Hiện
nay, pháp thiền của Ngài - Thiền Minh sát tuệ - đã lan tỏa mạnh mẽ ở
nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm A Still Forest Pool (Tâm Tĩnh Lặng),
do hai môn đệ người Mỹ của Ngài là Jack Kornfield và Paul Breiter đã kết
tập từ những bài giảng của Ngài và được xuất bản bằng tiếng Anh lần đầu
tiên vào năm 1985.
Mặc
dù tác phẩm đã ra đời trên hai mươi năm, nhưng trí tuệ chân thực vẫn
luôn tồn tại mãi với thời gian. Bài giảng sau đây, người dịch trích từ
tác phẩm trên và xin giới thiệu cùng bạn đọc.
Chân dung ngài Achaan Chah
Chúng
ta hãy bàn đến sự khác nhau giữa việc nghiên cứu giáo pháp và cách ứng
dụng giáo pháp trong thực hành. Nghiên cứu giáo pháp đúng nghĩa chỉ có
một mục đích duy nhất: nhận ra bản chất không thỏa mãn trong mỗi cuộc
đời của chúng ta, từ đó vươn tới con đường hạnh phúc và sự bình yên cho
chính mình và cho tất cả mọi loài chúng sinh. Mọi đau khổ trong ta đều
có nguyên nhân hay sự khởi nguồn của nó. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu
về tiến trình này.
Khi
tâm chúng ta tĩnh lặng, cũng có nghĩa là tâm đang ở trong trạng thái
bình thường; khi tâm loạn động, tưởng sẽ hình thành. Hạnh phúc và đau
khổ trong chúng ta là sản phẩm của cái tâm loạn động, từ nghĩ tưởng mà
có. Tâm chúng ta nghĩ tưởng không ngừng nghỉ, nó tham cầu được đi đây
đó. Nếu bạn không hiểu rõ tiến trình vận động này của tâm, bạn sẽ bị
cuốn theo tưởng và bị nó thao túng.
Cho nên
Đức Phật đã dạy chúng ta cần phải tập trung xem xét mọi diễn biến của
tâm, theo dõi mọi sự vận động và nhìn thấy những tính chất cơ bản của
nó: luôn thay đổi, không toại nguyện và rỗng không. Để hiểu được tâm,
bạn cần phải tập trung và luôn tỉnh thức để theo dõi mọi trạng thái của
nó. Qua đó, bạn mới có thể nhận ra tiến trình duyên khởi của tâm. Đức
Phật đã từng dạy rằng, chính vì không sáng suốt (vô minh) nên đã phát
sinh ra đủ mọi hiện tượng của cuộc đời, bao gồm những động lực bên trong
chúng ta. Khi động lực tác động lên ý thức, ý thức sẽ quay sang tác
động vào tâm và thân. Đây chính là quá trình duyên khởi.
Bước
đầu nghiên cứu về Phật pháp, chúng ta có thể cảm nhận được tiến trình
này trong hệ thống giáo lý truyền thống. Nhưng khi tiến trình đó thực sự
xảy ra trong ta, đặc biệt đối với những người chỉ nghiên cứu suông qua
sách vở, thì họ sẽ không thể bắt kịp tiến trình diễn biến của nó. Sự
việc trên cũng giống như quả chín rụng từ trên cây vậy, mỗi mắt xích
trong sự liên kết của tiến trình khi quả chín rụng xảy ra quá nhanh, đến
nỗi người ta không thể nói được quả chín kia đã rụng từ nhánh cây nào.
Cũng như thế, khi người ta cảm nhận về khoái lạc trong lúc tâm duyên
theo cảnh, người ta sẽ bị cuốn hút trong cảm quan và không thể nhận biết
nó đã xảy ra như thế nào.
Tất nhiên, việc
tóm tắt có hệ thống của tiến trình này ở kinh sách là không sai, nhưng
để trải nghiệm nó, người ta phải vượt lên trên sự nghiên cứu từ kinh
điển. Khi nghiên cứu, kinh sách không nói cho chúng ta biết đây là sự
sinh khởi của vô minh, đây là cách người ta cảm nhận, đây là một dạng
đặc biệt của ý thức, và đây là sự cảm nhận về những yếu tố khác nhau ở
trong thân và tâm. Khi bạn leo lên cây và té xuống đất, bạn không thể
diễn tả chi tiết bạn đã rơi xuống đất bao nhiêu mét, bao nhiêu inch; cho
đến khi thân bạn chạm vào đất, bạn mới cảm nhận sự đau đớn. Không có
sách vở nào diễn tả cho chúng ta điều đó cả.
