạy, nghe pháp và nói
chuyện chúng ta hãy tưới tẩm những hạt giống tốt của chính mình và của
người khác. Mỗi khi phát hiện rằng hạt giống xấu đang được tưới tẩm và
phát triển, ta phải tìm cách ngăn chặn và quay sang tưới tẩm và chăm
sóc những hạt giống tốt liền lập tức. Trong ta cũng có khả năng hiểu
biết, thương yêu và hạnh phúc. Ta cần phải tưới mỗi ngày. Sự tưới tẩm
đó ta áp dụng cho người kia và áp dụng cho ta. Ta phải có can đảm ngăn
chặn sự tưới tẩm những hạt giống xấu và ngăn chặn một cách khéo léo,
bằng lời ái ngữ kèm theo sự thương yêu. Cả hai vợ chồng đều cần tưới
hoa cho nhau. Bởi vì nếu người này có hạnh phúc thì người kia cũng sẽ
có hạnh phúc. Cả hai bên cùng ký với nhau một hiệp ước. Ta cũng ký hiệp
ước với sư chị, với sư anh, với sư em của ta. Ký hiệp ước với cha, với
mẹ ta và với người bạn hôn phối của ta. Đó có phải là lời nguyện mà
chúng ta đã nói trong buổi ban đầu hay không?
Cứ để khổ đau tràn lấp
Làm cho đen tối cuộc đời
Quen lối bỏ hình bắt bóng
Đuổi theo hạnh phúc xa vời
Tâm cứ bận về quá khứ
Hoặc lo rong ruổi tương lai
Quanh quẩn trong vòng buồn giận
Xem thường bảo vật trong tay
Dày đạp lên trên hạnh phúc
Tháng năm sầu khổ miệt mài.
Những
câu trên đây nói về sự tu tập. Ta sống như thế nào để có hạnh phúc
ngay trong giờ phút hiện tại. Đây là trái tim của sự thực tập chánh
niệm. Trong quá khứ ta cứ nghĩ là hạnh phúc không thể nào có mặt trong
hiện tại. Ta phải đi tìm hạnh phúc trong tương lai. Vì nghĩ rằng những
điều kiện của hạnh phúc bây giờ chưa có đủ nên ta mới chạy đi tìm chúng
trong tương lai. Hoặc là ta tiếc nuối quá khứ. Trong khi đó giáo lý
của Bụt dạy là hiện pháp lạc trú. Nếu chúng ta trở về giây phút hiện
tại để nhận diện những điều kiện hạnh phúc đang có mặt thì tự nhiên
hạnh phúc tới liền lập tức. Nếu ta không có khả năng an trú trong hiện
tại thì ta sẽ dày đạp lên những điều kiện của hạnh phúc đang có mặt. Ta
sẽ quanh quẩn trong vòng buồn giận, xem thường bảo vật trong tay. Bảo
vật tức là những điều kiện quí báu mà ta đang có, như tuổi trẻ, như hai
mắt còn sáng, đôi chân còn khỏe mạnh của mình. Tất cả những cái đó đều
có khả năng giúp ta có hạnh phúc. Trở về giây phút hiện tại, ta nhận
ra những yếu tố của hạnh phúc đang có mặt chung quanh ta. Nếu ta nhận
diện được những điều kiện hạnh phúc đang có mặt trong hiện tại thì ta
sẽ không dày đạp lên trên những điều kiện hạnh phúc đó và tháng năm sẽ
không sầu khổ miệt mài như trong quá khứ. Vì vậy những câu này là ánh
sáng chiếu soi cho ta để ta biết chấm dứt chuyện bỏ hình bắt bóng, kẹt
vào quá khứ, rong ruổi về tương lai, biết trở về với hiện tại để nhận
diện hạnh phúc đang có thật trong hiện tại.
Gìờ đây trầm xông bảo điện
Con nguyện sám hối đổi thay.
Sám
hối cũng có nghĩa là đổi thay, đổi thay cũng có nghĩa là sám hối. Tóm
lại trong đoạn S3 này, chúng ta được học là phải thực tập như thế nào,
phải làm như thế nào để không gây ra khổ đau nữa. Dùng ánh sáng chánh
niệm chiếu vào để thấy rõ ràng rằng là chúng ta cần phải thực tập tưới
tẩm những hạt giống tốt đẹp ở trong ta và trong người kia. Chúng ta cần
phải trở về để học sống trong giây phút hiện tại, nhận diện được những
điều kiện hạnh phúc đang có mặt để có thể sống theo phương pháp Bụt dạy
là hiện pháp lạc cư, sống hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại,
không cần phải có thêm một điều kiện nào nữa. Những điều kiện chúng ta
đang có là đủ để có hạnh phúc rồi.
Hai đoạn tiếp theo chúng
ta gọi là N1 và N2. N tức là nguyện. Sau khi đi qua phần thực tập sám,
ta đi tới phần nguyện. Trong hai đoạn này ta sẽ thấy rõ cái gì cần phải
làm, ta mở lời thề nguyện cam kết với ta, cam kết với Bụt, cam kết với
người kia, dầu người kia không có mặt ở đó, là ta sẽ làm theo lời
nguyện này. Phần thứ nhất có thể gọi là N1 và phần thứ hai gọi là N2.
Phần thứ nhất N1 chú trọng về năng lượng của tha lực và N2 chú trọng
tới năng lượng của tự lực. Nguyện tức là mong ước, là quyết tâm, là cầu
thỉnh. Trong phần N1 này chúng ta mong ước và cầu thỉnh Tam Bảo Bụt,
Pháp và Tăng yểm trợ để chúng ta có thể làm mới được một cách hữu hiệu.
Nguyện là một năng lượng rất lớn trong con người chúng ta, với năng
lượng đó chúng ta có thể làm được rất nhiều chuyện. Khi ta đã thấy được
con đường và quyết tâm đi trên con đường đó, trong người chúng ta sinh
ra rất nhiều năng lượng. Sám có công năng làm phát sinh năng lượng của
Nguyện trong ta. Thực tập sám mà năng lượng của nguyện tràn đầy trong
con người thì đó là thực tập thành công.
