Là Phật  tử, chúng ta không thể đứng ngoài xã hội mà 
phải đối diện với tất cả những vấn  nạn của xã hội, cộng đồng v..v.. 
trong đó có những vấn đề cần phải đối phó, vì  chúng có ảnh hưởng đến 
đời sống tâm linh của chúng ta, cùng công cuộc bảo vệ,  duy trì nền văn 
hóa Phật Giáo nói riêng, nền văn hóa Việt Nam nói chung, trên  đất nước.
Trong thời đại mới, nghiên cứu và bình phẩm về các 
tôn giáo  khác không còn là điều cấm kỵ, mà chính là một đòi hỏi trí 
thức trong việc giáo  dục quần chúng, mở mang dân trí.Điều này chúng ta 
có thể thấy rõ nhất trong  phương trời Âu Mỹ.Mở mang dân trí để Việt Nam
có thể học những kinh nghiệm lịch  sử, theo kịp những tiến bộ của nhân 
loại, và giáo dục quần chúng để duy trì tinh  thần yêu nước, tạo nên căn
bản dựng nước và giữ nước, và nhất là để gìn giữ và  phát huy nền văn 
hóa cổ truyền dân tộc, cũng là nền văn hóa Phật Giáo, coi đây  như là 
một cách bảo tồn phẩm cách quốc gia.
Với quan niệm như vậy, trước hết, tôi xin được điểm 
qua vài  nét về hiện tình Phật Giáo trên thế giới.Ngày nay, thế giới đã 
nhận thức được  chân giá trị của Phật Giáo.Phật Giáo là một Đạo [danh từ
“tôn giáo” theo nghĩa  của Tây phương không thích hợp với Phật Giáo] mà
cốt tủy giáo lý về phương diện  xã hội là về lòng từ bi và chủ trương 
hòa bình.Hơn gì hết, Phật Giáo lại là Đạo  của trí tuệ. Trí tuệ là đặc 
tính quý báu nhất của con người.Cách đây hơn 2500,  Đức Phật đã dạy 
chúng ta như vậy trong Kinh Kalama: Người khuyên chúng ta nên sử  dụng 
trí tuệ thay vì vội tin. Phải chăng vì vậy mà ngày nay hiện tượng Phật 
Giáo  nở rộ khắp nơi trên thế giới, nhất là trong phương trời Âu Mỹ, đã 
là một sự kiện  không ai có thể phủ nhận.
Tuy Phật Giáo đang phát triển khắp nơi trên thế giới,
nhưng  chúng ta phải ghi nhận rằng, hiện tượng này rõ rệt nhất trong 
thế giới Tây  phương.Chúng ta biết rằng, trong các xã hội Tây phương, Ki
Tô Giáo đã là tôn  giáo chủ lực tinh thần của người dân qua gần 20 thế 
kỷ.Trong những xã hội này,  Ki Tô giáo, tôn giáo của "đức tin",tự nhận 
là tôn giáo tiến bộ và văn minh nhất,  tuyệt đối không có chút nào mê 
tín, theo nghĩa chỉ cần tin vào sự cứu rỗi của  một người Do Thái, 
Giê-su, mà theo các học giả, sau khi nghiên cứu kỹ lịch sử,  đã đi tới 
điểm đồng thuận là có một tiểu sử bất minh, và vai trò “cứu thế” của  
Giê-su chỉ là một huyền thoại được nền thần học Ki-Tô Giáo dựng lên.Tín 
đồ Ki Tô  Giáo được dạy rằng, tin như vậy thì sau khi chết, đến ngày tận
thế, xác chết sẽ  được Giêsu làmcho sống lại và hợp với phần hồn được 
lưu trữ ở một nơi nào đó, và  sẽ được sống cuộc sống đời đời bên Giê-su ở
trên Thiên đường.Phật Giáo, tôn giáo  của "trí tuệ", bị Ki Tô Giáo coi 
là thấp kém, hầu như không được biết đến trong  thế giới Tây phương cho 
tới hậu bán thế kỷ 19. Vậy tại sao hiện nay lại có hiện  tượng Ki Tô 
Giáo suy thoái khắp nơi, trong khi sự hâm mộ Phật Giáo, nhất là  trong 
giới trí thức trong các xã hội này, càng ngày càng gia tăng.Muốn hiểu 
điều  này chúng ta không thể nào tránh được việc bàn về những tiến bộ 
trí thức của con  người, đưa đến sự thay đổi của ảnh hưởng Ki Tô Giáo 
trên con người, và lẽ dĩ  nhiên, không thể không bàn về chủ đề: cái gì 
đã làm cho Phật Giáo hấp dẫn Tây  phương?
Sự phát triển của Phật Giáo trong thế giới Tây phương
có  nhiều nguyên nhân, nhưng tất cả có thể thu về một mối.Đó là: nhân 
loại đã nằm  trong một quá trình tiến hóa liên tục, một quá trình thiên 
nhiên trong vũ trụ,  không một thế lực nào có thể ngăn chận được.Sự tiến
hóa về mọi mặt của con người,  nhất là về mặt trí tuệ, tất nhiên đưa 
đến sự thoái hóa của những quan niệm, lý  thuyết và cả những niềm tin 
tôn giáo đã lỗi thời trong xã hội loài người.Do đó,  chúng ta có thể nói
rằng, ở Âu Mỹ, sự phát triển của Phật Giáo, một tôn giáo  “Duy Tuệ”, 
phản ánh sự tiến hóa của trí tuệ nhân loại, và dĩ nhiên phải đưa đến  sự
suy thoái của những niềm tin không còn thích hợp với trình độ hiểu biết
của  con người ngày nay.
Vài Nét Về Tình Trạng Suy Thoái Của Ki Tô Giáo:
Sự suy thoái của Ki Tô Giáo ở Tây phương là một sự 
kiện.Chính  Giáo Hoàng đương nhiệm, Benedict 16, cũng phải thú nhận như 
vậy.Theo những tin  tức báo chí trên thế giới và cả trên tờ thông tin 
chính thức của Vatican, tờ  L’Osservatore Romano, vào những ngày 27, 28 tháng 7, 2005, thì Giáo hoàng  Benedict 16 đã lên tiếng phàn nàn như sau:
“Những tôn giáo chủ đạo ở Tây Phương có vẻ đang 
chết dần  vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không còn cần 
đến Thiên Chúa  nữa”1 
Và những thống kê mới nhất cũng cho chúng ta thấy tình trạng  này.Trong tờ Chicago Tribune
ngày 19 tháng 6, 2006, ký giả hải ngoại  của tờ báo, Tom Hundley, có 
một bài tường trình, đăng trên trang nhất, về tình  trạng Ki Tô Giáo ở 
Âu Châu với chủ đề “Đức Tin Phai Nhạt: Sự Suy Thoái Của  Ki Tô Giáo ở Âu Châu” (Fading Faith:The Decline of Christianity in Europe)  trong đó có những đoạn như sau:
Ở Pháp và ở hầu hết các quốc gia khác ở Âu Châu, Ki Tô  Giáo có vẻ như đang đi xuống không phương cứu vãn
[Christianity appears to  be in a free fall:Tác giả dùng từ trong khoa 
học: “free fall”, có nghĩa là rơi  xuống tự do,càng ngày càng nhanh mà 
không có gì ngăn cản lại].Tuy 88% dân  Pháp nhận mình là tín đồ Công Giáo, chỉ có 5% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, 60%  nói rằng họ “không bao giờ” (never) hoặc “hầu như không bao giờ”  (practically never) đi lễ nhà thờ [Đối với người Công Giáo Việt Nam,  không đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật là một trọng tội, giáo hội dạy vậy].Không
còn phải bàn cãi gì nữa, Công Giáo đang đối diện với một cơn khủng 
khoảng nghiêm  trọng… Một lễ ngày chủ nhật điển hình trên khắp nước Pháp
là hình ảnh của một  linh mục già nua trước một đám phụ nữ cũng già 
nua.Odon Vallet, giáo sư tôn giáo  ở đại học Sorbonne nói: “Lễ Mi-sa 
thật là chán (Mass is boring), lễ  tiết chẳng có gì hay (the ceremony isn’t beautiful), nhạc cũng tệ  (music is bad), bài giảng không có gì hấp dẫn (the sermon is  uninteresting).
