Sau thời gian dài sống tại Bắc
Âu cũng như Đông Bắc Hoa Kỳ là những vùng rất lạnh của thế giới, chúng tôi
nghiệm ra tại đây có rất nhiều người mắc phải những chứng bệnh thuộc về phong
thấp như đau nhức khớp xương. Nhất là những người lớn tuổi đến từ các nước
thuộc khu vực nhiệt đới. Bác sĩ khuyên mọi người nên tập thể dục. Ai cũng thấy
lời khuyên đó đúng. Vì sang đây chúng ta ít khi có cơ hội để vận động thân thể
cho máu huyết lưu thông. Chúng ta ngồi quá nhiều, vừa bước ra khỏi nhà đã leo
lên xe, đến sở làm phải ngồi suốt buổi. Ngày này sang ngày nọ cứ như thế. Thêm
vào đó, qua sự ăn uống cơ thể chúng ta tiêu thụ quá nhiều độc tố. Từ đó đủ các
chứng bệnh về tim cũng như ung thư phát sinh. Tuy thế việc tập thể dục vẫn là
vấn đề nan giải. Với những người trẻ tuổi ít gặp khó khăn hơn. Còn đối với
những người lớn tuổi, đây quả thật là một khó khăn lớn. Vì văn hoá khác biệt,
các cụ ta thấy ngại ngùng trong việc đi bơi đi lội, đi đến nhà tập thể dục để
luyện tập thân thể. Đó là chưa kể vấn đề di chuyển cũng như ngôn ngữ, vì phần
lớn các cụ không biết lái xe và tiếng tăm không thông. Còn việc đi bộ cũng
không dễ dàng thực hiện được, vì vào mùa ấm còn đi lại chút đỉnh, chứ những
ngày lạnh chẳng dám hé cửa, đừng nói chuyện ra ngoài đường. Nếu đi không khéo,
trợt tuyết té thì khổ thân. Nói tóm lại là đành chịu chết. Các vị than phiền và
không biết phải giải quyết vấn đề như thế nào. Chúng tôi chỉ khuyên các cụ hãy
cố gắng thực tập pháp môn Lạy Phật mỗi ngày, sáng cũng như tối.
Các cụ theo đó thực tập. Vài
tuần lễ sau đã có người đến chùa cám ơn, nhờ thực tập pháp môn Lạy Phật đã khỏi
bệnh. Có vị cho chúng tôi hay sau mấy tuần lạy Phật, bây giờ đã hết luôn chứng
đau lưng. Chứng bệnh mà vị đó đã bị từ nhiều năm nay, uống thuốc gì cũng không
khỏi. Các vị khác cho hay bây giờ ngủ ngon giấc không mộng mị, các chứng tê
nhức cũng đã hết. Còn những người trung niên cũng cho biết họ đã bán các dụng
cụ tập thể dục, vì cứ mỗi sáng sau khi lạy hai mươi phút mồ hôi toát ra như
tắm, như thế thì hơn thể dục nhiều.
Trong Các Truyền Thống Phật Giáo
Pháp môn Lạy Phật không phải
chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này
cũng được các truyền thống khác tu tập.
Với Phật Giáo Tây Tạng vấn đề
lạy Phật là một phương pháp tu căn bản. Trong truyền thống này, khi bắt đầu
những kỳ nhập thất dài hạn, thông thường kéo dài ba năm ba tháng ba ngày, các
vị lạt-ma lạy một trăm ngàn lạy. Mỗi ngày từ sáng đến tối chỉ thực hành lạy
Phật. Trung bình mỗi ngày lạy được ba ngàn lạy, và cứ lạy liên tục như thế
trong ba tháng mười ngày thì đủ một trăm ngàn.
Có người thắc mắc không hiểu
lạy như thế có lợi ích gì? Vấn đề này chúng ta sẽ tìm hiểu cặn kẽ trong phần
sau. Đại khái chúng ta có thể hiểu đây là giai đoạn chuẩn bị cho thời gian
"hạ thủ công phu" để nỗ lực tinh tấn trên con đường khai triển tuệ
giác. Sự chuẩn bị này được chú trọng trên cả hai phương diện thân và tâm.