Đệ tử tâm thành quy ngưỡng
Hướng về chư Bụt mười phương
Cùng với các vị Bồ Tát
Thanh văn, Duyên giác, Thánh hiền
Chí thành cầu xin sám hối
Sự
thực tập sám hối của chúng ta được đặt trong khung cảnh của sự chứng
minh, hộ niệm và nâng đỡ của chư Bụt và chư Bồ tát. Các vị Bụt và các vị
Bồ tát ngày xưa cũng đã từng làm ra lầm lỡ và các vị cũng đã biết
ngưng lại, làm mới và phát nguyện đi trên con đường sáng ngời. Chúng ta
hôm nay cũng làm như thế. Đã từng gây ra những lầm lỡ, bây giờ chúng
ta quyết định chấm dứt những lầm lỡ đó và bắt đầu làm mới. Chúng ta
cũng làm như chư Bụt và chư Bồ tát ngày xưa đã từng làm, sự kiện đó đưa
chúng ta lại gần Bụt và Bồ tát, vì chúng ta là đương sự. Trong khung
cảnh sám hối, ta thiết lập được liên hệ truyền thông với tất cả vị Bụt
và Bồ tát trong ta và chung quanh ta. Năng lượng của ta là năng lượng
cá nhân nhưng đồng thời cũng là năng lượng của tập thể, hai loại năng
lượng nương vào nhau mà hình thành cũng giống như là cộng nghiệp và
biệt nghiệp. Một cá nhân đang thực tập trong Tăng thân có thể chế tác
năng lượng, nhưng Tăng thân cũng đang chế tác năng lượng. Nếu phối hợp
được năng lượng của cá nhân vào năng lượng của Tăng thân và thừa hưởng
được năng lượng ấy thì sự thành công sẽ rất lớn lao. Ta đóng góp vào
năng lượng của Tăng thân bằng sự thực tập cá nhân và ta thừa hưởng năng
lượng Tăng thân để cho năng lượng cá nhân được lớn. Tự lực luôn luôn
đi đôi với tha lực, trong tự lực có tha lực, trong tha lực có tự lực.
Vì vậy đoạn N1 tuy nói về tha lực nhưng cũng có phần tự lực và đoạn N2
tuy nói về tự lực nhưng cũng có phần tha lực; tự lực và tha lực ôm lấy
nhau.
Cùng với các vị Bồ tát
Thanh văn, Duyên giác, Thánh hiền
Chúng
ta đang hướng về chư Bụt mười phương. Các bậc giác ngộ bằng xương bằng
thịt đang có mặt. Bụt là một vị Bồ tát và Bồ tát là một vị Bụt hiện
tại hoặc tương lai. Bồ tát là những hữu tình, những chúng sanh, những
con người đang thực tập giác ngộ, đang đi tới quả vị giác ngộ. Giác hữu
tình hay hữu tình giác. Bồ tát là tiếng gọi tắt của Bồ Đề Tát Đỏa,
Bodhisattva, có hai nghĩa: giác hữu tình và hữu tình giác, một chúng
sanh đã giác ngộ và đang giúp người khác giác ngộ. Thanh văn tức là đoàn
thể của những người xuất gia được trực tiếp nghe Bụt giảng dạy và
hướng dẫn tu học. Duyên giác là các bậc tu hành không cần nghe giảng
dạy khai thị mà vẫn có thể tự mình quán chiếu nguyên lý duyên sinh mà
giác ngộ, có khi gọi là độc giác, tức là tự giác ngộ không cần có sự
khai thị giúp đỡ của người khác. Thánh hiền tức là những bậc giác ngộ
nằm trong phạm trù bốn đôi và tám bậc giải thoát. Đó là những người đã
và đang đi trên con đường tới quả thứ nhất hay là đã đạt được quả thứ
nhất, những người đang đi trên con đường đi tới quả thứ hai và những
người đã đạt tới quả thứ hai, những người đang đi trên con đường tới
quả thứ ba và những người đã đạt tới quả thứ ba, những người đang đi
trên con đường tới quả thứ tư và những người đã đạt tới quả thứ tư tức
là quả A La Hán. Đó gọi là bốn đôi, chia ra thành tám bậc thánh quả,
tất cả đều gọi là Thánh hiền. Quả gần nhất là Nhập Lưu hay là Dự Lưu,
tham dự vào trong dòng thánh. Khi thọ giới, bắt đầu thực tập niệm, định
và tuệ thì ta đã được tham dự vào dòng thánh quả, tuy chưa đạt được
quả thứ nhất nhưng đang đi trên con đường tới quả thứ nhất. Dự Lưu là
tham dự vào dòng sông giác ngộ đang tuôn chảy về biển giác ngộ. Dự lưu
cũng được gọi là Nhập lưu. Dự là tham dự. Nhập là đi vào. Chúng ta ít
nhất cũng là những người đã tham dự vào dòng giác ngộ và đang được gọi
là nhập lưu hướng. Khi đã hoàn toàn có mặt trong dòng sông đang xuôi
chảy về biển cả thì ta sẽ đạt tới quả Dự lưu. Ai cũng là dự lưu hướng
cả, nhưng có người đã đạt thành dự lưu quả, biết rõ ràng mình không bao
giờ còn đi lui trở lại. Ví dụ chúng ta đi ra Ga St Foy la Grande, để
lấy vé tàu TGV đi Paris. Chúng ta có nguyện là đi tới Paris, tuy chưa
leo lên tàu nhưng ta biết rằng ta sẽ leo lên tàu, tại vì ta đã có vé
rồi và có chủ định muốn đi Paris. Nếu có ai mời ở lại uống trà hoặc đi
chơi ta cũng không ở lại. Không ai kéo ta ra khỏi việc đi Paris được là
vì trong ta đã có nguyện và có năng lượng đi Paris. Khi đã leo lên tàu
TGV, ta biết xe lửa này sẽ tới Paris trong vòng ba giờ đồng hồ và khi
xe bắt đầu chuyển bánh thì ta đã bắt đầu nhập lưu nghĩa là sẽ không trở
lui nữa. Tham dự vào rồi thì sớm muộn gì cũng tới. Nhập lưu hướng thế
nào cũng đưa tới nhập lưu quả. Với quyết tâm đó chúng ta tham dự vào
dòng thánh. Nếu tu học tinh chuyên ta sẽ đạt tới cả bốn quả. Tăng thân
gồm những người thuộc về bốn đôi và tám bậc thánh quả, có những người
đã đạt tới quả A La Hán. Ở đây chữ Thánh hiền có nghĩa là những bậc nằm
trong bốn đôi và tám quả. Thanh văn, Duyên giác, Thánh hiền cũng là
những người đã từng làm ra lầm lỗi và đã từng sám hối, đã từng phát
nguyện và đã tu học thành công. Chúng ta giờ đây cũng đi theo bước chân
họ.