Năm 1990, linh mục David Rice dòng Đa Minh xuất bản cuốn  Lời Nguyện Tan Vỡ: Linh Mục Bỏ Đạo
(Shattered Vows: Priests Who Leave), đưa  ra kết quả nghiên cứu của ông
sau khi đi khắp nơi tổng cộng 38 ngàn dặm (khoảng  60 ngàn cây số) để 
phỏng vấn và tìm hiểu đời sống của các linh mục bỏ đạo:
Một trăm ngàn ( 100,000 ) linh mục Ca-tô Rô-ma đã bỏ đạo  trong 20 năm qua – cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có hơn một linh mục ra đi. Hầu
như phân nửa số linh mục Mỹ sẽ bỏ đạo – thường là để lập  gia đình – 
chưa tới 25 năm sau khi được tấn phong.Vatican không nói tới cuộc di  
dân này, nhưng đó chính là cuộc khủng khoảng nghiêm trọng nhất mà giáo 
hội phải  đối diện, kể từ khi có cuộc Cải Cách Tin Lành. 2
John Cornwell, một tín đồ Công Giáo và cũng là một 
chuyên gia  về Công Giáo và Vatican, tác giả 2 cuốn sách nổi tiếng về 
Vatican: A Thief  in the Night và Hitler’s Pope, đã viết thêm một tác phẩm về Công  Giáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Công Giáo (Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism), xuất bảnnăm  2001,trong đó chương đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối Của Công Giáo (A Catholic Dark Age).Trong chương này, tác giả John Cornwell đưa ra tình trạng suy thoái trầm trọng của Công Giáo ở khắp nơi trên thế giới,  đặc biệt là ở Anh, Mỹ, và Pháp như sau:
- Số tín đồ mang con đi rửa tội giảm sút, vì ngày nay  người ta nhận thức được rằng chẳng làm gì có tội ở đâu mà phải đi rửa;
- đám cưới tổ chức không cần đếnlinh mục,vì hôn phối có thể hợp thức hóa  ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất hết ý nghĩa;
- giới trẻ không buồn đến nhà thờ, vì chẳng thấy gì hấp  dẫn trong những lời giảng đi ngược thời gian của các linh mục; 
- số từ bỏ đức tin gia tăng, vì người ta không còn chịu  chấp nhận một đức tin mù quáng;
- từ 1958 đến nay, số vào nghề linh mục giảm đi 2/3 v..v.. 
- Tình trạng ở Châu Âu, trước đây là cái nôi của Công giáo,thật là thê thảm.
- Ở Tây Âu (Western Europe), từ 30 đến 50% các giáo xứ  không có linh mục. 
- Ở Ý, 90% theo Công Giáo nhưng chỉ có 25% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm  10% kể từ đầu thập niên 1980, số người vào học trường Dòng giảm  một nửa. 
- Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ Công giáo, số người cảm thấy mình 
được ơn  kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970 còn 91 năm 1999, số linh mục 
được tấn phong từ  259 xuống 43 trong cùng thời gian. 
- Trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các 
giám mục Âu  Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu 
đã quyết định sống  “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu” 3 
- Ở Nam Mỹ, tình trạng cũng không khá hơn.7000 tín đồ mới có một linh  mục.Chỉ có 15% giáo dân đi xem lễ ngày chủ nhật. 
- Theo một hội nghị quốc gia của các giám mục Ba Tây thì  mỗi năm có khoảngsáu trăm ngàn tín đồ bỏ đạo  4
Âu Châu và nhiều nơi khác trên thế giới đã trở thành 
“vô  thần”.Đây là một hiện tượng bất khả đảo ngược [free fall] vì nó phù
hợp với sự  tiến bộ trí thức của nhân loại nằm trong luật Tiến Hóa của 
vũ trụ.
Vài Nét Về Sự Thức Tỉnh Trí Thức Ở Tây Phương:
Tôn giáo Tây phương, Ki Tô Giáo, vẫn được coi, hay tự
nhận,  là tôn giáo mạc khải, tôn giáo duy nhất có giá trị trên thế 
gian.Vậy tại sao  Phật giáo đã làm cho Tây phương thức tỉnh, và thức 
tỉnh khỏi cái gì?Mặt khác,  nếu nền văn minh tiến bộ Tây phương mà Ki Tô
Giáo thường nhận là nền văn minh Ki  Tô Giáo thật sự có giá trị về vấn 
đề đạo đức, tâm linh, thì tại sao thế giới Tây  phương, nhất là giới trí
thức hiểu biết, lại không hài lòng với tôn giáo truyền  thống của mình 
mà lại thấy Phật Giáo hấp dẫn?
Nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta thấy thật ra sự thức 
tỉnh của  Tây phương không phải trong thời đại này mới xảy ra mà đã bắt 
nguồn từ sự tiến  bộ trí thức của con người ít ra là từ cuộc Cách Mạng Khoa Học (The  Scientific Revolution) vào đầu thế kỷ 17, từ Thời Đại Lý Trí(The Age of  Reason) vào thế kỷ 18, Thời Đại Khai Sáng (The Age of Enlightenment)  vào thế kỷ 19, và Thời Đại Phân Tích (The Age of Analysis) vào thế kỷ  20.Những thời đại này đã kéo con người Tây phương ra khỏi Thời Đại Của Đức  Tin (The Age of Faith), một thời đại mà sự thống trị của Công Giáo La Mã đã  đưa Âu Châu vào 1000 năm được biết dưới tên Thời Đại Trung Cổ (The  Middle Ages) hay Thời Đại Hắc Ám (The Dark Ages), hay Thời Đại Của  Sự Man Rợ Và Đen Tối Trí Thức (The age of barbarism and intellectual  darkness).
Qua các thời đại trên, sự tiến bộ trí thức của con 
người đã  từ từ văn minh hóa Ki-Tô Giáo, và riêng đối với Công Giáo La 
Mã, theo John E.  Remsburg, đã tước khỏi những bàn tay đẫm máu của Công 
Giáo những bó củi để thiêu  sống người và những thanh gươm để giết người
trong mấy trăm năm xử dị giáo và  săn lùng phù thủy.Mặt khác, sau khi 
Martin Luther ly khai với giáo hội Công Giáo  vào đầu thế kỷ 16, không 
công nhận chế độ giáo hoàng, để lập ra hệ phái mà Công  Giáo gọi là Phản
Thệ (Protestantism) mà chúng ta thường biết dưới cưỡng từ Tin  Lành, 
thì Thánh Kinh bắt đầu được dịch ra những tiếng địa phương, và cũng bắt 
đầu từ đó, những công cuộc nghiên cứu Thánh Kinh và về nhân vật Giê-su 
trong  Thánh Kinh phát triển.Kết quả của những công cuộc nghiên cứu này 
là người ta  khám phá ra rằng, Thánh Kinh không phải là những 
lời mạc khải của Thiên  Chúa như giáo hội thường dạy cho các tín đồ, mà 
chứa rất nhiều sai lầm, mâu  thuẫn, về thần học cũng như khoa học.Ngoài
ra, những công cuộc khảo cứu  này cũng đưa ra hình ảnh của một Giê-su 
lịch sử khác hẳn với vai trò thần linh  có khả năng cứu rỗi mà giáo hội 
Công Giáo đã tạo dựng lên.Những kết quả nghiên  cứu trí thức sâu rộng về
mọi mặt của Ki-Tô Giáo đã tác động trên não bộ của  người Tây phương.Và
cũng từ đây, những tín lý, tín điều, cũng như những  tín lý mà 
giáo hội Công Giáo gọi là "bí tích" đã không còn chỗ đứng trong những  
xã hội Tây phương, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội.Bởi vậy 
nên mới có  tình trạng sa sút của Công Giáo ở Tây phương như John 
Cornell đã trình bày trong  cuốn sách của ông.Để cho vấn đề được rõ 
ràng, sau đây chúng ta sẽ duyệt qua vài  tài liệu điển hình, kết quả của
những công cuộc nghiên cứu về nền Thần Học Ki Tô  Giáo, về Thánh Kinh 
cũng như về nhân vật Giê-su.
Russell Shorto, người đã tổng duyệt những công cuộc nghiên  cứu về Giê-su trong 200 năm, đã viết như sau trong cuốn Sự Thực Trong Phúc  Âm (Gospel Truth):
Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm 
khoa học  ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được 
giáo hội Công giáo  bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là 
phần lớn những điều chúng ta  biết về Giê-su chỉ là huyền thoại...