Pháp
được viết trong kinh điển dùng để nghiên cứu là những điều đã được chắt
lọc và có hệ thống, nhưng trong thực tế lại không đi theo một lộ trình
đơn lẻ nào cả. Chính vì thế, chúng ta cần phải kiểm chứng những gì nảy
sinh dựa trên khả năng nhận biết, trí tuệ sâu sắc của chúng ta. Khi trí
tuệ vốn có của ta, khả năng nhận biết, cảm nhận biết được bản chất thực
của bản tâm, khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy rõ rằng tâm không phải là tự
ngã của ta. Nó không thuộc về chúng ta, không phải là Tôi, cũng không
phải là cái Của Tôi, tất cả mọi ý niệm đều rơi rụng.
Như
đối với việc chúng ta tìm hiểu các tên gọi về tất cả những yếu tố của
tâm và thức, Đức Phật cũng đã khuyến cáo chúng ta không nên mắc kẹt vào
nó. Ngài chỉ muốn chúng ta nhận ra rằng tất cả mọi sự trên cuộc đời này
đều là vô thường, không toại nguyện và vô ngã. Và Ngài dạy chúng ta hãy
buông bỏ tất cả. Khi ý niệm móng khởi trong tâm, chúng ta cần phải tỉnh
thức để nhận ra và biết rõ chúng. Chỉ khi nào chúng ta thực hiện được
như thế thì tâm chúng ta mới thực sự thuần thục.
Khi
tâm khởi niệm, thì những hình thái khác nhau của tâm, những cấu trúc tư
tưởng, và những phản ứng trong ta cũng bắt đầu duyên theo đó mà sinh
khởi, hình thành, và nó khởi lên tương tục. Hãy để cho những ý niệm ấy
tự nhiên, dù đấy là tốt hay xấu. Đức Phật chỉ khuyên chúng ta thực hiện
một điều đơn giản là: “Hãy buông bỏ, và đừng bị cuốn theo nó.” Nhưng vấn
đề quan trọng ở đây là chúng ta phải biết quán xét tâm và biết cách
phải từ bỏ nó như thế nào.
Nếu quán sát mọi
yếu tố hình thành của tâm, chúng ta sẽ thấy rằng nó hành xử theo một
trật tự hoàn toàn tự nhiên: mọi yếu tố của tâm là như vậy, tưởng sinh ra
và mất đi là như thế... Trong quá trình thực tập, chúng ta có thể
nghiệm ra một bài học là, khi chúng ta có Chánh tri kiến thì Chánh tư
duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng sẽ tự động đi theo. Và những
yếu tố tâm lý sinh khởi từ đấy cũng được nhận biết rõ ràng. Nếu chúng ta
có sự hiểu biết đúng đắn thì tư tưởng và tất cả những yếu tố khác cũng
sẽ đúng theo, giống như ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn. Khi chúng ta quán
xét với sự tỉnh thức, thì Chánh tri kiến sẽ được lớn mạnh.
Khi
quán xét tất cả những gì mà chúng ta gọi là tâm, chúng ta chỉ thấy sự
kết hợp của các yếu tố tâm lý chứ không có gì là ngã. Khi chúng ta không
còn thấy có ngã thì chúng ta sẽ bám víu vào đâu? Lúc đó, mọi cảm xúc,
ký ức và năm uẩn cấu thành của tâm và thân đều rơi rụng như những chiếc
lá lìa cành trước gió. Chúng ta có thể khám phá được điều này thông qua
con đường của thiền định.
Thiền định giống
như một miếng gỗ đơn độc. Sự sáng suốt và sức quán xét thuộc về một đầu
của miếng gỗ; sự tập trung và trạng thái tĩnh lặng nằm thuộc về đầu bên
kia. Nếu bạn nhấc toàn bộ miếng gỗ lên thì cả hai đầu cùng lên một lúc.
Như thế, cái nào là sự tập trung và cái nào là sự sáng suốt? Cũng chỉ ở
một cái tâm này mà thôi.
Bạn không thể tách
rời sự tập trung hoặc trạng thái tĩnh lặng của tâm ra khỏi sự sáng suốt.
Tất cả những trạng thái ấy ví như một quả xoài, lúc đầu, nó xanh và
chua, sau đó nó chín và ngọt, nhưng không phải là hai quả xoài khác
nhau. Từ một mà biến thành dạng thể khác; không còn là quả xoài như lúc
ban đầu nữa, nhưng chúng ta cũng không thể nói là hai. Mọi từ ngữ chỉ là
những ước lệ dùng để biểu đạt. Chúng ta không nên chấp vào ngôn từ.
Nguồn gốc duy nhất của tri kiến đích thực ấy là để thấy được những gì
nằm bên trong bản thân chúng ta. Chỉ có sự học tập này mới có thể đi đến
chỗ rốt ráo, và đây mới là sự học tập về giá trị đích thực.