Chí thành cầu xin sám hối
Chí thành là với
tất cả sự thành thật và sự khẩn thiết ở mức độ cao nhất. Xin các vị
chứng minh cho con. Ngày hôm nay con nguyện làm mới, nguyện không làm
lặp lại những điều lỡ lầm ngày xưa, xin quý vị hãy chứng minh và yểm
trợ cho con. Chúng ta cầu tới năng lượng của Thánh hiền và của Tăng
thân để chúng ta có thể làm trọn việc này. Tăng thân của chúng ta là
một thực tại, không phải là một ý niệm mơ hồ, gồm có những người đã
từng làm lầm lỡ nhưng đã từng sám hối, phát nguyện và đang đi trên con
đường chuyển hóa và giác ngộ, Tăng thân là chuyện có thật. Nương vào
năng lượng này không phải là chuyện cầu xin mê tín. Ngồi trong Tăng thân
ta thấy vững chãi hơn là khi ngồi một mình. Tại sao vậy? Tại vì Tăng
thân phát ra năng lượng và khi ngồi trong Tăng thân ta tiếp nhận được
năng lượng đó. Chúng ta có Tăng thân địa phương và cũng có Tăng thân
mười phương. Trong Tăng thân địa phương có thể có những người đã đạt tới
thánh quả và trong Tăng thân mười phương chắc chắn có rất nhiều người
đạt tới thánh quả trong đó có quả vị La Hán, quả vị Bồ tát, quả vị Bụt.
Chúng ta phải biết lợi dụng sự có mặt của Tăng thân trong mười phương,
nương vào năng lượng của Tăng thân ấy để ta có thể đi mau trong việc
chuyển hóa và trị liệu. Cũng như khi ta có quyết tâm đi Paris, ta sẽ đi
Paris bằng cách này hay cách khác. Có những chiếc tàu chợ có thể dừng
tại nhiều ga nhưng có những chiếc tàu như TGV đưa chúng ta tới rất mau
chóng. Tăng thân cũng như vậy, trong Tăng thân có những vị Bụt và Bồ tát
có khả năng giúp đỡ ta tới được mục đích giác ngộ và giải thoát rất
mau. Bụt, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác và Thánh hiền là những thực tại
có thật trong cuộc đời, là những người đã từng đau khổ, đã từng sám hối
và phát nguyện. Vì vậy trong sự thực tập chúng ta phải biết lợi dụng
năng lượng của các vị ấy trong mười phương. Đó là ý nghĩa của phần N1
này; nương vào năng lượng của tha lực để thực tập. Trong ánh sáng của
năng lượng đó ta muốn được chứng minh là ta đã quyết tâm làm mới lại và
sẽ không lặp lại những lỗi lầm ngày xưa. Ta cần sự chứng minh của Tăng
thân và của chư Bụt, chư Bồ tát và chư Thánh hiền. Điều này rất là quan
trọng, vì tuy một mình ta, ta cũng có thể làm mới và có thể phát
nguyện được, nhưng khi ta phát nguyện và làm mới trong sự có mặt của
một Tăng thân lớn gồm có Bụt, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác và Thánh
hiền thì năng lượng sẽ tăng lên gấp bội. Cũng như khi chúng ta tiếp
nhận Năm Giới quý báu với sự có mặt và chứng minh của một Tăng thân
đông đảo thì năng lượng của Năm Giới phát hiện hùng hậu ở trong ta. Ở
ngoài đời mỗi khi làm đám cưới người ta mời bạn bè tới để chứng kiến sự
phối hợp. Sự có mặt của đông đảo bạn bè và gia đình hai bên là năng
lượng giúp cho sự cam kết của họ được vững mạnh. Ở đây cũng vậy, sự tu
hành, sự phát nguyện của ta cần được đặt dưới sự chứng minh và hỗ trợ
của chư Bụt, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác và Thánh hiền. Vì vậy sám
hối và phát nguyện trong khung cảnh của Tăng thân thì ta mới dễ thành
công. Tăng thân địa phương và Tăng thân mười phương có mặt cùng khắp ở
trong vũ trụ cho chúng ta.
Chí thành cầu xin sám hối
Bao nhiêu lầm lỡ triền miên
Xin lấy cam lồ tịnh thủy
Tưới lên dập tắt não phiền
Triền
là trói lại, buộc lại, miên là kéo dài. Trong quá khứ ta đã gây ra lầm
lỡ nhưng không phải một lần, mà nhiều lần. Vì ta đơn độc nên thất bại
này đã đi theo thất bại khác. Bây giờ nhờ có Tăng thân nên ta được nâng
đỡ, ta có thể chấm dứt được những lầm lỡ đó và chúng sẽ không còn kéo
dài. Chư Bụt, chư Bồ tát, La hán, Thanh văn và Duyên giác có sự thanh
tịnh, có lòng từ bi; đó là chất liệu cam lộ tịnh thủy ở trong lòng của
quý vị. Đó là đại trí và đại bi, đó là nước mầu nhiệm. Chúng ta mở trái
tim mình ra để xin chư Bụt, chư Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, Thánh
hiền rưới vài giọt nước cam lộ ấy vào trong trái tim đang nóng hổi bốc
cháy của ta. Trái tim ta tự nhiên dịu lại. Cam lồ tiếng Phạn là amrta,
có khả năng dập tắt phiền não, có khả năng làm cho cây khô héo trở thành
cây xanh tươi, làm cho một người chán chường trở nên người có năng
lượng, biến sự chết thành sự sống. Thiền đường trong đó chúng ta đang
ngồi tên là thiền đuờng Cam Lộ.