Các học giả đã biết rõ sự  thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su 
chẳng gì khác hơn là một người thường  sống với một ảo tưởng– họ đã dạy 
điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục  sư. Nhưng
những vị này vẫn giữ kín không cho đám con  chiên biết vì sợ gây ra 
những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó,  những người còn
sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường. 5
Trong cuốn "Theo Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa  Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Của Quyền Lực Thánh Kinh" (Going By the Book:  Past and Present Tragedies of Biblical Authority), Mục sư Ernie Bringas,  tốt nghiệp môn thần học tại đại học United Theological Seminary ở Dayton,  Ohio,nhận định rằng:
Với sự tái khám phá phương pháp khoa học trong 
thế kỷ 16  ở Âu Châu và sự tiến triển tiếp theo của thời đại Khai sáng 
trong thế kỷ 18, một  sự phân tíchThánh Kinh một cách thuần lý hơn là 
điều không thể tránh được.Trong  một thế giới đang trở 
thành hướng theo tinh thần khoa học, những mô tả về Chúa  đi trên sóng, 
về ma quỷ, thiên thần, những câu chuyện về sự sống lại của Chúa,và  
nhiều hiện tượng khác, càng ngày càng khó có thể chấp nhận như là những 
sự thực  lịch sử.
Trong những năm 1835-1836, cuốn "Khảo Sát Cặn Kẽ Về  Đời Sống của Giê-su" (The Life of Jesus Critically  Examined)củaD.F.Straussđãquymột số chuyện trong
Tân Ước là "huyền thoại"  và định nghĩa những câu chuyện phi lịch sử 
như trên là sự biểu thị của một chuỗi  những ý tưởng tôn giáo.Ngày nay, 
kết quả những cuộc nghiên cứu phân tích tiếp  tục hỗ trợ vàxác nhận sự 
khẳng định này. Đa số các học giả coi  những chuyện trong Tân Ước và bảy giáo lýgiáo hội đưa ra sau đây đều là huyền  thoại:
1.Đức Mẹ đồng trinh
2. Hiện thân của Chúa(Thượngđế hiệnthân thành người,  nghĩa là, Thượng đế là Giê-su.) 
3.Nhiệm vụ cứu rỗi của Chúa
4.Sự sống lại của Chúa.
5. Sự thăng thiên của Chúa (Thân xác Chúa bay lên trời 40  ngày sau khi sống lại)
6. Chúa trở lại trần (để làm sống lại những người chết  cho ngày phán xét cuối cùng)
7. Ngày phán xét cuối cùng (Chúa Cha phán xét luận tội  mọi người trong ngày Giê su trở lạitrần thế) 6
Nhận định trên của Mục sư Ernie Bringas đã chứng tỏ 
rằng nền  tảng tín ngưỡng của Ki Tô Giáo nói chung đã không còn hấp dẫn 
trong thế giới Tây  phương, thế giới của khoa học, của suy lý. Thật 
vậy,niềm tin cốt tủy của Ki Tô  Giáo là về huyền thoại con người sa ngã 
(tội tổ tông), bị Thượng đế phạt, cho  nên cần đến sự cứu chuộc của 
Giê-su, người con trai duy nhất của Thiên Chúa  (God's only son) được 
phái xuống trần để chuộc cái tội tổ tông cho nhân loại,nay  đã trở thành
chuyện khiến cho người có đầu óc khó có thể tin được vìthuộc loại  mê 
tín và vô nghĩa như Giám Mục John Shelby Spong đã viết như sau trong 
cuốn  Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Hay Chết(Why Christianity Must Change or  Die), trang99:
Nhân loại chúng ta không sống trong tội 
lỗi.Chúng  ta không sinh ra trong tội lỗi.Chúng ta không cần phải rửa 
sạch cái tì vết tội  tổ tông trong lễ rửa tội.Chúng ta không phải là 
những tạo vật sa ngã, mất đi sự  cứu rỗi nếu chúng ta không rửa tội.Do 
đó, một đấng cứu thế có nhiệm vụ khôi phục  tình trạng tiền sa ngã của 
chúng ta chỉ là một sự mê tín trước thời -Darwin và  một sự vô nghĩa sau
thời -Darwin.7
Giám mục Spong nhận định không sai, vì  chính Giáo hoàng John
Paul II đã lên tiếng chính thức trước thế giới, công nhận  thuyết Big 
Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người, và  
phủ nhận sự hiện hữu của thiên đường và hỏa ngục như được mô tả trong 
nền thần  học của Ki Tô Giáo. Do đó, những huyền thoại trong Ki Tô Giáo 
như “tội tổ tông”,  nhiệm vụ “cứu chuộc” của Giêsu, đời sống đời đời 
trên thiên đường, người không  tin Giêsu bị đầy xuống hỏa ngục v..v.., 
tất cả đã không còn có một giá trị nào  trong thế giới ngày nay.Nhưng
hiển nhiên là đa số tín đồ Ki Tô Giáo  bình thường trên thế giới, nhất 
là những tín đồ Công Giáo trong những ốc đảo ở  Việt Nam, không hề biết 
đến những sự kiện đã xảy ra trong chính tôn giáo của  mình, cho nên họ 
vẫn tiếp tục bị các “bề trên” bưng bít che dấu, và tiếp tục bị  lừa dối 
trong những niềm tin mà nay đã trở thành những điều mê tín của thời  
Trung Cổ.Thật là tội nghiệp.Chúng ta đã thấy, việc mở mang dân trí thật 
là quan  trọng như thế nào, nếu chúng ta muốn đất nước của chúng ta được
cập nhật hóa bởi  những thông tin mới nhất về vấn đề tôn giáo.
Nếu những huyền thoại về Giê-su nay đã không còn chỗ 
đứng  trong giới hiểu biết thì vai trò củaCha Giê-su (God) ra sao?Trong 
cuốn Những  Phê Bình về Thiên Chúa (Critiques of God), biên tập
bởi Peter A. Angeles,  trong đó có 16 tác giả phê bình về mọi lý luận 
thần học của Ki Tô Giáo, trang  xiii, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây:
Những niềm tin vào những đấng siêu nhiên đã biến  khỏi nền văn hóa của chúng ta.Bất
cứ sự sùng tín nào về Thiên  Chúa cũng đang trở thành mờ nhạt trong nền
văn hóa của chúng ta.Thiên Chúa đã  mất đi trụ xứ trong không gian như 
là một nước trên Thiên đàng.Ông ta cũng mất  đi chỗ đứng trong vũ trụ 
như là đấng đã sáng tạo ra nó từ hư vô.Không  phải là Thiên Chúa bị đẩy ra một vùng xa lắc xa lơ.Không phải vì ông ta trở  thành một trừu tượng vô thân thể (không nam không nữ).Mà  vì chúng ta nhận thức ra rằng chẳng làm gì có Thiên Chúa để mà nói tới. 8
Trong cuốn Thoát Ly Khỏi Thiên Chúa: Lấy Lại Khả Năng Tìm  Hiểu (Freedom From God: Restoring The Sense of Wonder, Almador Pub., 2001),  Mục sưHarry Willson viết, trang 55, 59:
Trong đầu óc của rất nhiều người biết suy tư,  lương thiện và có thiện chí, Ki Tô Giáo đã trở thành không còn thích hợp, vì nó đòi hỏi con người dự phần quá nhiều vào những điều vô  nghĩa. Bất cứ khi nào, một người nào đó [Giáo hoàng của  Công Giáo] tự
nhận mình là đại diện của Thiên Chúa trên trái đất,  hay "đại diện của 
Chúa Ki Tô trên trái đất", hay bất cứ điều nào như vậy,là hắn  ta đòi 
hỏi thế giới phải tin vào điều vô nghĩa. Thật  là kinh hoàng khi vẫn có nhiều triệu người [Công giáo]tin như vậy. 9
Về cuốn Kinh Thánh của Ki Tô Giáo, có một điều mà giới hiểu  biết về Kinh Thánh đã biết ngay từ đầu thế kỷ 20 là:
Các học giả Âu Châu đã phân tích cuốn 
Kinh Thánh  kỹ hơn bao giờ hết, và kết luận của họ là: Kinh Thánh không 
phải là cuốn sách do  Thượng đế [của Ki-tô giáo] mạc
khải mà viết  ra, như các Ki Tô hữu đã tin, do đó không thể sai 
lầm.Thật ra, đó chỉ là một hợp  tuyển lộn xộn những huyền thoại cổ xưa, 
truyền thuyết, lịch sử, luật lệ, triết  lý, bài giảng đạo, thi ca, 
chuyện giả tưởng, và một số ngụy tạo rất hiển nhiên. 10
Và chúng ta hãy đọc nhận định của một học giả Công Giáo,  Joseph L. Daleiden, trong cuốn The Final Superstition, trg. 174, như  sau:
Có rất ít, nếu có, điều sáng tác độc đáo trong giáo pháp  mà người ta cho là của Giêsu. Giống
như chính huyền thoại về  Giêsu, những quan điểm mà Giêsu diễn đạt chỉ 
là một mớ hổ lốn những ngụ ngôn và  luân lý mà chúng ta có thể thấy 
trong những đạo cổ xưa của Ai Cập, Babylon, Ba  Tư, Hi Lạp, Phật, Khổng,
Ấn Độ...Một điều rõ ràng:Ki Tô Giáo, một tôn giáo sinh  sau đẻ muộn 
trong lịch sử các tôn giáo, chỉ cóp nhặt những quan điểm, ý kiến của  Do
Thái Giáo và các tôn giáo gọi là dân gian. Trong cuốn  "Nguồn Gốc Luân Lý Trong các Phúc Âm", Joseph McCabe (Một Linh Mục Công  giáo)
đã trích dẫn những quan điểm luân lý trong Phúc Âm mà người ta cho là  
của Giêsu song song với những quan điểm luân lý tương đương và yhệt của 
các tác  giả Do Thái và dân gian. 11
Sự thức tỉnh của Tây phương không chỉ thuần túy là vì
những  giá trị tín ngưỡng Tây phương nay đã sụp đổ mà còn vì một khía 
cạnh khác không  kém phần quan trọng.Đó là cái lịch sử của Ki Tô 
Giáo.Ngày nay, các học giả ở  trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô 
đã xác định rằnglịch sử Ki Tô Giáo  làmột lịch sử đen tối, đẫm máu nhất,
đưa đến việc Giáo hoàng tiền nhiệm John  Paul II phải xưng thú 7 núi 
tội lỗi của Công Giáo đối với nhân loại và xin được  tha thứ.Đề tài này 
không thuộc nội dung của bài viết cho nên tôi xin phép được  bỏ qua.