Sự
tĩnh lặng của tâm có được trong giai đoạn đầu của sự tập trung là nhờ
chúng ta chú tâm vào một điểm. Nhưng khi sự tĩnh lặng đó không còn nữa,
chúng ta sẽ cảm thấy đau khổ vì chúng ta đã chấp vào nó. Theo Đức Phật,
đạt được sự tĩnh lặng chưa phải là cái đích cuối cùng. Ở đó lòng mong
cầu và đau khổ vẫn còn hiện hữu.
Cho nên, khi
Đức Phật đạt được trạng thái định, sự tĩnh lặng ấy rồi, Ngài đã quán
chiếu sâu xa hơn nữa. Và Ngài tìm cho ra bản chất thực sự của vấn đề,
cho đến khi nào Ngài không còn bám víu vào sự tĩnh lặng ấy nữa. Ngài
nhận thấy rằng, sự tĩnh lặng chỉ là một thực tại tương đối, là một trong
vô số biến tướng của tâm, chỉ là một giai đoạn trên lộ trình tu tập
thiền định. Nếu bạn dính mắc vào đó, bạn vẫn còn kẹt trong sinh và tử,
vì bạn còn nhận thấy có niềm vui trong tĩnh lặng. Và khi tĩnh lặng cuốn
gói ra đi, bạn bắt đầu cảm thấy đau khổ, như thế bạn càng bị ràng buộc
vào nó.
Đức Phật không ngừng quán xét vào sự
sinh diệt khi tâm có được sự tĩnh lặng để biết nó sinh khởi từ đâu. Khi
Ngài chưa tìm ra bản chất của sự thật, Ngài càng nỗ lực tập trung sâu
hơn nữa trong trạng thái của tĩnh lặng, để quán sát mọi yếu tố tâm lý
khi chúng khởi lên. Ngài duy trì nỗ lực quán sâu vào nó, dù cho tâm có
tĩnh lặng hay không, và cuối cùng, Ngài đã nhận ra rằng mọi sự vật, kể
cả năm uẩn của thân và tâm đều như một viên sắt nóng đỏ. Khi viên sắt
nóng kia đỏ rực lên, làm sao bạn có thể tìm ra một chỗ mát mẻ để chạm
tay vào đó?
Năm uẩn
trong ta cũng giống như thế - bạn sẽ không biết cái nào trong năm uẩn đã
gây ra đau khổ trong chúng ta. Cho nên, bạn không nên chấp vào bất cứ
điều gì cả, dù đó là sự tĩnh lặng hay trạng thái của định; bạn không thể
nói rằng sự tĩnh lặng hay tâm an định là bạn hay là của bạn. Làm như
thế là bạn gây thêm sự đau khổ cho chính bản ngã của bạn mà thôi, khi đó
tâm bạn lại rơi vào thế giới của mê chấp và ảo tưởng, đấy là một viên
sắt nóng đỏ khác.
Trong sự tu tập, chúng ta
thường có khuynh hướng hay chấp thủ, xem mọi trải nghiệm là tôi và cái
của tôi. Nếu bạn nghĩ: “Tôi tĩnh lặng, tôi lo lắng, bất an, tôi tốt, tôi
xấu, tôi hạnh phúc, tôi không hạnh phúc”, chính sự chấp trước này là
cội nguồn của sinh tử. Khi niềm vui không còn, đau khổ đến; khi đau khổ
không còn, niềm vui lại đến. Bạn thấy mình hết bị đá sang bên này rồi
lại bị đá sang bên kia, hết địa ngục rồi lại đến thiên đường. Đức Phật
đã nhìn thấy rõ trạng thái này của tâm, bản chất nó luôn là như thế, và
Ngài đã nghiệm ra rằng, khi tâm còn trong sinh diệt thì không thể đi đến
sự giải thoát hoàn toàn rốt ráo, nên Ngài tiếp tục quán xét mọi yếu tố
trải nghiệm của tâm và tập trung quán xét vào bản chất đích thực của
nó.
Chính vì mê chấp
nên chúng ta còn thấy có sinh, có diệt. Trở nên vui vẻ chính là sinh,
trở nên chán nản chính là tử. Khi chết đi, chúng ta lại sinh ra, và khi
đã sinh ra, chúng ta lại chết. Sinh tử nối đuôi nhau diễn ra liên tục,
như một bánh xe quay bất tận.