Sau giai đoạn lễ lạy đó, tâm
hồn hành giả thơ thới, thân thể tráng kiện. Khi đó vị hành giả cảm thấy như
mình được tái sinh từ thể xác đến tinh thần. Cần hội đủ những điều kiện cần
thiết đó thì công cuộc khổ tu của những tháng năm đến mới thành tựu viên mãn.
Chúng ta cũng nên biết rằng, Tây Tạng là một nước ở trên núi Hy Mã Lạp Sơn, một
dãy núi cao nhất thế giới, tuyết phủ quanh năm. Trong điều kiện khí hậu khắc
nghiệt như thế, nếu không có một thân thể cường tráng một ý chí mãnh liệt thì
khó có thể tiếp tục công việc tiến tu.
Do đó sự hành trì lễ lạy là một
phương pháp tốt để đạt những mục tiêu ban đầu. ngoài ra các Phật tử Tây Tạng
cũng thực hành phương pháp "nhất bộ nhất bái" (nghĩa là: đi một bước
lạy một lạy) trong các cuộc hành hương chiêm bái các thánh tích như: Cung
Potala nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma ngự, các tu viện nổi tiếng nơi có bảo tháp các vị
tổ sư...
Quang cảnh rất cảm động chung
quanh Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Đức Phật Thành Đạo, là hàng trăm vị Lạt-ma cùng các
Phật tử Âu Mỹ thực hành pháp môn lễ lạy. Họ cứ lạy từ sáng đến chiều và từ ngày
này sang ngày nọ. Cách lạy của người Tây Tạng cũng khác hơn chúng ta là họ lạy
nằm dài hết cả người xuống đất. Tấm ván dùng để lạy trở nên bóng loáng và chỗ
hai bàn tay chống xuống để đẩy dài người ra bị lõm sâu xuống. Điều đó chứng tỏ
họ đã lạy không biết bao nhiêu ngàn vạn lạy rồi.
Qua những khảo sát đó, chúng ta
hiểu được: Tại sao dân Tây Tạng có thể sống khoẻ mạnh trên đỉnh núi tuyết, nơi
lạnh lẽo và thiếu dưỡng khí? Làm thế nào để có được tín tâm vững chải nơi Tam
Bảo? Làm sao để thành đạt kết quả tu tập? Những thành tựu đó có thể nói phần
lớn nhờ bởi công phu lễ bái. Chính việc Lạy Phật đã giúp cho dân Tây Tạng sống
khoẻ mạnh từ thể chất đến tinh thần, có tín tâm kiên cố nơi Tam Bảo, và thành
tựu sự nghiệp tu chứng. Ngày nay dân tộc nhỏ bé yếu kém đó đã mang Phật Pháp
truyền bá khắp nơi.
Tại Trung Quốc, các Tông Phái
Phật Giáo từ Tịnh Độ, Thiền, Thiên Thai, đến Luật Tông, Mật Tông v.v.. đều chú
trọng vào việc Lạy Phật như một hành trì căn bản. Trung Quốc có những cuốn kinh
dành riêng cho việc lễ lạy như:
Kinh Hồng Danh: 108 lạy, kinh
sám hối căn bản.
Kinh Ngũ Bách Danh: 500 lạy,
gồm tên của 500 vị Phật hay 500 danh hiệu của một vị Phật hay Bồ Tát.
Kinh Thiên Phật: 1.000 lạy,
danh hiệu của một ngàn vị Phật.
Kinh Ngũ Thiên Phật: 5.000 lạy,
danh hiệu của năm ngàn vị Phật.
Kinh Vạn Phật: 10.000 lạy, danh
hiệu của mười ngàn vị Phật.
Thủy Sám: sách sám hối, vừa
tụng vừa lạy, do ngài Ngộ Đạt soạn.
Lương Hoàng Sám: bộ sách sám
hối, do hoà thượng Chí Công đời vua Lương Võ Đế soạn để sám hối cho hoàng hậu
Hy Thị.