Trên đây chỉ là một số tài liệu điển hình nói về 
những nguyên  nhân và tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo tại phương 
trời Âu Mỹ.Chúng  ta nên để ý là tất cả những tài liệu trên đều 
được viết bởi các học giả và giới  chức lãnh đạo trong Ki Tô Giáo, không
có một tài liệu nào của ngoại đạo hay của  bất cứ tôn giáo hay ý thức 
hệ nào khác.Tôi đặc biệt nhấn mạnh điểm này.
Sự suy thoái của tôn giáo Tây phương tuyệt 
đối không  phải vì sự "xâm lấn" của Phật Giáo để cướp đi tín đồ của các 
tôn giáo Tây phương,  vì lịch sử Phật Giáo trải dài hơn 2500 năm nay đã 
chứng tỏ rằng, Phật Giáo chưa  bao giờ làm đổ một giọt máu hay cưỡng 
bách bất cứ ai trong quá trình truyền đạo. Sự suy thoái của tôn
giáo Tây phương là điều tất nhiên phải xảy ra khi  mà người Tây phương,
ít ra là trong giới trí thức hiểu biết, đã thức tỉnh để  nhận ra thực 
chất tôn giáo truyền thống của mình và cùng lúc nhận ra được chân  giá 
trị của Phật Giáo.Đây là một điểm rất đặc biệt mà chúng ta cần ghi nhận,
vì nếu Phật Giáo không có chân giá trị thì không thể nào đi vào
thế giới  Tây phương, nơi đây sự tiến bộ trí thức đã tạo nên truyền 
thống đặt nặng tinh  thần khoa học, thực dụng, lôgic, và quyền được thắc
mắc, nghi ngờ và chất vấn,  một truyền thống không xa lạ gì với Phật 
Giáo, nhưng bị phủ nhận trong truyền  thống của Ki Tô Giáo.
Đưa ra tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung,
Công  Giáo nói riêng, ở phương trời Âu Mỹ, và sự phát triển của Phật 
Giáo ở phương  trời này, tôi không có mục đích nào khác là nêu lên một 
sự kiện lịch sử, và một  sự kiện lịch sử thì không thiên vị, không có 
tính chất phe phái.Đây cũng là điều  cần thiết để cho người Việt chúng 
ta thấy rõ một sự kiện khác là:vì bị suy thoái  và không còn cơ cứu vãn ở
Tây phương, nguyên là cái nôi của Ki Tô Giáo,Ki  Tô Giáo đã có 
kế hoạch vớt vát qua sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo ở Á  Châu, 
trong đó có Việt Nam.Đây là một vấn nạn nghiêm trọng mà Việt Nam phải 
đối  phó.Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một phần sau.
Chúng ta thấy rằng, từ những công cuộc nghiên cứu mới
nhất về  Thánh Kinh, về nhân vật Giê-su, về Ki Tô Giáo nói chung, giới 
thức giả Tây  phương đã thức tỉnh và nhận ra rằng, từ thế hệ này qua thế
hệ khác, trải qua  2000 năm lịch sử, từ khi Giê-su sinh ra đời, con 
người Tây phương đã bị giam  chặt trong một đức tin thuộc loại mù quáng,
không cần biết, không cần hiểu.Hơn  nữa, trước những cảnh chiến
tranh triền miên, thiên tai, bệnh tật, cảnh khổ,  cảnh chết đói ở những
nước kém mở mang ở Phi Châu, bất cứ người nào còn có đầu  óc suy tưđều 
không còn có thể chấp nhận luận điệu thần học về một Thiên Chúa  toàn 
năng, toàn trí, và những thuộc tính của Thiên Chúa như : "Thiên Chúa quá
thương yêu thế gian...", "Giê-su yêu tất cả mọi người", "Giê-su đến để
mang một  tin vui, tin vui tình thương, tin vui tự do..." v..v.. 
Tất nhiên, khi đã mất niềm tin, về nền tảng tín 
ngưỡng cũng  như về thực chất hành trì của các giáo hội Ki Tô, con người
Tây phương cần phải  đi tìm một cái gì khác để bù đắp vào nhu cầu tâm 
linh của mình.Tất cả những tôn  giáo độc thần khác như Hồi Giáo, Do Thái
Giáo, bản chất đều như nhau, không thể  thỏa mãn nhu cầu tâm linh thích
hợp với thời đại này của người Tây phương.Do đó,  Tây phương đã phải đi
tìm sự uyên thâm về tư tưởng ở Đông phương.Đông phương có  Phật Giáo, 
Lão Giáo, Khổng Giáo, và Ấn Độ Giáo.Ấn Độ Giáo thờ nhiều thần, không  
thích hợp với người Tây phương.Khổng giáo là những triết lý về xã hội và
có  những điều nay không còn hợp thời.Lão giáo thì thoát tục, xa lìa 
trần thế.Chỉ  còn có Phật Giáo, vừa là một tôn giáo nhân chủ và nhân 
bản, vừa là một hệ thống  triết lý thực dụng chẳng bao giờ lỗi thời, vừa
có tinh thần khoa học, cho nên có  thể nói là thích hợp với con người 
Tây phương nhất.Một cuốn sách xuất bản mới  đây của Vicky MacKenzies đã 
chứng minh sự kiện này.Cuốn sách có tên là Tại  Sao Lại Là Phật Giáo? Người Tây Phương Đi Tìm Kiếm Sự Uyên Thâm Của Trí Tuệ
(Why Buddhism?Westerners In Search Of Wisdom), nxb Tronsons, Anh quốc, 
và đề năm  xuất bản là 2003.Sau đây chúng ta sẽ đi vào vài chi tiết để 
tìm hiểu xem cái gì  của Phật Giáo đã hấp dẫn Tây phương.
Vài Nét Về Sự Chấp Nhận Phật Giáo Ở Tây Phương:
Sự thức tỉnh trí thức ở Tây Phương đã làm cho Tây 
Phương nhận  rõ được chân giá trị của Phật Giáo.Không được tiếp xúc với 
Phật Giáo và Phật  Giáo thường bị xuyên tạc bởi Ki Tô Giáo, và nhất là 
sống trong định chế toàn trị  như Công Giáo trong nhiều thế kỷ, nên 
người dân Tây Phương thường biết rất ít về  thực chất của Phật Giáo.Tuy 
Phật Giáo đã được Tây phương biết đến từ hậu bán thế  kỷ 19 với Paul 
Carus và người ông bảo trợ, Daisetz T. Suzuki, rồi sau đó với  những bậc
trí thức nổi danh trong xã hội Tây phương về những công cuộc nghiên  
cứu Phật Giáo như Edwin Arnold, Rhys Davids, Edward Conze, Christmas 
Humphreys,  Theodore Stcherbatsky, Sangharakshita v..v.. nhưngPhật Giáo 
hầu như chỉ được  biết tới trong giới trí thức có thể nói là rất giới 
hạn.Phải đến hậu bán thế kỷ  20, khi đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng 
sang định cư ở Ấn -độ, cộng với cuộc vận  động cho hòa bình, chấm dứt 
chiến tranh của Thiền sư Nhất Hạnh, và cuộc tranh  đấu của Phật Giáo ở 
Nam Việt Nam vào năm 1963, đại chúng trong thế giới Tây  phương mới biết
nhiều đến Phật Giáo, và từ đó Phật Giáo mới bắt đầu phát triển  mạnh ở 
Tây phương.
