 Nhớ
không nhầm cách nay khoảng chừng ba mươi mấy năm gì đó tôi đã từng đọc 
một đoạn thơ của một tác gỉa châu Âu có nội dung quá ấn tượng( với riêng
tôi) đại khái là: chung quanh chúng ta, đất, nước, không khí ánh sáng 
,và cả…lửa(!),… những thứ cần thiết nhất để sống thì luôn luôn sẵn dành 
đầy đủ cho hết thảy mọi người sao ai đó còn than thở rằng: cuộc sống này
đắt đỏ quá! Có thể thời điểm đó và ở một không gian nào của trời Tây xa
xôi, không khí vẫn còn trong lành, nước vẫn còn trong và không gian vẫn
thoáng đãng tràn ngập ánh sáng,… người làm thơ lạc quan là đúng. Nhưng 
hãy nhìn lại thực tại, chí ít là phần lớn không gian, biển cả và bề mặt 
hành tinh này, đi tìm kiếm sự trong lành đúng nghĩa chỉ còn cách lật lại
quá khứ_ lại là quá khứ chưa lâu_ buồn thật! tôi chợt liên tưởng đến 
một cụm từ trong một ca khúc của nhạc sĩ quá cố họ Trịnh để đặt cho bài 
viết tản mạn này.(*)
Nhớ
không nhầm cách nay khoảng chừng ba mươi mấy năm gì đó tôi đã từng đọc 
một đoạn thơ của một tác gỉa châu Âu có nội dung quá ấn tượng( với riêng
tôi) đại khái là: chung quanh chúng ta, đất, nước, không khí ánh sáng 
,và cả…lửa(!),… những thứ cần thiết nhất để sống thì luôn luôn sẵn dành 
đầy đủ cho hết thảy mọi người sao ai đó còn than thở rằng: cuộc sống này
đắt đỏ quá! Có thể thời điểm đó và ở một không gian nào của trời Tây xa
xôi, không khí vẫn còn trong lành, nước vẫn còn trong và không gian vẫn
thoáng đãng tràn ngập ánh sáng,… người làm thơ lạc quan là đúng. Nhưng 
hãy nhìn lại thực tại, chí ít là phần lớn không gian, biển cả và bề mặt 
hành tinh này, đi tìm kiếm sự trong lành đúng nghĩa chỉ còn cách lật lại
quá khứ_ lại là quá khứ chưa lâu_ buồn thật! tôi chợt liên tưởng đến 
một cụm từ trong một ca khúc của nhạc sĩ quá cố họ Trịnh để đặt cho bài 
viết tản mạn này.(*) 
Sự đánh đổi có khi nghiệt ngã đến phũ phàng. Để phủ phê vật chất, để 
nghênh ngang phương tiện, để rủng rỉnh bạc tiền,…người ta đành chấp nhận
thay thế những giá trị quý báu vô song bằng sự nhếch nhác, ngổn ngang 
những thứ bỏ đi, chúng hiện hữu phát tác làm tăng dần cường độ “dị ứng” 
với cộng đồng nhân sinh. Thở phải cứ thở và cứ phải mang bao nhiêu thứ 
“đi kèm” vô buồng phổi để cùng với luồng oxy (dưỡng khí) đồng hành tới 
các tế bào; uống thì phải cứ uống nhưng có trời biết trong cốc nước kia 
có bao nhiêu thứ là kẻ thù của sức khỏe; ăn thì cứ phải ăn thôi, ăn để 
sống mà! Nhưng ai biết bao nhiêu thứ đựng trong mâm bát kia đang chuyên 
chở nhiều ít những hoạt chất được quen gọi là “độc tố”_kẻ đồng minh của 
bệnh tật và chết chóc. Lòng  ham muốn đã làm nhiễu loạn sự sáng suốt của
lý trí dẫn đến hệ lụy con người không còn đủ tỉnh táo trong sự phân 
định thiệt hơn khiến nhân loại đang có nguy cơ tiến gần hơn đến chỗ mình
tự đào hố chôn mình. Nói sâu hơn, sự vị kỷ ( như Đức Phật dạy: ngã, ngã
sở) chính là nguyên nhân đầu đưa đến hiện trạng này. 
Dòng đời xuôi ngược ngược xuôi, vô vàn các mối tương tác đan xen, 
thoạt nhìn tưởng như bình lặng nhưng sự thực, chúng đang dệt nên bầu 
không khí sinh hoạt của xã hội: sôi động, muôn hình nghìn tía lại cũng 
gai góc hiểm lụy. Hình ảnh chợ đời_cách nói của nhân gian_ sao đắc ý đến vậy! 