Xin lấy con thuyền chánh pháp
Đưa con vượt nẻo oan khiên
Chúng
ta thường chìm đắm trong biển khổ đau và sinh tử. Tăng thân và đoàn
thể các vị Bụt, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác và Thánh hiền là chiếc
thuyền giúp ta vượt biển khổ đau và sinh tử đó. Khi có thuyền, ta chắc
chắn sẽ không còn bị chìm đắm trở lại. Chừng nào còn nương vào Tăng
thân thì chừng đó ta còn có thuyền.Giờ phút ta rời Tăng thân là ta rời
bỏ chiếc thuyền, đánh mất năng lượng bảo hộ vững chắc và những nguy
hiểm chìm đắm có thể xảy ra. Vì vậy ai cũng phải quay về nương tựa Tăng
thân.
Tăng thân đang thực tập theo chánh pháp, vì vậy Tăng thân
cũng là con thuyền chánh pháp. Sự thực tập của ta mà yếu đi thì ta có
thể chìm đắm, nhưng con thuyền Tăng thân có đủ vững chãi để chuyên chở
ta. Trong quá khứ ta đã đi về những nẻo khổ đau oan ức, nhiều khi ta
không mở miệng mà diễn tả được những oan khổ ấy; bây giờ nhờ có con
thuyền Tăng thân mà ta ra khỏi vùng tủi nhục, oan ức và hệ lụy để đi
tới nơi hạnh phúc và tự do. Vì vậy tha lực trước hết được ví như cam lộ
tịnh thủy có khả năng dập tắt những não phiền trong tâm, rồi lại được
ví như một chiếc thuyền chở chúng ta ra khỏi nẻo hệ lụy và oan khiên.
Tất cả chúng ta ai cũng đều cần tới tha lực ấy.
Xin nguyện sống đời tỉnh thức
Học theo đạo lý chân truyền
Đây
là lời hứa của chúng ta. Ta đem tự lực này cầu tha lực kia. Cũng như
đài phát thanh đang phát ra những chương trình, và tín hiệu của đài phát
thanh có mặt khắp nơi trong không gian, nhưng ta phải có một máy thu
thanh mở đúng luồng sóng điện thì mới nhận được tín hiệu và nghe được
những buổi phát thanh. Ở đây cũng vậy, năng lượng của chư Bụt, chư Bồ
tát và chư Thánh hiền đang phát ra rất hùng hậu và chúng ta phải đem máy
thu thanh của chúng ta ra, tức là sự thực tập tự lực, thì mới có thể
tiếp thu được những nguồn năng lượng ấy. Do đó phần tự lực rất quan
trọng. Không có chút tự lực nào thì ta không thể nào hưởng được năng
lượng của Bụt và Bồ tát. Niệm Bụt, đi thiền hành, thực tập chánh niệm là
ta đặt ta vào trong vùng năng lượng của Bụt và Bồ tát để tiếp nhận
được năng lượng lớn của Bụt và Bồ tát. Bụt và Bồ tát không phải là
những thần linh trong tưởng tượng, đó là những người bằng xương bằng
thịt đã và đang sống quanh ta, những người đã từng đau khổ, đã từng tu
tập và đã thoát ra khỏi những khổ đau đó. Mỗi khi ta có niệm, định, tuệ
và hướng về nguồn năng lượng của các vị thì ta tiếp nhận được năng
lượng ấy. Nhờ tự lực ta tiếp nhận được tha lực, và tha lực ôm lấy tự
lực, do đó tha lực với tự lực nương vào nhau mà có mặt.
Xin nguyện sống đời tỉnh thức
Học theo đạo lý chân truyền
Vì
lâu nay sống thất niệm nên ta đã bỏ rơi rớt mất đi những gì quý báu đã
được tổ tiên trao truyền lại. Có một nền đạo lý đã được truyền lại cho
ta từ 2600 năm về trước, đạo lý đó là truyền thống của Bụt Thích Ca
Mâu Ni. Đạo lý ấy đã được nhiều thế hệ truyền lại một cách chân chính,
không bị bóp méo, không bị biến hình. Cốt tủy của giáo lý đó vẫn còn
nguyên vẹn, không bị hiểu lầm và xuyên tạc, nên gọi là chân truyền.
Thực tập nụ cười hơi thở
Sống đời chánh niệm tinh chuyên
Thực
tập hơi thở và nụ cười chánh niệm trong đời sống hàng ngày là chuyện
mà tất cả chúng ta đều có thể làm. Trong những tư thế đi, đứng, nằm,
ngồi và làm việc ta đều có thể đặt ta vào trong chánh niệm. Có niệm có
định thì thế nào cũng có tuệ. Nhờ vậy mà chúng ta dự được vào dòng
thánh, tiếp nhận được năng lượng của Bụt và Bồ tát. Tinh chuyên có
nghĩa là không lười biếng.
Bây giờ chúng ta đi sang đoạn chót
của bài Sám Nguyện, đoạn N2, là sự thực tập phát nguyện nương nhiều vào
tự lực. Chúng ta sẽ thấy rõ ràng những điều mà chúng ta phát nguyện,
làm theo và sống theo.
Đệ tử xin nguyền trở lại
Sống trong hiện tại nhiệm mầu
Đây
là lời phát nguyện muốn buông bỏ những luyến tiếc hay ray rứt về quá
khứ, những lo lắng và sợ hãi về tương lai. Có những lúc ta sống mà cứ
luyến tiếc về quá khứ, tự hỏi tại sao mặt trời trong quá khứ đẹp hơn bây
giờ, đời sống trong quá khứ đẹp hơn bây giờ. Đó là tâm trạng của những
người luyến tiếc quá khứ, không tin rằng sự sống trong giây phút hiện
tại cũng đẹp và cũng đáng sống. Thái độ sống đó không phải là thái độ
sống của người có chánh niệm. Lại có lúc ta nghĩ rằng chỉ có trong tương
lai ta mới hy vọng có hạnh phúc, ta chạy đi tìm hạnh phúc ở tương lai.