Trong sự phát triển nhanh chóng của Phật Giáo này, 
Phật Giáo  Việt Nam đã góp phần không nhỏ.Trước đây Tây phương, đặc biệt
là giới trí thức,  chỉ biết tới Phật Giáo qua những khảo luận trí thức 
của một số học giả.Trong  cuộc chiến ở Việt Nam, cuộc vận động cho hòa 
bình của Thiền Sư Nhất Hạnh, cuộc  tranh đấu của Phật Giáo đưa tới cao 
điểm là cuộc tự thiêu của Bồ Tát Thích Quảng  Đức và một số Tăng Ni, 
Phật tử khác đã làm vang động thế giới.Hình ảnh ngọn lửa  từ bi bốc lên 
từ nhục thân Bồ Tát Thích Quảng Đức ngồi trong tư thế kiết già,  lưng 
ngay, cổ thẳng, vững như trái núi, đã được truyền đi khắp thế gìới làm 
chấn  động nhân tâm thế giới và làm cho thế giới xúc động.
Người Tây phương, quen thuộc với phương pháp bành 
trướng hay  bảo vệ Ki-Tô Giáo bằng gươm đao, súng đạn mà họ cho rằng để 
vinh danh Chúa, cho  nên lúc đầu không hiểu nổi hành động tự thiêu của 
các Phật tử.Nhưng sau khi hiểu  rõ Phật Giáo hơn, họ hiểu rằng hành động
tự thiêu là một hành động đại hùng đại  lực, từ bi tích cực, để chuyển 
hóa, thức tỉnh lương tâm con người đang chìm đắm  trong màn vô minh dày 
đặc, chứ không phải là vì hận thù hoặc vì danh lợi trong  những mục đích
chính trị.Từ những nhận thức này, người Tây phương đã bị hấp dẫn  bởi 
những sắc thái vị tha, cao cả, xả thân, và nhân bản của Phật Giáo.Và, 
với  đầu óc tiến bộ của xã hội Tây phương, thiên về suy lý và tin vào 
khoa học, người  Tây phương một khi đã đi vào Phật Giáo đều nhận thấy 
cái tinh thần khai phóng,  chân thực, từ bi, hòa bình, và hữu hiệu của 
giáo lý và các phương pháp hành trì  của Phật Giáo.
Năm 1969, John H. Garabedian & Orde Coombs xuất bản cuốn  Những Tôn Giáo Đông Phương Trong Thời Đại Điện Tử (Eastern Religions In The  Electric Age), hình bìa ngoài là hàng chữ lớn viết lên tường: Chúa Ki-Tô Đã  Chết - Phật Đang Sống
(Christ Is Dead - Buddha Lives), nội dung nói về cuộc  nổi giậy đạo đức
ở Mỹ (moral revolt in America), phân tích tại sao hàng triệu  giới trẻ 
đang vứt bỏ những truyền thống của họ và tìm kiếm những giải đáp mới  
trong những tư tưởng và tôn giáo Đông phương (Why millions of young 
people are  rejecting their own traditions and seeking new answers in 
the ideas and  religions of the East).Hiển nhiên Phật Giáo đã cung ứng 
cho họ một món ăn tinh  thần mà họ khao khát.Hãy nhìn vào số trí thức 
Tây phương trong các tôn giáo độc  thần đã đi theo Đức Đạt Lai Lạt Ma 
học Đạo, hay theo Thầy Nhất Hạnh học Thiền và  số Kinh điển, sách Phật 
Giáo v..v.. đã được xuất bản ở Âu Mỹ thì chúng ta có thể  thấy ảnh hưởng
của Phật Giáo trên thế giới Tây phương ngày nay như thế nào.
Năm 1994, Stephen Batchelor xuất bản cuốn Sự Thức Tỉnh  Của Tây Phương (The Awakening of the West), nội dung viết về lịch sử tiếp  xúc của Phật Giáo với Tây phương.Cuốn sách được giới thiệu như sau:
"Cuốn "Sự Thức Tỉnh Của Tây Phương" là một cuốn 
viết rất  hay về lịch sử tiếp xúc của Phật Giáo với Tây phương trong 
2000 năm qua - một  cuốn sử biên về những cơ hội bỏ lỡ, sự kiêu căng văn
hóa, thảm kịch chính trị,  và những giấc mộng không thành.Từ thời đại 
đế Alexandre, các vua chúa và giáo  hoàng Tây phương đã mong mỏi kiếm 
được quyền lực bằng cách chinh phục Á Châu.Qua  nhiều thời kỳ họ đã phái
từng đợt sứ giả và các nhà truyền giáo tới Á Châu để  tiếp xúc với 
những người "ngoại đạo", nhưng tâm thức hẹp hòi  của người Tây phương đã làm cho những người này chẳng biết được bao nhiêu về  Phật Giáo.
Ngày nay Phật Giáo được coi như là một 
tôn giáo  phát triển nhanh nhất và là một trong những phong trào tinh 
thần có ảnh hưởng  nhiều nhất ở Tây phương."  12
Sau đây là một trường hợp điển hình về sự thức tỉnh 
của con  người Tây phương ra khỏi những mê lầm của tôn giáo truyền thống
của mình: sự  xuất bản cuốn Tinh Túy Của Phật Giáo (The Essence of Buddhism), tác giả  là John Walters.
Cuốn sách nhỏ này, vào khoảng 150 trang, rất đặc 
biệt, vì đó  là tác phẩm của một người trưởng thành trong truyền thống 
Ki Tô, được dạy Phật  Giáo là một tôn giáo yếm thế, vô vọng, một dạng sơ
khai của chủ thuyết hiện sinh  v..v.., và tin rằng Ki Tô Giáo là tôn 
giáo duy nhất có ích cho nhân loại.Nhưng  sau một chuyến du hành Thái 
Lan, Miến Điện, Tích Lan, ông ta đã thấy tận mắt  thực chất của Phật 
Giáo, hoàn toàn không như những điều ông đã được nhồi vào đầu  từ khi 
còn nhỏ.Ông bèn suy nghĩ lại, tìm hiểu lịch sử và so sánh Ki Tô Giáo với
Phật Giáo.Ông nghĩ tới “những sai lầm và tội ác của những Giáo hội Ki Tô và  những giới chức lãnh đạo trong quá khứ”
(the blunders and crimes of the  churches and their leaders in past 
ages), những lễ tiết (rituals) trong Ki Tô  Giáo mà ông cho là có tính 
cách “mê tín tàn bạo” (sadistic  superstition) và so sánh với“một trong những sự vinh quang nhất của Phật  Giáo là tinh thần khoan nhượng” (one of the greatest glories of Buddhism is  its tolerance).
Chân giá trị của Phật Giáo đã làm cho John Walters 
thức tỉnh,  thức tỉnh khỏi những điều sai sự thực, mê muội mà tôn giáo 
truyền thống của ông  đã đầu độc đầu óc ông từ khi ông còn nhỏ.Và đây là
sự thức tỉnh về tư duy, một  khả năng quý báu nhất của con người.
Vài Nét Về Phật Giáo Việt Nam:
Có thể nói Phật Giáo là Đạo của dân tộc, Đạo “làm 
người” của  dân tộc Việt Nam. Vì Phật Giáo là một Đạo nhân chủ và nhân 
bản, coi con người  đúng nghĩa là con người, rất phù hợp với truyền 
thống anh hùng, yêu nước của dân  tộc Việt Nam, nên ảnh hưởng của Phật 
Giáo trên nền văn hóa dân tộc Việt Nam quả  thực là to lớn, khó có thể 
lường được. Thật vậy, ảnh hưởng của Phật Giáo trên  nền văn hóa dân tộc 
thực là sâu đậm, sâu đậm đến độ người ta không còn phân biệt  được đâu 
là văn hóa Phật Giáo và đâu là văn hóa dân tộc. Đây là một sự kiện  
không ai có thể phủ bác. Sở dĩ như vậy là vì Phật Giáo đã đi vào dân tộc
Việt  Nam, không bằng con đường giáo điều khô cứng, không bằng con 
đường ru ngủ dân  chúng (có tác dụng như thuốc phiện) với những hứa hẹn 
hão huyền, mà bằng con  đường trí thức, con đường phát triển trí tuệ, tự
lực tự cường, và nhất là không  chống lại những truyền thống của dân 
tộc Việt Nam. Với những giáo lý nhân bản và  những triết thuyết cao 
siêu, phù hợp với tinh thần khoa học, Phật Giáo đã đáp  ứng được những 
đòi hỏi suy luận trí thức của giới có học. Với bản chất hòa bình,  bao 
dung, bình đẳng, và những giáo lý giản dị, Phật Giáo cũng đã đáp ứng 
được  khao khát của giới bình dân, ít học. Từ đó, Phật Giáo đã đi vào 
dân gian, hội  nhập trong dân gian, trên mọi giới, để tạo nên một tinh 
thần Phật Giáo dính liền  với một tinh thần yêu nước cao độ của người 
Việt Nam. Có thể nói, Đạo Phật là  nền tảng đạo đức và tinh thần không 
thể thiếu của người dân Việt Nam.