Không khí tự nhiên thì đã biết, còn không khí xã hội thì ra sao? Nếu 
thiên nhiên với nhiễm ô mang tính vật chất thì ô nhiễm của xã hội là 
những độc tố tinh thần, điều đáng nói là chúng rất linh hoạt, giảo hoạt 
và lại là nguyên nhân của sự ô nhiễm vật chất. 
Người với người, sự tương tác vô tư trong sáng cơ hồ như đã là cổ 
tích. Thay vào đó là là sự chi phối của các yếu tố : ham muốn, lợi dụng,
hận thù, tật đố, ngạo mạn, thờ ơ, tranh giành, thủ đoạn…thang giá trị 
biến đổi theo “biểu đồ con thoi” tùy vào vô số các quan điểm sống của các nhóm hay từng cá thể. Lạc vào để tồn tại trong bầu “ không khí nhân sinh ấy”,
con người với sự cảm nhận và cả những đòn đau cọ xát dần bị cải hóa để 
thích nghi và để…sống( nói cách khác là để tồn tại(!) ).Đâu rồi sự hồn 
nhiên anh nhi hạnh thuở ấu thời. Sự ô nhiễm tinh thần tất yếu gây
ra hiện tượng thiếu lành mạnh của tâm thức: tâm bệnh. Thật đáng ngại và
đáng thương, quả là long đong phận người! Viết đến đây tôi chợt nghĩ 
đến Đấng Gíac ngộ, Ngài vẫn mãi là bậc thầy thuốc vĩ đại nhất mọi thời 
đại: Vô Thượng Y Vương! 
Thế rồi, con người vẫn đi và vẫn cô độc trên lộ trình hữu ngã vì còn ngã lấy đâu hòa hợp bao dung?
Và cứ thế con người vẫn đi trong bụi mù của bầu không khí đã nặng mùi
cấu nhiễm dục vọng, ảo vọng và những cơn mưa lậu hoặc làm lấm ướt mảnh 
áo sơ trinh. 
Và những cuộc dạo chơi chữ nghĩa bất quá cũng như những vòng xoay của
chiếc đèn cù, tưởng rằng đã trực hành cảnh giới vô vi đâu hay chỉ là 
trò ảo thuật ngôn phong ngữ cú lộn vòng trong hạn hữu tử sinh và ảo ảnh 
đưa tâm người vào tấn trò mãn nguyện_ những giấc mơ êm đềm! 
Như sự viễn hành vô định, tâm hồn mỗi người như mảnh đất hoang sơ, 
ngày lại ngày ai cấy vào đó những loài cây tư tưởng, để rồi kẻ làm vườn 
dày công tẩm tưới_ người thì cứ quán tính quy thuộc và rồi quên mình tự 
buổi hồng hoang. Sự ra đi như chẳng có ngày về chốn cũ, “mây mưa đánh đổ đá vàng” người đã tự hóa trang ngụy hình, thế rồi mặt mày cũng “dày gió dạn sương”, khi nhìn lại hóa ra mình đã là kẻ sắm tuồng mà không hay biết. 
Chỗ trú xứ tôi ngẫu nhiên nằm lọt thỏm giữa những ngôi nhà của bà con
khác đạo. Sự thể là cách nay hai mươi năm khi tôi về tậu mảnh đất nhỏ 
cắm dùi thì đây chỉ là khu đất vườn trồng tràm bông vàng chỉ dăm ba hộ 
con cái chủ vườn theo đạo nhang khói. Nhưng rồi cái gọi là đô thị hóa 
đưa người nhập cư về mua đất cất nhà và như một sự thật tất nhiên họ đa 
phần không phải là người theo tín ngưỡng quy hướng Đấng Gíac ngộ như 
mình. Nguyên do là gần đó có một cơ sở tôn giáo, nơi họ có thể lui tới 
để thực hành những nghi thức tâm linh. Tính quần cư được quy định bởi 
đức tin thể hiện rất rõ và rất cụ thể! 
Những đứa bé ngây thơ vừa chập chững nhìn sao quá đỗi đáng yêu, và cả
những bé lên năm lên sáu tuổi cũng thường sang chỗ tôi chơi, nói cười 
ca hát. Thương các cháu, tôi thường mua bánh kẹo phân phát, hay đem cho 
chúng những trái cây đã cúng Phật, rồi lại vuốt ve âu yếm. Tôi cũng đọc 
được trong ánh mắt các cháu vẻ trìu mến và biết ơn, chúng quấn quýt và 
có những cử chỉ thân thiện, hay những lời thỏ thẻ ngây ngô chưa tròn 
vành rõ chữ. Những tâm hồn quả thánh thiện làm sao! Nhưng rồi ngày lại 
ngày, các bé lớn lên, rồi vào các lớp giáo lý, rồi các buổi sinh hoạt 
theo tín ngưỡng,… dần dà tôi phát hiện các bé nhìn mình với ánh mắt 
khác, tuy quen mà có vẻ là lạ làm sao_ những ánh nhìn như cảnh giác, một
chút gì như phân biệt và kém thân thiện. 