Qua các kinh đó chúng ta thấy
Phật Giáo Trung Quốc đã hành trì pháp môn Lạy Phật nghiêm túc như thế nào.
Ngày xưa các chùa đều được xây
dựng nơi núi cao rừng sâu, tránh cảnh thị thành náo nhiệt để các hành giả
chuyên chú quán chiếu nội tâm. Các ngôi chùa như Thiếu Lâm Tự được xây dựng
trên núi Thiếu Thất. Để có đủ sức khoẻ chống lại sơn lam chướng khí thú dữ, các
thiền sinh phải luyện tập võ thuật và khí công kèm với sự tu tập phát huy tuệ
giác. Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma là người đã khai sáng Thiền Tông tại Trung Quốc, cũng
là tổ sư sáng lập võ thuật tại đây. Các tổ sư đã ý thức rõ ràng sự quan hệ giữa
thân và tâm. Sự thành tựu tuệ giác phải song hành với sự tráng kiện của thân
thể. Khí công và nội lực là những yếu tố quan trọng trong việc phát triển tâm
linh. Không thể nào có được ý chí dũng mãnh trong một thân thể bệnh hoạn. Từ đó
các tổ đã kết hợp hai truyền thống tu luyện của Ấn Độ và Trung Quốc, truyền
thống yoga cũng như các phương pháp luyện công luyện khí của võ thuật được kết
hợp nhuần nhuyễn để chế tác pháp môn Lạy Phật. Như thế chúng ta thấy Lạy Phật
là kết quả tiêu biểu cho những kinh nghiệm tu tập thoát thai từ sự dung hợp sâu
sắc tinh hoa của các nền đạo học Đông phương. Một vị thánh tăng trong thời đại
chúng ta là ngài Hư Vân (1840 -1959), ngài đã hành trì "tam bộ nhất
bái" (ba bước một lạy) từ Phổ Đà Sơn về Ngũ Đài Sơn, khoảng đường dài bằng
từ New York
về Seatle. Trong cuốn Tự Truyện ngài đã kể lại những kinh nghiệm tu chứng của
ngài trong thời gian lễ bái đó. Ngài có được những khả năng phi thường như nhìn
xuyên qua vách, nghe được tiếng từ xa, biết việc vị lai ... Lúc bị chính quyền
cộng sản tra khảo dã man, người cai ngục tưởng ngài chết rồi. Nhưng sáng hôm
sau thấy ngài ngồi dậy như trước đó chẳng có chuyện gì xảy ra. Ngài thọ 120
tuổi.
Ngày nay tại Tổ Đình Vân Môn
tại Quảng Đông Trung Quốc, mỗi sáng chư tăng sau thời công phu bắt đầu lạy ba
trăm lạy.
Phật Giáo Việt Nam
cũng như Nhật Bản và Đại Hàn chịu ảnh hưởng sâu đậm Phật Giáo Trung Quốc. Do đó
trong phương pháp hành trì rất chú trọng về lễ lạy. Phật tử Việt Nam
đến ngày nay vẫn duy trì mạnh mẽ phương pháp tu tập đó. Vào những ngày mười bốn
và ba mươi âm lịch, chúng ta có những thời Hồng Danh Sám Hối. Chúng ta cũng lạy
Ngũ Bách Danh, Thiên Phật, Vạn Phật... Ngoài ra, có người cũng phát nguyện lạy
từng chữ trong các bộ kinh lớn như Pháp Hoa, Bát Nhã, Niết Bàn, Hoa Nghiêm...