Kể từ khi Phật Giáo du nhập vào Việt Nam đến nay đã 
ngót hai  mươi thế kỷ, Phật Giáo chưa bao giờ phản bội dân tộc, liên kết
với kẻ ngoại xâm,  giết hại đồng bào. Phật Giáo Việt Nam chưa bao giờ 
nhận lệnh của bất cứ chức sắc  ngoại quốc nào, lệ thuộc bất cứ một tổ 
chức chính trị hay tôn giáo quốc tế nào.  Và cũng nhờ đó mà Việt Nam đã 
bao lần thành công trong việc đánh đuổi ngoại xâm,  từ những thế kỷ đầu 
cho tới hạ bán thế kỷ 20. Với một lịch sử du nhập như vậy  chúng ta hẳn 
không lấy làm lạ khi thấy tinh thần Phật Giáo thể hiện sâu đậm  trong 
mọi bộ môn của nền văn hóa Việt Nam như văn chương, thi ca bác học cũng 
như bình dân, trong nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc v.v...
Phật Giáo không thể đứng ngoài dân tộc, do đó, ngoài 
trách  nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo, mọi Phật tử, Tăng cũng như 
Tục, còn phải có  bổn phận đối với quốc gia dân tộc, một bổn phận nặng 
nề hơn, vì sự tồn vinh của  dân tộc cũng là sự tồn vinh của Phật Giáo. 
Nếu chúng ta không hiểu được điều này  thì không bao giờ có thể hiểu 
được cái sinh lực Phật Giáo trong lòng dân tộc.  Muốn duy trì cái sinh 
lực Phật Giáo này trong lòng dân tộc, người Phật tử phải  tích cực trong
nhiệm vụ chung là bảo vệ và hiển dương Đạo Pháp, song song với  nhiệm 
vụ xây dựng xã hội, đất nước.
Một trong những vấn đề chính trong xã hội ngày nay mà
Phật  Giáo cần phải đối phó là Phật Giáo phải có cái dũng để ngăn chặn 
những kẻ xấu vì  lòng cuồng tíntôn giáo, vì vô minh, vì tự ty trước Phật
Giáo v..v.. nên thường  xuyên ra công xuyên tạc đánh phá Phật Giáo 
trong sách lược xâm lăng văn hóa và  tôn giáo của dân tộc Việt Nam.Trọng
trách này đòi hỏi chúng ta phải vận dụng đến  trí tuệ, đến sự hiểu 
biết, và nhất là đến tâm từ bi của Phật Giáo trong mục đích  chuyển hóa.
Trong một phần trên tôi đã nêu lên một sự kiện, đó 
là: vì  không còn chỗ đứng, không còn cơ cứu vãn ở Tây phương, cái nôi 
của Ki Tô Giáo  trước đây, Ki Tô Giáo đã có kế hoạch vớt vát qua sách 
lược xâm lăng văn hóa và  tôn giáo ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Toan 
tính của Ki Tô Giáo trong sách  lược này là mang đồ Tây phương đang từ 
bỏ, phế thải dần dần, để nhập cảng sang Á  Châu với tất cả những thủ 
đoạn không chính đáng với mục đích cải đạo Á Châu dựa  trên một môn thần
học mới mang mỹ danh “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách  Châu Á”.Tuy
trong thực tế Ca Tô Giáo Rô Ma và Tin Lành vẫn còn chống đối  nhau, thù
ghét nhau, nhưng về phương diện truyền đạo sang Á Châu, cả hai giáo  
phái Ki Tô này đều hợp sức cùng nhau sử dụng vũ khí “Thần học Ki Tô Giáo  theo cung cách Châu Á”, phối
hợp với những thủ đoạn như dùng vật chất để  mua chuộc giới chức có 
quyền cũng như khuyến dụ dân nghèo, và dùng chiêu bài  chính trị như Dân
Chủ, Đa Nguyên, Nhân Quyền, Tự Do Tôn Giáo v..v.. để cải đạo Á  
Châu.Công Giáo dựa thế Vatican, Tin Lành dựa thế cường quốc Mỹ, và có
vẻ  như Nhà Nước cũng như Phật Giáo Việt Nam khá thụ động trước âm mưu 
xâm lăng văn  hóa và tôn giáo này.Đây chính là vấn nạn mà Phật Giáo Việt
Nam cần phải quan tâm  và đối phó. Vậy thì chúng ta cần phải biết rõ kế hoạch xâm lăng văn hóa  và tôn giáo ở Á Châu của Ki Tô Giáo là như thế nào.
Bản “Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu” của Giáo Hoàng  John Paul II tung ra cuối năm 1999 và cuốn “Thần Học Ki Tô Giáo Theo Cung  Cách Châu Á”,
một tuyển tập gồm các bài viết của Mục sư Tống Tuyền Thịnh (Choan  Seng
Song), người Đài Loan, được một số nhân viên trong Ủy Ban Đoàn Kết Công
Giáo T.P. HCM tuyển dịch và ấn hành vào tháng 8 – 1991, về bản chất 
không khác  gì nhau, vì cùng nhắm một mục đích: cải đạo Á Châu qua những
thủ đoạn có thể nói  là bất chính và bất lương trí thức.Điều đáng để ý 
là Công Giáo Việt Nam đã lấy  một tác phẩm thần học của một Mục sư Tin 
Lành làm đề tài hội thảo với mục đích  rao bán “quyền năng cứu chuộc” 
của Thiên Chúa.Đây là một chuyện hiếm có, vì từ  xưa tới nay, Công Giáo 
luôn luôn khẳng định Giáo hội Công Giáo là phương tiện  cứu rỗi duy 
nhất, không có sự cứu rỗi ở ngoài giáo hội Công Giáo, theo như tinh  
thần bản văn Dominus Jesus mà Hồng Y Ratzinger tung ra trước 
đây, với  sự chấp thuận của Giáo hoàng John Paul II.Điều này cho thấy 
Công Giáo và Tin  Lành cùng có chung một sách lược cải đạo Á Châu dựa 
trên cái gọi là “Thần  học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu.” 
.Nhưng điều đáng nói ở đây là tuy  Vatican đã biết rõ là chẳng làm gì có
cái gọi là sự “cứu rỗi” của Giêsu (qua sự  kiện Giáo hoàng John Paul II
công nhận thuyết Big Bang, thuyết Tiến Hóa, và phủ  nhận sự hiện hữu 
của thiên đường và hỏa ngục), Vatican vẫn tung ra những tài  liệu như “Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu” ,“Dominus Jesus”, phụ  họa với tài liệu “Thần Học Ki Tô Giáo Theo Cung Cách Châu Á” của
mục sư  Tống Tuyền Thịnh ở Đài Loan, để rao bán “ơn cứu chuộc” của 
Giêsu cho đám dân  thấp kém, ít hiểu biết.Đó là đạo đức tôn giáo của các
bậc lãnh đạo Công Giáo  cũng như Tin Lành.
Nội dung bản “Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu”
của  Giáo hoàng Công Giáo John Paul II là một mớ trích dẫn từ Thánh 
Kinh Ki Tô Giáo  một cách chọn lọc, ngoài toàn bộ vấn đề (out of 
context), đưa ra những  luận điệu lừa dối những đầu óc yếu kém,
ít học, về một chương trình cứu độ của  Thiên Chúa tại Á Châu trong 
khithực chất chỉ là âm mưu xâm lăng văn hóa và tôn  giáo Á Châu.
