Với cái tâm cũng vậy. Tư tưởng hiền lành sẽ làm cho tâm nhẹ nhàng thơ thới và an vui. Suy tư hung dữ thiêu đốt tâm can và đưa đến đau khổ. Nếu quý vị làm ra những sản phẩm không tốt ắt không bán được. Nếu quý vị nói điều không lành, sớm chầy sẽ phải gây gỗ và tranh chấp. Rồi chắc chắn đau khổ sẽ đến vì sân hận và thù oán chỉ đem đến phiền muộn và thất vọng sâu xa.
Hành thiền mỗi ngày sẽ được an vui vì ta luôn luôn hay biết sinh hoạt --vật chất và tinh thần -- của mình. Hãy trông chừng: trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, đi giải, rửa tay, bất luận gì đang làm, hãy ghi nhận, hay biết mình đang làm việc ấy. Phải luôn luôn hành thiền. Dầu nấu ăn hay rửa chén, hãy hay biết mỗi tác động -- đó là hành thiền. Vị hành giả sáng suốt sẽ có thể hành thiền bất luận lúc nào. Đó là điều mà Sư khuyên quý vị nên làm. Không nên mãi chờ đợi cho đúng ngày, đúng giờ, đúng thời gian, mới hành. Hãy trau giồi pháp hành. Khi quý vị đang đọc sách này, đang viết hay đang thêu thùa, may vá hay đang cắt móng tay đi nữa, luôn luôn hay biết mình đang làm gì. Hãy giác tỉnh chú niệm, gom tâm vào những gì đang xảy ra và an trụ nơi đo. Nhưng hãy thận trọng tránh xa điều bất thiện, vì tư tưởng bất thiện sẽ đưa đến đau khổ phiền muộn. Người chuyên cần giác tỉnh, người luôn luôn canh chừng tâm mình như trên, hay biết tâm mình trong từng khoảng khắc -- ngoại trừ lúc ngủ -- người ấy lúc nào cũng tĩnh lặng và an lạc.
Các bậc Thánh Nhân (ariya) và những vị Cao Tăng, Thiền Sư của chúng ta, đều hành như thế. Tâm các Ngài luôn luôn an trụ. Các Ngài nói chuyện, nhưng tâm luôn luôn ở trong trạng thái vắng lặng và an lạc, luôn luôn có trí nhớ và hay biết mình. Niệm và tuệ của các Ngài luôn luôn hiện hữu để trông chừng toàn thể tiến trình sinh hoạt, do đó, dầu trong lúc chuyện trò, tâm vẫn an tĩnh vắng lặng. Quý vị Đại Đức bị tử nạn máy bay cách đây mấy năm [1], đã sẵn sàng để ra đi. Lúc bấy giờ tâm các Ngài an trụ vững chắc và sẵn sàng để tịch diệt, không mảy may sợ hãi. Trí tuệ luôn luôn sắc bén, thâm sâu và luôn luôn hiện hữu để giữ tâm an tĩnh trong mọi trường hợp. Các Ngài sẵn sàng để bỏ lại cái thân xác này bất cứ lúc nào, luôn luôn giác tỉnh.
Những ai chưa từng hành thiền, chưa quen thuộc với pháp hành để trau giồi tâm vắng lặng (samàdhi), ắt khó có thể tin những sự việc như kể trên có thể xảy ra. Nếu không bao giờ họ thật sự hiểu biết cái tâm của chính họ là như thế nào, thì làm sao có thể trông chờ họ tin tưởng. Đối với các vị ấy, không ai có thể rèn luyện cái tâm, bởi vì tâm luôn luôn biến chuyển. Khi tâm bám vào đau khổ, ta khổ đau sầu muộn. Khi tâm nắm lấy hạnh phúc, ta hoan hỷ thỏa thích. Nhưng đối với các vị Đại Đức Thiền Sư, dầu hạnh phúc hay đau khổ, tâm buông bỏ tất cả. Do đó, các Ngài luôn luôn tĩnh lặng, thanh bình.
Nếu tâm ở trong trạng thái vắng lặng (samàdhi) thì lúc nào ta cũng hành thiền. Sư đã suy nghiệm về điều này và thật sự nhận thức rằng giáo huấn của Đức Bổn Sư quả thật thâm sâu, vô cùng vi tế và huyền diệu. Rõ ràng trạng thái tâm hoàn toàn trong sạch của các bậc cao tăng đã thực hành Giáo Pháp đến mức độ tuyệt đối cao thâm, thấm nhuần cơ thể vật chất, tràn ngập vào tận xương tủy. Tại sao xương của Ngài Acharn Mun [2], sau khi hỏa táng đã trở thành Xá Lợi trong sáng như thủy tinh? Trạng thái trong sạch chẳng những chỉ ở tâm, mà cũng ảnh hưởng đến xương cốt. Xương là xương, nhưng ở đây còn có thêm gì nữa. Phải chăng có chi liên quan đến Niết Bàn? Quả thật là thâm sâu! Quả thật mầu nhiệm!
Phật giáo vô cùng thâm diệu. Các tôn giáo khác, mỗi tôn giáo đều cao quý theo đường lối của mình. Ai muốn theo tôn giáo nào là việc của người ấy, ta không thể nói gì. Chúng ta nên biết những tánh chất khác nhau (parisannutà) của mỗi tông phái để có thể đi từ đoàn thể này sang đoàn thể khác, trong những quốc gia khác nhau, mà không tranh luận hay có những lời lẽ bất hòa với bất cứ ai, về bất cứ vấn đề nào [3]./.
-----------------------------
Chú thích:
[1] Lời người dịch (PKK): Vào năm 1979, một chiếc phi cơ của hoàng gia Thái cung thỉnh tám vị cao tăng, từ các tỉnh miền Bắc xứ Thái, về triều để tham dự một cuộc lễ tại Hoàng Cung ở Bangkok. Không may, giữa đường máy bay lâm nạn và cả tám vị đều chết. Hiện nay, tại chân núi Puthork có đền thờ Ngài Luang Pu Choun, một trong tám vị. Dịch giả được duyên may đến viếng đền thờ đồ sộ và rất trang nghiêm trong khung cảnh núi non hùng vĩ này. Ngay trước pho tượng của Ngài, trên bàn thờ, có tủ kiếng tôn thờ Xá Lợi Ngài, đựng từng nhóm theo cỡ lớn nhỏ trên lối mười cái dĩa, để khách thập phương chiêm bái.
[2] Acharn Mun (đọc là A-chàn Manh) là vị Thiền Sư nổi tiếng nhất ở Thái Lan, trong thời hiện đại.
[3] Bài nầy ghi lại một thời Pháp do Ngài Thiền sư Acharn Plien Panypatipo thuyết giảng bằng Thái ngữ. Dr. Chalerm-Sri Janorn dịch sang Anh ngữ tựa đề "The Fundamentals of Meditation". Phạm Kim Khánh dịch từ Anh sang Việt ngữ với tựa đề "Căn Bản Pháp Hành Thiền".
Mọi thơ từ về quyển sách này xin liên lạc với địa chỉ:
Acharn Plien Panyapatipo
Aranyavivake Monastery
Mae-Taeng District
Chiang-Mai, Thailand