Đó cũng là một thái cực khác mà chúng ta cần phải buông bỏ. Sự thực
tập của chúng ta là hiện pháp lạc trú (drstadharma sukhavihara). Nguyên
tắc đầu tiên là phải trở lại sống trong giây phút hiện tại. Nếu ta trở
về được trong giây phút hiện tại, thân tâm nhất như, thì ta sẽ tiếp
xúc được với những mầu nhiệm của sự sống có mặt trong giờ phút hiện
tại. Mặt trời cũng còn sáng rỡ, bầu trời vẫn xanh, chim vẫn hót và
những phép lạ của sự sống vẫn còn có trong ta và chung quanh ta. Ta trở
về với hiện tại thì ta tiếp xúc được với sự sống. Ta phải làm chuyện
đó trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày. Đây không phải là một sự
hứa hẹn. Ngồi trong thiền đường, ta phải có an lạc hạnh phúc ngay
trong khi ngồi trong thiền đường. Khi ăn cơm ta phải có an lạc ngay
trong khi ăn cơm. Làm thức ăn sáng cho Đại chúng hay rửa bát, ta phải
có mặt trong những giây phút đó để cho giây phút đó trở thành niềm vui.
Bất cứ ngày nào cũng phải là một ngày hội, bất cứ giờ nào trong đời
sống hàng ngày cũng là để ca ngợi, để ăn mừng sự sống, thì hạnh phúc sẽ
có mặt liền lập tức. Tiếp xúc với sự sống, đó là phương pháp của chúng
ta. Chúng ta tiếp xúc với sự sống trong khi ngồi thiền, khi đi thiền
hành, rửa bát, nấu cơm, giặt rửa, trong khi thở, trong khi nói cười.
Mỗi giây phút ta đều tiếp xúc được với sự sống. Đây là điều ta có thể
làm được với điều kiện là ta buông bỏ được quá khứ, buông bỏ được những
nỗi sợ hãi lo lắng và hy cầu về tương lai. Chỉ có khi nào hiện tại khổ
quá ta mới hy cầu về tương lai mà thôi, nếu hiện tại có hạnh phúc thì
tại sao ta phải hy cầu tương lai? Bỏ hiện tại tức là bỏ sự sống, tại vì
sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại mà thôi.
Vườn tâm ươm hạt giống tốt
Vun trồng hiểu biết thương yêu
Tâm
ta là một khu vườn và trong khu vườn phì nhiêu đó mỗi ngày ta nên ươm
trồng hạt giống tốt, hạt giống của hiểu biết, của thương yêu, của tha
thứ. Chuyện này ta thực tập hàng ngày. Ta đọc sách là để vườn tâm của ta
được tiếp nhận những hạt giống tốt, còn nếu đọc sách mà để cho những
hạt giống của nghi ngờ, chán nản và buồn bã rơi vào trong tâm thức thì
đó là chúng ta đã làm không đúng. Nói chuyện cũng vậy, trong khi nghe
một người bạn nói chuyện mà những hạt giống của sự bực bội, chán nản và
nghi ngờ được gieo vào trong tâm thức là ta không làm đúng theo phương
pháp vườn tâm ươm hạt giống tốt. Nói chuyện thị phi của người khác rất
dễ gieo vào tâm thức ta những hạt giống xấu. Trong khi sử dụng máy vô
tuyến truyền hình, sách vở, nghe những câu chuyện hàng ngày, ta có thể
gieo vào tâm những hạt giống xấu hoặc những hạt giống tốt. Chúng ta
quyết tâm chỉ gieo những hạt giống tốt mà thôi. Hai hạt giống tốt quan
trọng nhất có trong ta là hạt giống hiểu biết và hạt giống thương yêu.
Chúng ta phải tưới tẩm chúng mỗi ngày.
Ta thực tập như một người
làm vườn, chịu trách nhiệm về khu vườn của mình. Ta nhất định không
gieo vào vườn tâm những hạt giống của sự nghi ngờ, buồn phiền và ganh
tị. Mỗi lời nói, mỗi hành động của người kia có thể gieo vào trong vườn
tâm của ta những hạt giống xấu. Chúng ta là những người cùng thực tập
với nhau, ta phải cam kết với nhau là sẽ chỉ gieo cho nhau những hạt
giống tốt, trước hết là hạt giống hiểu biết và thương yêu. Em sẽ giúp
chị vun trồng những hạt giống hiểu biết và thương yêu nơi chị, chị sẽ
giúp em vun trồng và tưới tẩm những hạt giống hiểu biết và thương yêu
nơi em. Hai chị em thực tập như vậy là hai chị em làm ra hạnh phúc cho
tất cả mọi người. Nguyên tắc thực tập là thế.
Xin nguyện học phép quán chiếu
Tập nhìn tập hiểu thật sâu
Thấy được tự tánh các pháp
Thoát ngoài sinh tử trần lao
Bốn
câu này nói về pháp nhìn sâu, là bản chất và cốt lõi của thiền tập.
Thiền tập gồm có hai phần, chỉ và quán; chỉ là dừng lại, quán là nhìn
sâu vào đối tượng để thấy được bản chất đối tượng thiền quán của mình.
Hai câu đầu trong phần N2 là hiện pháp lạc trú:
Đệ tử xin nguyền trở lại
Sống trong hiện tại nhiệm mầu
Đó
là lời phát nguyện, là một quyết tâm thực hiện, quyết tâm sống sâu sắc
trong từng giây phút của đời sống hàng ngày. Sống tỉnh thức, còn nếu
để cho quá khứ ám ảnh, tương lai lôi kéo thì chúng ta không đi theo
được lời phát nguyện và sự hành trì của chúng ta. Hai câu kế tiếp:
Vườn tâm ươm hạt giống tốt
Vun trồng hiểu biết thương yêu
Nói về phép tưới tẩm hạt giống tốt, đặc biệt là hạt giống thương yêu và hiểu biết. Bốn câu tiếp theo:
Xin nguyện học phép quán chiếu
Tập nhìn tập hiểu thật sâu
Thấy được tự tánh các pháp
Thoát ngoài sinh tử trần lao
Thuộc
về quán chiếu: tập trung tâm ý và nhìn sâu. Khi thực tập sống mỗi giờ
phút trong chánh niệm ta chế tác năng lượng của chỉ. Và khi dùng định
lực và ánh sáng chánh niệm chiếu vào đối tượng là ta thực tập nhìn sâu.