Trước năm 1975, lúc chúng tôi
tu tập tại Chùa Già Lam, Gia Định, mỗi sáng sau thời công phu, hòa thượng Trí
Thủ xướng hồng danh chư Phật chư Tổ để mọi người lễ lạy. Giọng ôn sang sảng
vang dội khắp chùa. Thỉnh thoảng ôn nhập thất. Trong suốt thời gian đó ôn trì
niệm và lễ bái hồng danh Đức Phật A Di Đà. Những năm cuối đời ôn vẫn kiên trì
tu tập pháp môn đó. Qua cuộn băng cassette thu tại Chùa Già Lam vào khoảng năm
1982, chúng tôi vẫn còn nghe giọng xướng trầm hùng của ôn và Đại Chúng. Tại Hoa
Kỳ, chúng tôi được biết Tu Viện Kim Sơn tại Bắc Ca-li thực hành chuyên cần công
phu bái sám. Đại Chúng lạy mỗi ngày hai thời và mỗi thời khoảng hai trăm lạy.
Cũng như rất nhiều các Chùa Việt Nam khác tu tập pháp môn lễ bái
này.
Tác phẩm nổi tiếng về sự hành
trì pháp môn Lạy Phật này là cuốn Khóa Hư Lục của vua Trần Thái Tôn soạn. Nhà
vua soạn bộ sách sám hối này cũng trong tâm trạng thành khẩn như ngài Ngộ Đạt
sám hối nghiệp chướng nhiều đời, như vua Lương Võ Đế sám hối quả báo của hoàng
hậu.
Như chúng ta biết vua Trần Thái
Tông là vị vua đầu tiên của triều Trần. Dưới áp lực của thái sư Trần Thủ Độ,
cũng là chú của vua, bắt vua phải làm những việc loạn luân, thất nhân tâm như
ruồng bỏ vợ, lấy chị dâu đang mang thai, cùng chứng kiến những cảnh tàn sát tôn
thất nhà Lý. Không chịu nổi những cảnh tàn ác đó, nhà vua bỏ kinh thành vào núi
để xin xuất gia.
Phù Vân quốc sư đã khuyên nhà
vua hãy trở về gánh lấy trọng trách để tìm cách chuyển đổi chính sách bạo tàn
thành chính sách khoan hòa nhân đạo, cũng như theo đuổi con đường tu tại gia.
Nhà vua đã trở về. Sách Khóa Hư Lục đã được soạn ra trong hoàn cảnh đó. Trong
đó nhà vua đã soạn những bài văn thống thiết để ngày đêm sáu thời lễ bái sám
hối cho nghiệp chướng tiêu trừ, cho quốc thái dân an. Với ảnh hưởng đạo đức của
vua Thái Tông, triều Trần đã trở thành một triều đại quân chủ Phật Giáo hùng
mạnh trong lịch sử với những chiến thắng Mông Cổ oanh liệt. Mông Cổ là đoàn
quân bách chiến bách thắng, xây dựng một đế quốc trải dài từ Âu sang á, chưa
bao giờ bị thua trận.
Sự Lợi ích
Phương pháp Lạy Phật là kết
tinh của những kinh nghiệm tu tập sâu sắc từ những truyền thống đạo học Đông
phương. Do đó những lợi ích mang lại từ sự hành trì pháp môn này vô cùng lớn
lao. Sự lợi ích đó đạt được cả trên hai phương diện thân xác cũng như tinh
thần.
Về Thân: phương pháp Lạy Phật
mang lại những hiệu quả sau:
1. Trước hết, động tác lạy Phật
là một phương pháp thể dục tốt. Với những cử động nhẹ nhàng, nhưng tất cả các
bắp thịt trên toàn thân đều được vận động tối
đa. Khác với lúc tập thể dục,
vì thông thường khi thể dục chúng ta không vận động tất cả các bắp thịt đồng
đều cùng một lúc. Ví dụ: khi đi bộ, chúng ta vận động nhiều bắp thịt ở chân.
Chỉ có bơi lội chúng ta mới cử động toàn thân. Trong lúc lạy Phật, tất cả các
bắp thịt trên cơ thể đều hoạt động làm khí huyết toàn thân lưu chuyển giúp
chúng ta chữa trị các chứng thấp khớp, cũng như phòng ngừa các chứng bệnh hiểm
nghèo khác..