Khi cuốn Thần Học Ki Tô Giáo Theo Cung Cách Châu Á
của Mục sư Tống Tuyền Thịnh được Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo T.P. HCM 
dùng làm đề  tài thảo luận cho một cuộc hội thảo vào đầu thập niên 1990,
thì Tỳ Kheo Thích  Nhật Từ ở Việt Nam đã thuyết trình một bài Phê Bình 
cuốn sách này trong cuộc hội  thảo đó, vànhư chúng ta đã biết, Tỳ
Kheo Thích Nhật Từ đã vạch ra những  sai lầm của Mục sư Tống Tuyền 
Thịnh qua những thủ đoạn xuyên tạc lịch sử, xuyên  tạc và hạ thấp giáo 
lý Phật Giáo để tô hồng quảng cáo cho cái gọi là “quyền năng  cứu chuộc”
của Thiên Chúa mà chúng ta đã biết đó chỉ là một sự mê tín tiền –  
Darwin và sự vô nghĩa hậu – Darwin.Bài thuyết trình của Tỳ Kheo
Thích  Nhật Từ đã được in thành sách ở Việt Nam và được phổ biến trên 
một số trang nhà  Phật Giáo, và được in lại trong cuốn “Ki-Tô Giáo: Kế Hoạch Cải Đạo Á Châu”,
nhà xuất bản Á Châu, Hè 2005, cùng với hai tác giả khác:Ngô Triệu Lịch
và Trần  Chung Ngọc.Hai tác giả này đã phê bình chi tiết bản “Tông Huấn Giáo Hội Tại  Á Châu” của Công Giáo và đã vạch ra những thủ đoạn bất chính trong sách  lược cải đạo Á Châu của Ki Tô Giáo trong cuốn sách trên.
Tiếc thay, một con én không làm nổi mùa xuân.Từ 1991 
đến nay,  ngoài Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, có vẻ như thật hiếm hoi, khó mà 
tìm được những  trưởng tử Như Lai quan tâm đến mặt trận văn hóa để bảo 
vệ Đạo Pháp.
Dưới chiêu bài Thần Học Ki Tô Giáo Theo Cung Cách Châu Á, Ki Tô Giáo toan tính mang đồ phế thải ở Âu Châu sang tặng Á Đông, theo ngôn  từ trong bản “Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu”
của Giáo hoàng John Paul  II. Nhưng nền thần học Ki Tô Giáo, bất kể với
nhãn hiệu gì, ngày nay đã không  còn chỗ đứng trong những xã hội văn 
minh tân tiến.Bởi vì, trước những khám phá  khoa học mà không ai có thể 
phủ bác về nguồn gốc vũ trụ, về thuyết Tiến Hóa v..v..,  mà chính Giáo 
Hoàng của Công Giáo cũng phải chấp nhận, một Thiên Chúa “sáng tạo”  ra 
vũ trụ và con người cách đây khoảng 6000 năm như được viết trong Thánh 
Kinh  đã trở thành một chuyện vô nghĩa, chỉ còn có thể mê hoặc được 
những đầu óc chưa  được mở mang đúng mức.
Thực chất nền thần học Ki Tô Giáo là gì.Không ai rõ hơn là  chính những người trong đạo.Chúng ta hãy đọc một đoạn trong cuốn Một Linh  Mục Hiện Đại Xét Về Giáo Hội Lỗi Thời Của Mình (A
Modern Priest Looks At  His Outdated Church), một cuốn sách đã được một
số trí thức trong cũng như ngoài  giáo hội ca tụng, của linh mục James 
Kavanaughnhận xét như sau về nền Thần học  Công Giáo, trang 6:
Tuy nhiên, nền Thần học của chúng ta đã trở thành
một trò  chơi học thuật.Đó là một mớ luật lệ tích tụ trong sự cay đắng 
tôn giáo của những  cuộc tranh chấp nhỏ mọn.Đó là một 
chuyện cổ tích về những chân  lý đã nhàm chán, chỉ có tác dụng tước đoạt
trách nhiệm cá nhân của con người và  hạ thấp con người thành một nô lệ
vô danh sợ sệt. Thần  học đã tước đoạt đầu óc con người và chỉ để lại trong họ những lời học thuộc  lòng...
Đó là nền Thần học mà tôi đã học và truyền lại trong  mọi kỳ xưng tội 
mà tôi nghe, trong mọi lớp học tôi dạy, trong mọi bài giảng tôi  nói cho
đám con chiên đầy mặc cảm tội lỗi 13
Giáo sư David Voas, đại học New Mexico, Hoa Kỳ,tác giả cuốn  sách khảo cứu Tân Ước nổi tiếng: Cuốn Thánh Kinh Mang Tin Dữ: Cuốn Tân Ước (The Bad News Bible: The New Testament) đã viết trong phần dẫn  nhập như sau:
Thật là đáng xấu hổ... Thần học - chấp nhận như 
là môn  học về Thiên Chúa - bị coi là không có chủ đề nào, hoặc ít nhất 
là không có chủ  đề nào chúng ta có thể nghiên cứu. Đó là ngành học duy nhất với  những chuyên gia thực sự không biết mình đang nói cái gì.
Vì không có chất liệu cho chủ đề, các nhà Thần 
học phải  xử dụng đến hai lãnh vực kỳ quặc: óc tưởng tượng và Giáo 
quyền...Ngày nay, các  tư tưởng gia Ki Tô có nhiệm vụ chứng tỏ Thánh 
Kinh có ý nghĩa, nhất quán, và có  vẻ như là có thể biện hộ cho vấn đề 
luân lý đạo đức trong đó.Điều này có thể  thật là khó khăn. 14
Ngoài ra, H. L. Mencken (1880-1956), một Văn hào Mỹ, đã viết:
"Thần học: một nỗ lực để giải thích cái không thể biết  được bằng cách đặt sự giải thích vào những cái không đáng biết"  15
Và Alfred North Whitehead (1861-1947), một nhà Toán học và  Triết gia Mỹ cũng đưa ra nhận định:
Tôi coi nền thần học Ki Tô Giáo như là một trong những  tai họa lớn của nhân loại.16
Và cũng vì vậy mà John E. Remsburg đã viết trong cuốn  Những Điều (Công Giáo) Nhận Vơ Sai Sự Thực (False Claims,  p. 3)
Trong những giới thông minh ở Âu Mỹ, nền Thần học Ki Tô  trên thực tế đã chết.17
Đó là thực chất các nền thần học của Ki Tô Giáo, và chúng ta  có thể tin chắc rằng, Thần Học Ki Tô Giáo Theo Cung Cách Châu Á, một
vũ  khí mới của Ki Tô Giáo trong sách lược cải đạo Á Châu, cũng không 
ra ngoài những  nhận định như trên củagiới trí thức, học giả, cũng như 
bậc lãnh đạo trong Ki Tô  Giáo.Đây là vấn đề chúng ta cần nắm vững nếu 
chúng ta bắt buộc phải đối thoại  với Ki Tô Giáo.Tại sao?Nhà thần học 
Công Giáo Hans Kung đã nhận định trong cuốn Ki-Tô Giáo (Christianity), trang 783:
Không có hòa bình giữa các tôn giáo thì sẽ có 
chiến tranh  giữa các nền văn minh khác nhau.Không thể có hòa bình giữa 
các tôn giáo nếu  không có sự đối thoại giữa các tôn giáo. Không thể có sự đối  thoại giữa các tôn giáo mà không có sự nghiên cứu về những nền tảng của các tôn  giáo.18
Thật ra thì nhà thần học Hans Kung chỉ muốn nói đến 
các tôn  giáo thờ độc thần như Ki Tô Giáo, gồm có Công Giáo, Tin Lành, 
và Chính Thống, và  Hồi Giáo, Do Thái Giáo, vì các tôn giáo này, hay hệ 
phái tôn giáo này, thường  chém giết tàn sát lẫn nhau mỗi khi có cơ hội,
kéo dài cho đến tận ngày nay, chứ  nhu cầu đối thoại không có trong 
Phật Giáo, vì bản chất Phật Giáo là một tôn  giáo, nếu có thể gọi là một
tôn giáo, chủ trương hòa bình, không chống đối bất  cứ một tôn giáo nào
khác, trừ phi phải vận dụng trí tuệ để giải hoặc những chống  phá Phật 
Giáo, đến từ các thế lực vô minh.Ở Việt Nam, theo Linh Mục Lương Kim  
Định thì Công Giáo, khi du nhập vào Việt Nam, đã biến xã hội Việt Nam 
đang thống  nhất, thành hai phe Lương, Giáo đối nghịch mà sự nghi kỵ khó
có thể xóa sạch  được.Do đó, dù không có nhu cầu đối thoại, 
Phật Giáo cũng phải nghiên  cứu nền tảng của Ki Tô Giáo để mà có một căn
bản đối thoại khi cần.Một kiến thức  chắc chắn về nền tảng của Ki Tô 
Giáo, trong thời đại mới, còn cần thiết hơn nữa,  khi mà Phật Giáo phải 
đối diện với sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo của Ki  Tô Giáo.