Đó là quán. Sự thực tập chánh niệm giúp cho chúng ta sống từng giây
phút của đời sống hàng ngày một cách sâu sắc. Tưới cây, làm vườn, ăn
cơm, giặt áo, lau nhà đều phải làm trong chánh niệm để chúng ta có thể
sống được sâu sắc những giây phút trong đời sống hàng ngày. Thực tập
như vậy thì niệm lực và định lực của ta sẽ mạnh. Khi niệm và định mạnh
rồi thì chúng ta có thể nhìn sâu để thấy rõ được tự tánh của các pháp.
Tự tánh của các pháp là vô thường, vô ngã và niết bàn. Nhìn vào bất cứ
hiện tượng nào như là cơ thể của ta hay là cái buồn, cái giận, bông hoa
hay đám mây mà có niệm và định thì ta có thể thấy được tự tánh của các
pháp. Trước hết là tự tánh vô thường, rồi tới tự tánh vô ngã và sau
hết là tự tánh niết bàn. Niết bàn tức là tự tánh không sinh không diệt.
Chỉ khi nào thấu hiểu được, tiếp xúc được với tự tánh không sinh không
diệt thì ta mới đạt tới giải thoát hoàn toàn. Bốn câu này nói rõ
chương trình tu học của ta. Đó là quán chiếu. Chúng ta quán chiếu không
phải chỉ trong giờ ngồi thiền. Chúng ta thực tập quán chiếu khi ta nấu
cơm, rửa bát, giặt áo hoặc tưới cây. Tại vì chính trong những hành
động đó mà chúng ta thực tập niệm và định. Có niệm và có định thì thế
nào cũng có tuệ nghĩa là có kết quả của sự quán chiếu. Tuệ là hoa trái
của quán chiếu. Tuệ giác là cái thấy sâu sắc về tự tánh của các pháp.
Đó là lý do căn bản để chúng ta sống cuộc đời của người tu. Thấy được
tự tánh các pháp rồi thì mới thoát ngoài sinh tử trần lao. Trần là bụi
bặm. Lao là sự khổ nhục, sự giam giữ làm ta mất hết năng lượng, gây ra
mệt mỏi và ràng buộc. Giam hãm trong cuộc đời đầy bụi bặm gọi là trần
lao. Ta trôi lăn trong sinh tử. Mục đích của sự tu học là thoát ngoài
vòng sinh tử, vòng ràng buộc, đạt tới hiểu biết lớn và thương yêu lớn.
Thấy được tự tánh các pháp rồi thì tự nhiên ta sẽ thoát ra khỏi vòng
sinh tử và trần lao.
Nguyện học nói lời ái ngữ
Thương yêu chăm sóc sớm chiều
Đem nguồn vui tới mọi nẻo
Giúp người vơi nỗi sầu đau.
Bốn
câu kế tiếp này nói tới kết quả của sự thực tập của ta đối với những
người khác, nói tới chí hướng độ người và gây hạnh phúc cho người. Xin
nguyện nói lời ái ngữ. Ai cũng có thể nói lời ái ngữ được, nói lời ái
ngữ thì tự nhiên đời sống tươi đẹp lên liền lập tức, giống như một phép
lạ vậy. Trong ca dao Việt Nam có câu:
Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Ta
không cần mất công sức gì nhiều, chỉ cần học nghệ thuật nói lời ái ngữ
là đã có thể tạo ra không biết bao nhiêu hạnh phúc ở trong gia đình,
trong xã hội hoặc trong đoàn thể tu học của mình. Ta phải viết vào trong
nhật ký, phải phát nguyện là mỗi ngày sẽ nói lời ái ngữ bao nhiêu lần.
Nếu liên hệ giữa ta với người kia không được tốt lắm thì nhất định ta
phải tập nói ái ngữ với người ấy nhiều hơn cho đến khi mối liên hệ trở
nên tốt đẹp. Chuyện này ai cũng có khả năng làm. Thương yêu người khác
không phải là chỉ nói ở ngoài miệng. Thương yêu còn phải được biểu lộ
trong sự chăm sóc hằng ngày nữa. Ta thương anh, thương em, thương chị ta
thì phải tỏ lộ được sự thương yêu và sự chăm sóc ấy. Ta phải quán
chiếu để hiểu những khổ đau của người kia và nếu ta hiểu được những khổ
đau của người ấy rồi thì ta sẽ không còn vô tình hoặc dại dột mà cứ
chạm vào những hạt giống khổ đau của người ấy. Tránh không động chạm
vào những khổ đau, trái lại ta phải giúp người ấy tiếp xúc với những
hạt giống hạnh phúc có mặt trong chiều sâu tâm thức của người ấy.
Đem nguồn vui tới mọi nẻo
Giúp người vơi nỗi sầu đau.
Đây
là chuyện hiện tại, không phải là chuyện tương lai. Ta đang thực tập
trong hiện tại. Nhiều khi ta không cần phải đi đâu xa vì những người khổ
đau đã tìm tới với chúng ta. Khi có một người khổ đau tìm tới thì ta
lại có một cơ hội để giúp người bớt khổ. Đừng nghĩ rằng những người khổ
toàn là những người dễ thương, nói rất dễ thương và làm rất dễ thương.