Đức Phật đã
nhận thấy rằng, mọi biến hiện của tâm đều là hạn cuộc, và chỉ tạm thời,
và bản chất của nó là trống rỗng (vô ngã). Khi tâm lắng xuống là lúc tâm
buông xả tất cả và khổ đau cũng kết thúc. Bạn cần phải nhận ra sự thật
đó. Khi bạn nhìn thấy bản chất của sự thật như là chính nó, bạn sẽ nhận
thấy được rằng, mọi yếu tố của tâm đều là giả dối. Chúng ta nên ghi nhớ
lời dạy của Phật rằng, tâm này nó không có gì cả, nó không sinh ra và
cũng không mất đi với một ai cả. Nó hoàn toàn tự do, tỏa sáng và vô cùng
rực rỡ, không cái gì có thể nắm bắt được nó. Tâm nắm bắt được là tâm
vẫn còn trong lầm lạc, là ảo tưởng xuất phát từ những biểu hiện hạn
cuộc, những hiểu biết sai lầm về tự ngã.
Cho
nên Đức Phật dạy chúng ta hãy nhìn vào tâm của mình. Cái gì hiện hữu
lúc ban đầu? Thực chất là không có gì cả. Sự trống rỗng này (tâm không)
không có sinh ra và cũng không mất đi cùng với những hiện tượng. Khi nó
tiếp xúc với những gì tốt đẹp, nó cũng không trở nên tốt, khi nó tiếp
xúc với những gì xấu xa, nó cũng không bị xấu đi. Nhưng cái tâm thanh
tịnh kia vẫn biết rõ những đối tượng ấy, biết rằng chúng không có thật.
Khi
tâm của hành giả an trú trong trạng thái như thế thì mọi nghi ngờ đều
tan biến. Trong trạng thái như thế phải chăng vẫn còn sinh tử? Chúng ta
không cần phải hỏi ai cả. Khi thẩm xét những yếu tố của tâm, Đức Phật đã
để cho nó tự do biến hiện, tự nó đến, rồi nó tự đi, và Ngài chỉ là một
người ý thức rõ về chúng. Ngài chỉ theo dõi nó trong sự tĩnh lặng. Và
khi đó, những điều kiện dẫn đến tái sinh đã không còn tồn tại ở trong
Ngài. Với trí tuệ thù thắng, Ngài đã nhìn thấy mọi trạng thái của tâm
đều là vô thường, không toại nguyện và vô ngã.
Và
Ngài trở thành bậc Giác ngộ. Bậc giác ngộ nhìn thấy mọi thứ đúng như
thật, không trở nên vui, buồn khi điều kiện thay đổi. Đây là trạng thái
an lạc của tâm, không còn bị trói buộc trong sinh, lão, bệnh, tử, vào
nhân, duyên, quả, vượt ra ngoài hạnh phúc và khổ đau, vượt lên trên cả
thiện và ác. Đây là trạng thái khó diễn tả, và không có trạng thái nào
thù thắng hơn nữa.
Cho nên các bạn cần phải
phát triển thiền định, sự tĩnh lặng và tuệ giác; học cách để làm cho
chúng sinh khởi trong tâm và thật sự sử dụng những trạng thái ấy. Nếu
không, bạn chỉ biết Phật pháp qua những ngôn từ, và sự hạn cuộc trong
sách vở mà thôi, lúc ấy bạn chỉ là người đi vòng quanh để diễn giải về
những tính chất của sự vật, nhưng chưa bao giờ trải nghiệm qua thực tế.
Có thể bạn là người rất thông minh, nhưng liệu khi tâm bạn móng niệm,
bạn có chạy theo nó không?
Khi
bạn tiếp xúc với những cái bạn ưa thích, bạn sẽ bám víu vào nó hay là
bạn buông bỏ? Và khi bạn đối diện với những trạng thái không hài lòng,
tâm bạn tỏ ra khó chịu, lên án hay bạn buông xả để cho nó ra đi? Nếu bạn
thấy còn có những thứ bạn không thích, thấy bạn vẫn còn dính mắc và còn
có sự chê bai thì bạn cần phải xem xét lại mình - đấy là những biểu
hiện chưa đúng và chưa hoàn toàn rốt ráo. Nếu bạn quán xét tâm mình theo
cách này, đến một ngày nào đó, bạn sẽ nhận biết con người thật của
chính bạn.
Tôi đã không thực tập dựa trên
những hướng dẫn trong sách giáo khoa; tôi chỉ nhìn vào tánh thấy biết
của mình. Nếu nó ghét một ai đó, tại sao lại ghét. Nếu nó thích một
người nào đó, tôi cũng hỏi tại sao thích. Bạn hãy quán xét mọi biểu hiện
của tâm để tìm ra căn nguyên của nó, đến lúc đó bạn mới có thể giải
quyết một cách triệt để những vấn đề yêu, ghét trong bạn, khi đó tâm bạn
mới được bình yên. Mọi thứ đều quay trở về và phát sinh từ tánh thấy
biết của mình. Tuy nhiên, trong quá trình tu tập, thực tập thường xuyên
và liên tục là tối cần thiết.
Achaan Chah - Khánh Yên dịch