2. Các huyệt đạo quan trọng
trên cơ thể được tác động. Từ huyệt bách hội trên đỉnh đầu xuống đến huyệt đan
điền dọc theo xương sống và các huyệt ở tay chân. Chúng ta cảm thấy có một
luồng khí nóng chạy đều khắp cơ thể và mồ hôi theo các lỗ chân lông tuôn ra.
Theo y học Đông phương, một khi các huyệt đạo trên cơ thể được tác động, khí
huyết sẽ lưu chuyển và bệnh tật sẽ tiêu trừ.
3. Sau khi Lạy Phật xong, hãy
ngồi xuống chừng mười lăm phút, chúng ta sẽ có cảm giác an lạc thư thái ngay vì
các huyệt đạo đưọc tác động. Sự an lạc này rất sâu sắc, một kinh nghiệm rất đặc
biệt mà chúng ta chỉ đạt được trong lúc thiền định. Sự an lạc này mang lại cho
chúng ta niềm hoan lạc suốt ngày. Từ đó những phiền não, những ưu tư, những đau
buồn... cũng nhanh chóng tan biến.
4. Các trọng huyệt này tương
ứng với các luân xa trong truyền thống yoga Ấn Độ. Các luân xa này nằm dọc theo
xương sống từ đỉnh đầu xuống đến bàn tọa gồm bảy luân xa. Một khi được tác
động, các luân xa này giúp chúng ta khai triển được những năng lực mầu nhiệm
tiềm tàng trong mỗi người, tạo điều kiện thuận tiện cho việc phát triển tâm
linh.
Về Tâm: phương pháp Lạy Phật là
phương pháp điều tâm để thanh tịnh ba nghiệp: thân, khẩu và ý (tư tưởng, ngôn
ngữ và hành động). Phương pháp này giúp ta:
1. Tiêu trừ nghiệp chướng:
Trong sự sám hối, thành tâm đảnh lễ mười phương chư Phật bằng cả thân tâm của
mình. Quán chiếu sâu xa nguồn gốc tội lỗi, cùng bản tánh của tội lỗi. Quán
tưởng hào quang chư Phật mười phương hiển hiện trước mắt, cũng như Phật tánh
trong tự tâm tỏa rạng. Nhờ Phật lực hộ trì cùng nỗ lực tự tâm để thanh tịnh ba
nghiệp. Với sự sám hối đó các ác nghiệp và chướng duyên đều được chuyển hóa.
2. Thiện căn tăng trưởng: trong
khi lễ lạy, hồi hướng cho kẻ thân người thù đều được lợi lạc, đều được thành
tựu sự nghiệp giác ngộ giải thoát. Như thế Bồ Đề Tâm (thượng cầu Phật đạo, hạ
hóa chúng sinh) được nuôi dưỡng, lòng từ bi được phát triển. Sự lễ bái hàng
ngày đem lại cho chúng ta nguồn an lạc vô biên. Sự an lạc này giúp cho phiền
não tiêu tan, sự trầm tĩnh trở lại trong tâm hồn và lòng thương cũng phát sinh
đối với người ghét.
3. Đức khiêm cung phát sinh:
trong khi hạ mình xuống sát đất để lạy Phật, để thấy những thành đạt của mình
chỉ là những giọt nước trong đại dương bao la. Bác Hoài phát biểu trong buổi
thảo luận Phật Pháp, để chuyển hóa tâm kiêu mạn của mình, mỗi ngày bác Lạy Phật
để hồi hướng công đức về thiên, về địa, về sư trưởng, về ông bà cha mẹ... để
cảm nhận trùng trùng ân nghĩa. Để thấy sự thành tựu của mình hôm nay là công ơn
tác thành của nhiều người. Để từ đó tâm khiêm nhường phát sinh. Trong Kinh Đức
Phật thường dạy, tâm khiêm nhường là cửa ngõ của trí tuệ và là con đường đưa
đến giải thoát.