Cho đến một ngày, vừa trở về sau một buổi dạy học tôi chợt nghe một tiếng gọi khẽ: “ thầy chùa!”,
cái âm sắc vừa như trêu chọc vừa như có gì na ná như sự kỳ thị ( hay 
miệt thị cũng được) vang lên lạnh lùng. Theo quán tính tôi quay lại: 
chẳng ai khác là bé P. Mà trước đây tôi vẫn thường quan tâm cho quà cho 
bánh. Tôi chợt hiểu và bất giác mỉm cười chua chát. Thương các cháu quá,
tâm hồn trắng trong nay đã là quá khứ, mảnh đất tâm phẳng phiu ngày nào
đã bắt đầu mọc lên những cây lá, và rồi sẽ là một lộ trình với những sự
định hướng,… Lại thương hơn vì trẻ con chỉ biết nói thực, nhìn thực, 
không kỹ xảo ngụy trang, không đãi bôi giao tiếp. Đó chẳng qua là một 
hình thức “tự miễn” đối với những gì không giống mình. 
Người lớn hay trẻ con, rồi cũng đưa mình vào các cuộc hành trình tâm 
thức. Phật dạy khi chưa có tuệ nhãn( mắt tuệ) thì khó nhận diện được bản
chất các pháp, nói một cách nôm na thông tục kiểu đời thường là bị mù( 
chưa có mắt tuệ), mà đã mù thì đưa chân vào mê lộ là điều khỏi bàn cãi. 
Càng xót xa hơn, không ít kẻ đang sa chân này lại cuồng nhiệt cố tâm lôi
kéo bất cứ ai có thể để cùng đồng hành dấn bước với mình(!) Nói đến 
khái niệm mù, tôi chợt liên tưởng đến hình ảnh con cò bị người ta
đâm mù hai mắt trói cho đứng giữa đồng bên cạnh hàng hàng lớp lớp những
cạm bẫy giăng mắc. Những đàn cò đang bay trên không chỉ cần nghe tiếng 
kêu của con cò mồi dưới mặt đất là lập tức nhào xuống, liền bị kẹp cứng 
bởi những cái bẫy đang chờ kia. 
Con người có khác chi, có ai đếm được bao nhiêu là cạm bẫy tư tưởng 
đang chờ, những chiếc bẫy được ngụy trang bởi những mỹ từ hay ho, những 
hứa hẹn đầy hấp lực, mang tâm trạng yếm thế và bất an như không ít người
làm sao đủ sáng suốt và bản lĩnh cưỡng lại được!
Phận người quả thật long đong! 
Cách nay không lâu, nhiều Phật tử và nhóm Phật tử đã đến chỗ tôi nêu 
thắc mắc, qua nhiều cách trình bày nhưng đại loại như sau: Chúng con 
được biết hiện đang có những quan điểm của nhiều Chư Tôn đức khả kính 
khẳng định rằng Kinh điển Đại thừa như Pháp Hoa, Niết Bàn, Hoa Nghiêm, 
Địa Tạng, Di Đà,… không phải do Phật thuyết ra; rằng Phật Gíao Việt nam(
phái Bắc tông ) đang quá xa rời tính nguyên thủy của Đạo Phật. Vậy 
chúng con phải tu làm sao, học làm sao đây thầy? Bởi con đang tu Tịnh 
độ,( con đang tu pháp môn Pháp Hoa, con đang tu theo Thiền tông, con 
đang trì Kinh Địa Tạng ngày chung thất mẫu thân con, con đang theo pháp 
môn trì Chú Đại bi, con đang,v.v…). Sao Trung ương Giáo Hội không triệu 
tập một hội đồng các bậc tôn túc uyên thâm Phật học để đồng ra một văn 
bản chính thức về vấn đề này để Phật tử toàn quốc chúng con có chỗ y cứ 
tu học hành trì, chứ mạnh ai náy phát biểu làm chúng con hoang mang và 
trở nên mất phương hướng, tội nghiệp chúng con! 
Tôi vốn có duyên “gõ đầu trẻ” gần hai mươi năm ở các trường Phật học 
nghe cách đặt vấn đề này cũng đành “đớ lưỡi”, chợt thoáng nghĩ trong 
tiếng thở dài: “ Phật tử mình cũng phận long đong sao?” 
_______________________ 
(*)Ca từ trong ca khúc Gịot nước mắt cho quê hương của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.