Bởi vì nếu họ đã biết nói dễ thương và làm dễ thương thì họ đâu đã bị
khổ đau đến nước ấy. Tại vì họ đã nói không dễ thương và làm không dễ
thương cho nên họ mới có nhiều khổ đau. Nhiều khổ đau cho nên họ mới tìm
tới chúng ta. Vì vậy chúng ta cần giúp họ. Những người nói dễ thương
và làm dễ thương đâu cần ta giúp, tại vì thân, khẩu và ý của họ đều tốt
và cuộc đời của họ đã có hạnh phúc rồi. Vì vậy khi tới với ta mà người
ấy khó chịu, nói năng không dễ thương, hành xử không dễ thương thì ta
biết đó chính là cơ hội để ta giúp người vậy. Có như thế ta mới đóng
được vai trò của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, đem nguồn vui tới mọi nẻo,
không phân biệt. Ta tu học, ta có niềm vui và muốn đem chia xẻ với mọi
người. Tu như thế nào để ta trở thành một hồ nước trong. Ta gặp sư anh
thì sư anh vui, gặp sư chị thì sư chị vui, gặp sư em thì sư em vui, tại
vì ta là hồ nước trong và nước trong hồ của ta được phân phát cho tất
cả những con rạch xung quanh. Không nên nói rằng tôi chỉ để dành nước
trong cho con rạch này thôi, còn các con rạch kia dễ ghét quá tôi không
muốn cho nước trong của tôi chảy về phía đó. Phải phân phát đồng đều
và làm sao để nước trong có thể chảy vào được hết tất cả các con rạch.
Đền đáp công ơn cha mẹ
Ơn thầy, nghĩa bạn dày sâu.
Hai
câu này nói về sự thực tập báo ân. Chúng ta thực tập báo ân ngay trong
hiện tại. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở, mỗi nụ cười của ta đều là một
hình thức đền đáp lại ơn thầy, ơn cha mẹ, ơn bè bạn. Chúng ta có bốn ơn
là ơn cha mẹ, ơn thầy, ơn bạn và ơn chúng sanh. Ta đừng nghĩ rằng sau
khi tu học thành tài rồi ta mới đền đáp được ơn đức ấy. Không! Ta có
thể đền ơn ấy ngay trong đời sống hàng ngày bằng sự thực tập của ta. Ta
tu hành cho vững chãi thì tự nhiên gia đình của ta vững ra và có hạnh
phúc liền lập tức. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở của ta là một sự đầu tư
vào hạnh phúc của bốn giới đó. Giới thầy, giới cha mẹ, giới bạn hữu và
giới chúng sanh. Thành ra ta là một người đầy ân tình, sống có ân có
tình và chỉ cần thực tập cho vững chãi và có hạnh phúc thì tự nhiên ta
đền đáp được công ơn của cha mẹ, của thầy, của bạn và của chúng sanh
trong mỗi giây phút của đời sống.
Mười bốn câu trên biểu lộ công
trình tu tập gọi là tự lực. Trong chúng ta không ai mà không làm được
những điều này. Hễ muốn là làm được và làm với sự yểm trợ của những
người cùng tu với ta, rất cụ thể. Ta biết bài sám nguyện này không phải
là một bài cầu xin, không phải là sự thực tập xin tội hay rửa tội mà
là một bài quán chiếu để ta có cơ hội nhìn rõ tình trạng và thấy rõ
được con đường đi của mình. Con đường của chư Bụt, Bồ tát và các vị
Thánh hiền đã đi. Sau khi đọc xong bài này năng lượng trong ta tăng
tiến rất nhiều. Và ta sẽ đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng và tiếp xử thế
nào để có thể thực hiện được chương trình đó.
Tín thành tâm hương một nén
Đài sen con nguyện hồi đầu
Tâm
hương là hương giới, định và tuệ. Hương mà chúng ta dâng lên phải là
hương đốt từ trái tim mới được. Hương đốt từ trái tim không phải hương
trầm, hương chiên đàn mà ta mua ở ngoài chợ. Tâm hương này tức là sự
thực tập hàng ngày của chúng ta. Trong đời sống hàng ngày mà có giới, có
định và có tuệ thì chúng ta mới có tâm hương để dâng lên chư Bụt và
chư vị Bồ Tát. Tâm hương đó là nén tâm hương tín thành. Tín là niềm tin
rất vững chãi. Thành là sự thành khẩn của mình. Chúng ta tin tưởng một
cách vững chãi và thành thật là con đường mà ta đã chọn là con đường
sáng và ta dâng lên Tam Bảo nén tâm hương giới, định và tuệ của ta.
Dâng lên bằng tất cả niềm tin và sự chí thành. Ta không tin Bụt như một
vị thần linh ban phúc và trừ tai họa, mà tin Bụt là thầy của mình.
Chúng ta tin pháp như là con đường đưa tới hạnh phúc. Tin chắc rằng nếu
làm được những điều đã nguyện thì hạnh phúc sẽ có được ngay hôm nay và
cũng sẽ có trong ngày mai. Đó gọi là tín, chánh tín, không phải là mê
tín. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng và thật lòng nghĩ như vậy. Với niềm
tin vững chãi và lòng chí thành, chúng ta hướng về đài sen, tức là về
hướng Bụt đang ngự tọa, cũng chính là nơi trái tim của mình. Chúng ta
muốn quay về đài sen chứ không muốn trở lại hầm lửa. Hầm lửa là địa
ngục còn đài sen là nơi tươi mát. Hồi đầu tức là quay đầu trở lại.
Nguyện đức từ bi che chở
Trên con đường đạo nhiệm mầu.
Nguyện xin chuyên cần tu tập
Vuông tròn đạo quả về sau.
Chúng
ta có niềm tin nơi con đường, đang đi trên con đường và xin đức Thế
Tôn che chở cho chúng ta. Đó là con đường đạo rất nhiệm mầu. Chúng ta
hứa sẽ tu tập một cách tinh chuyên, để cho hoa trái của sự giác ngộ và
hạnh phúc được thực hiện một cách viên mãn, tròn đầy. Chữ Hán là viên
thành, viên thành đạo quả. Viên là tròn. Thành tựu một cách trọn vẹn
gọi là viên. Thành tức là thực hiện. Ở đây chúng ta không dùng chữ
viên, mà dùng chữ vuông. Vuông tròn cũng là một hình ảnh của sự toàn
mỹ. Vuông thì thật là vuông, tròn thì thật là tròn. Đạo quả tức là hoa
trái của sự thực tập. Chúng ta tin rằng hoa trái của sự thực tập sẽ
tròn đầy trong tương lai. Đây là niềm tin vững chắc của chúng ta. Tin
vững chắc là vì những điều ta kể ra đó toàn những điều ta có thể làm
được.