Sự Hành Trì
Trong truyền thống Việt Nam,
chúng ta có lạy Hồng Danh, Ngũ Bách Danh, Thiên Phật, Vạn Phật ... Tùy theo
hoàn cảnh và khả năng để áp dụng cách lễ lạy cho thích hợp. Điều quan trọng là
sự hành trì đều đặn. Nếu chưa quen chúng ta có thể bắt đầu bằng ba mươi lạy,
rồi sau đó tăng dần cho đến một trăm lẻ tám lạy (để trừ một trăm lẻ tám phiền
não). Nếu có băng Hồng Danh thì mở băng và theo lời xướng danh hiệu Phật trong
băng để lạy. Chúng ta có thể lạy mỗi ngày một hay hai lần.
Cách đơn giản nhất, chúng ta
lạy theo hơi thở. Cứ hít vào chúng ta đứng lên và thở ra chúng ta lạy xuống. Cứ
lạy chậm rãi. Mỗi lạy chúng ta niệm một danh hiệu Phật và đếm một, cứ như thế
cho đến đủ số. Hoặc chúng ta có thể theo dõi đồng hồ và lạy đủ thời gian ấn
định thì ngưng. Hoặc mười lăm phút, hai mươi phút hay nửa giờ. Đó là những
phương cách đề nghị để chúng ta tùy nghi thực hành.
Sự lễ lạy có thể thực hiện bất
kỳ chỗ nào. Miễn là chúng ta có được khoảng không gian bằng chừng chiếc chiếu
là đủ để lạy rồi. Tốt nhất là trước bàn Phật, nếu không thì ở chỗ nào cũng
được, miễn tâm thành là được. Ngay cả trong phòng ngủ, mỗi sáng lúc thức dậy
hay mỗi tối khi đi ngủ chúng ta có thể thực tập.
Khi lạy hai tay chắp ngang
trán, đưa xuống ngực rồi lạy xuống sát đất. Điều này biểu tượng cho "thân
tâm cung kính lễ" (đem thân đoan nghiêm và tâm thành kính để lễ lạy). Lúc
lạy xuống hai tay, hai chân và trán phải chấm đất (ngũ thể đầu địa: năm phần
của thân thể đều chạm đất). Chúng ta nên đứng thẳng người rồi lạy xuống, sau đó
đứng thẳng lên. Như thế các bắp thịt khắp châu thân được vận động tốt hơn (trừ
khi yếu chân, có thể quỳ lạy).
Trong khi lạy cố gắng kết hợp
cả ba phương diện: thân đứng nghiêm chỉnh cử động nhịp nhàng hoà hợp, hơi thở
đều đặn miệng niệm danh hiệu Phật hay Bồ Tát, tâm quán tưởng đến Phật, Bồ Tát
hay cảnh giới của chư Phật và Bồ Tát. Ví dụ: có thể quán tưởng đến Đức Phật A
Di Đà đang ở trước mắt, hay cảnh Tịnh Độ chung quanh ta.
Kết Luận
Tóm lại, phương pháp lạy Phật
là một phương pháp rất đơn giản, nhưng mang lại những lợi ích rất lớn. Ai tập
cũng được, bất kỳ nơi đâu và không cần phải sắm dụng cụ gì cả. Đây là kết tinh
của những kinh nghiệm tu luyện quý báu của chư tổ, đã kết hợp các phương pháp
tu tập của Thiền gia và vũ thuật gia để chế tác thành. Sự thực hành pháp môn
này mang lại lợi ích rõ rệt cho cả thân lẫn tâm. Thân thể cường tráng chữa trị
và phòng ngừa các chứng bệnh hiểm nghèo như bệnh tim, áp huyết cao, ung thư..
Tinh thần an lạc thư thái. Sống an vui hạnh phúc trong hiện tại. Tạo điều kiện
thuận tiện khai triển khả năng tâm linh vô biên để tiến tới giải thoát hoàn
toàn. Đây là một pháp môn mầu nhiệm, những niềm hoan lạc sâu sắc chúng ta kinh
nghiệm được trong lúc hành trì là những bước tiến vững chắc trên bước đường tu
tập. Qua những thành tựu đó giúp chúng ta tăng trưởng tín tâm đối với những
pháp môn chư tổ truyền lại.