Tiếp theo bài này là bài chú Diệt Tội. Thất Phật Diệt Tội
Chơn Ngôn, Chân Ngôn Diệt Tội Của Bảy Đức Bụt. Bảy đức Thế Tôn đem năng
lượng vĩ đại của các vị để ôm lấy ta và giúp ta chuyển hóa. Sau đó tới
bài kệ sám hối:
Con đã gây ra bao lầm lỡ
Khi nói khi làm, khi tư duy
Đam mê, hờn giận và ngu si
Nay con cúi đầu xin sám hối
Một lòng con cầu Bụt chứng tri
Bắt đầu hôm nay nguyền làm mới
Nguyền sống đêm ngày trong chánh niệm
Nguyền không lặp lại lỗi lầm xưa.
Bài
kệ này tóm tắt lại tất cả những điều ta đã quán chiếu trong bài sám
nguyện. Ta công nhận một sự thật. Sự thật về những gì ta đã gây ra khi
nói, khi làm, khi tư duy. Đó là ba nghiệp: thân, khẩu và ý. Sự thật về
đam mê, hờn giận và ngu si của chính ta. Ta nhận diện đó là động lực
chính gây ra những lầm lỡ. Ta muốn chấm dứt, muốn thật sự làm mới. Ta
cầu Bụt chứng tri cho ta. Chứng và biết gọi là chứng tri, Bụt làm chứng
cho ta và biết cho ta. Cũng vì vậy mà ta đã tới trước bàn thờ Bụt,
trước tăng thân để sám hối. Một lòng là nhất tâm, tức là thân tâm được
thu nhiếp vào trong định. Ta nguyện làm mới, nhất định làm mới. Chữ
nguyền đồng nghĩa với chữ nguyện. Chữ nguyện là tiếng Hán Việt, chữ
nguyền là tiếng Việt. Sự làm mới đó chúng ta bắt đầu ngay hôm nay, ngay
từ giờ phút này và liên tục để không lặp lại lỗi lầm xưa. Đó là trái
tim của sự thực tập, đó là sự cam kết. Chúng ta làm được sự cam kết này
là nhờ có tăng thân giúp đỡ. Ngày xưa ta đã từng cam kết rồi nhưng ta
đã không làm được tại vì không có tăng thân giúp đỡ, ngày hôm nay thì
khác vì ta đang có Tăng thân cùng thực tập và nâng đỡ cho ta.
Nam mô Bồ Tát Cầu Sám Hối.
Hành động làm mới đó là bản chất của một vị Bồ Tát, là tên của một vị Bồ Tát. Chúng ta chính là vị Bồ Tát đó.
Bao nhiêu lầm lỗi cũng do tâm
Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm
Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm
Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong.
Đây
là tuệ giác rất cao của đạo Bụt về vấn đề làm mới. Tất cả những lầm
lỗi đều do tâm mà ra. Tâm không chánh niệm gây ra đam mê, hờn giận,
ganh ghét, ngu si v.v... Giáo lý này cho ta thấy rõ rằng tất cả những
lầm lỗi và những vọng tưởng đều xuất phát từ tâm ta. Nếu đã do tâm mà
sinh ra thì những lỗi lầm đó cũng có thể do tâm mà chuyển hóa, cũng như
vấp ngã ở đâu thì ta chống ở chỗ đó mà đứng dậy. Những lỗi lầm nào do
tâm gây ra thì sẽ từ tâm mà chuyển hóa. “Tội tùng tâm khởi tương tâm
sám”. Tội tức là những lầm lỗi. Tội từ tâm sinh ra thì đem tâm mà làm
mới. Làm mới trong đạo Bụt không giống như làm mới trong những truyền
thống khác. Trong các truyền thống khác có thể là cầu một đấng thần
linh tha tội hoặc rửa tội cho ta, nhưng ở đây ta không cầu một đấng
thần linh nào làm chuyện đó. Ta biết rằng tội lỗi từ tâm mà ra, nếu ta
trở về để chuyển hóa nội tâm thì tự nhiên tội lỗi sẽ tiêu biến. Ta cầu
Bụt, cầu Bồ Tát và Tăng thân có mặt là để chứng tri cho ta, để cho sự
thực tập trở nên vững chãi. Chứng tri và yểm trợ cho ta, nhưng do chính
tâm của ta mới có thể chuyển hóa được tội. Tội tùng tâm khởi tương tâm
sám. Tương tức là đem ra. Đây là một giáo lý rất mầu nhiệm. Khi tâm đã
chuyển hóa rồi thì tội lỗi tan biến hết như khi mặt trời chiếu trên
tuyết thì tuyết sẽ tan. Ta sẽ không còn mặc cảm tội lỗi nữa. Có những
người ăn năn, hối hận suốt đời, họ không có niềm vui là vì họ không
biết rằng muốn làm cho những lầm lỗi đó tiêu tan đi thì phải chuyển hóa
tâm mình. Chuyển hóa tâm, làm mới tâm thì lầm lỗi sẽ tan. Điều này các
nhà tâm lý trị liệu cần phải học để có thể giúp cho các bệnh nhân. Làm
mới sẽ phát hiện một nguồn năng lượng rất lớn trong con người của ta
và chính nguồn năng lượng đó sẽ làm tiêu tan những mặc cảm tội lỗi của
quá khứ. Ta sẽ có rất nhiều niềm vui tại vì bắt đầu từ ngày hôm nay trở
đi ta tạo được niềm vui cho không biết bao nhiêu người. Người đã bị ta
làm khổ sẽ mỉm cười ở trong ta, sẽ tha thứ cho ta. Những dấu vết lỗi
lầm không còn nữa và lòng ta nhẹ nhõm. Làm mới xong thì tâm ta nhẹ
nhàng. Có những người làm mới một buổi, có những người làm mới luôn bảy
ngày, có người làm mới luôn 21 ngày và sau thời gian thực tập họ trở
thành một con người mới có nhiều tự do. Tự do như mây trên trời. Hình
ảnh ở đây rất đẹp. “Bạch vân tự khứ lai”: Ngàn xưa mây bạc vẫn thong
dong. Một đám mây bay thảnh thơi trên không gian, tự mình đi hay tới,
thong dong không ai xô đẩy hoặc kềm thúc. Đó là trạng thái của tâm ta
sau khi đã làm mới.
Nguồn: Làng Mai