Đối với người Việt Nam, chúng ta cần phải ý thức được
rằng  chiêu bài “đối thoại” hay “liên tôn” của Công Giáochỉ là những 
bình phong chiêu  dụ những người ngoại đạo nhẹ dạ, ngây thơ, kém hiểu 
biết, hám danh, lao đầu vào  cái bẫy của Công Giáomà không biết đến 
những âm mưu của họ trong chính sách xâm  lăng văn hóa và tôn giáo Á 
Châu, cũng như không biết rằng mục đích chính của  Công Giáo không phải 
là “đối thoại” hay “liên tôn” mà chỉ là những chiến thuật  giai đoạn 
nhằm mục đích đồng hóa Phật Giáo vào Ki Tô Giáo.Cũng may, số người rơi  
vào cái bẫy này không nhiều, không có uy tín trong quần chúng, nếu ở 
trong Phật  Giáo thì thực chất của họ chỉ là những con nội trùng kém đạo
đức, nên ảnh hưởng  hay kết quả những cuộc hợp tác “đối thoại” hay 
“liên tôn” của họ với Công Giáo,  nếu có, có thể nói là không đáng kể, 
không cần phải quan tâm.Tuy vậy, Phật tử  cũng không nên vìthế mà lơi 
là, không chịu tìm hiểu kỹ các vấn đề, áp dụng hạnh  từ bi một cách 
thiếu sáng suốt, và để mặc cho Công Giáotự tung tự tác trong sách  lược 
cải đạo Á Châu.
Chúng ta cần phải vạch trần âm mưu dùng “đối thoại” 
để truyền  giáo và cải đạo của Ki Tô Giáo cho quần chúng biết rõ, báo 
động nguy cơ xâm lăng  của Công Giáovà Tin Lành, và nhất là buộc những 
người Công Giáophải lương thiện,  thẳng thắn và thành thật đối với chúng
ta qua những hành động cụ thể chứ không  chỉ có trên đầu môi chót lưỡi 
hay trên mặt văn tự. Ví dụ, người Công Giáongày  nay nói rằng họ có tinh
thần dân tộc, hội nhập văn hóa dân tộc.Vậy hành động cụ  thể của họ 
phải là từ bỏ tinh thần nô lệ Vatican, từ bỏ lệ thuộc Vatican về hành  
chánh cũng như về vấn đề tâm linh, vì thực chất cấu trúc của Vatican là 
cấu trúc  của một chính quyền, của một quốc gia, do đó là một ngoại 
bang, và tinh thần dân  tộc Việt Nam là không bao giờ chịu nô lệ ngoại 
bang, và văn hóa Việt Nam thì  không bao giờ có thể tương hợp với văn 
hóa Ki Tô Giáo.
Để cho vấn đề rõ ràng hơn và cũng để cho người dân 
biết rõ  hơn về kế hoạch xâm lược văn hóa và tôn giáo Á Châu của 
Vatican, sau đây tôi sẽ  trình bày sơ lược về vài thủ đoạn điển hình 
trong sách lược cải đạo Á Châu của  Công Giáovà Tin Lành.
1. Thủ đoạn rất quen thuộc của Công 
Giáovà  Tin Lành trong sách lược cải đạo Á Châu gồm hai mặt: tấn công và
chống đỡ.Trong  mặt tấn công, họ xử dụng mánh mưu “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu”,
lấy một số giáo lý của Phật giáo, xào xáo, thay đổi làm thành giáo điều
của Ki  Tô Giáo, đồng thời tung ra những bản văn xuyên tạc, hạ thấp 
Phật Giáo, mạ lỵ  tăng đoàn v..v..Nếu Phật Giáo không có phản ứng thì họ
sẽ lấn tới bằng mọi thủ  đoạn.Nếu Phật Giáo phản ứng để phản bác thì họ
giữ im lặng, lợi dụng bản tính  hiền hòa và khoan nhượng tôn giáo của 
người dân Á Châu, đưa ra mặt chống đỡ, tạo  trong quần chúng một ý tưởng
là chính Phật Giáo là phe khởi xướng cuộc tranh  chấp tôn giáo, gây 
chia rẽ, làm mất tình hòa hợp đoàn kết quốc gia.Ngoài ra, họ  còn mua 
chuộc, hối lộ các chính quyền địa phương để ngăn chận sự phổ biến những 
tài liệu phản kháng, vạch trần âm mưu của họ, trong quần chúng.Thủ đoạn
này đã  thành công phần nào ở Thái Lan và ở Việt Nam.Người dân ít hiểu biết và  ngay cả chính quyền cũng rất dễ bị lừa dối bởi thủ đoạn này, không nhận  thức được bộ mặt thật của Ki Tô Giáo.
2. Lợi dụng cảnh nghèo khó của người
dân, họ  thường bỏ tiền ra mua tín đồ, hoặc giúp đỡ chút ít về vật 
chất, đồng thời truyền  đạo bằng những điều mê hoặc, lừa dối quần chúng 
về “ơn cứu chuộc của Giêsu” mà  thực chất chỉ là một cái bánh vẽ trên 
trời.Câu truyền tụng trong dân gian Việt  Nam: “theo đạo có gạo mà ăn” 
không phải là không có cơ sở thực tế.Đây là sách  lược chung của Công 
Giáo và Tin Lành.Ngay trên đất Mỹ, hiện tượng Tin Lành bỏ  tiền ra mua 
tín đồ cũng đã xảy ra ở một vài nơi.Nhà thờ Tin Lành ở Harvey đã kêu  
gọi dân trong vùng đi lễ nhà thờ và khi ra về mỗi người sẽ được tặng 
$25.Mục sư  cai quản nhà thờ Harvey tuyên bố: “Phát tiền ra chỉ là một phương pháp để  truyền bá phúc âm” (Giving away cash is just one way of spreading the  gospels), điều cần là kéo họ đến nhà thờ để họ nghe giảng.
3. Họ đánh đồng quan niệm về ông 
Trời của  Việt Nam với Chúa Trời của họ, bất kể là quan niệm về ông Trời
của Việt Nam  tuyệt đối không phải là về một anh thợ mộc ở Do Thái, 
Giêsu, một người thường  như mọi người khác nhưng sống với một ảo tưởng,
đã được nền thần học Ki Tô Giáo  dựng lên làm Chúa cứu thế cho cả nhân 
loại.Thủ đoạn này đang được cả Công Giáo  lẫn Tin Lành khai thác tối đa 
để lừa dối những người dân thấp kém.
4. Họ dựng đứng lên những điều vô 
cùng hoang  đường và có tính cách huênh hoang hỗn xược:Đức Phật chỉ là 
một nhà tiên tri hay  “ngôn sứ” của Thiên Chúa, hay đã được Thiên Chúa 
mạc khải cho để sửa soạn cho  vai trò cứu thế của Giê-su v..v..,tuy rằng
chẳng ai biết Thiên Chúa là cái gì và,  như chúng ta đã biết, thế giới 
Tây phương đang sống như là không có Thiên Chúa  hay ít ra là không cần 
đến Thiên Chúa, một sản phẩm tưởng tượng của người dân Do  Thái trong 
thời bán khai.
5. Một trong những vũ khí hữu hiệu nhất của Ki Tô 
Giáo là  phóng đại bộ mặt từ thiện bác ái để tô hồng quảng cáo cho Ki Tô
Giáo trong khi  thực chất những công việc từ thiện này không như họ 
thường quảng cáo.Đây có thể  nói là sự thành công nhất của giáo hội Công
Giáo, cũng như Giáo hội đã thành  công cấy vào đầu các tín đồ hình ảnh 
một giáo hội thánh thiện, tông truyền, duy  nhất v..v.. trong khi thực 
ra lịch sử của giáo hội là một lịch sử thô bạo, đẫm  máu, chứa đầy những
chuyện ô nhục nhất thế gian: thánh chiến; tòa hình án xử dị  giáo; săn 
lùng và thiêu sống phù thủy; chủ trương diệt chủng Do Thái; không ít  
giáo hoàng ác độc, tàn bạo, hoang dâm, vô luân; không ít linh mục loạn 
dâm:  cưỡng dâm nữ tu Công Giáo (các sơ), trẻ em phụ tế, nữ tín đồ 
v..v... và không ít  nữ tu đang tâm bạo hành trẻ em cũng như dự phần 
trong chính sách diệt chủng ở  Rwanda?Lẽ dĩ nhiên chúng ta không thể dựa
vào những trường hợp cá biệt nêu trên  để mà tổng quát hóa vấn đề đạo 
đức trong Công Giáo.Nhưng chúng ta không thể  không đặt ra câu hỏi:Tại 
sao một tôn giáo thường tự nhận là do Thiên Chúa mạc  khải, do Chúa 
Giê-su thành lập, thánh thiện, tông truyền, duy nhất v..v.. lại có  một 
lịch sử đen tối như vậy và lại có thể đào tạo ra một số linh mục, nữ tu 
vô  đạo đức như vậy trong khi những chuyện ô nhục này không hề xảy ra 
trong các tôn  giáo mà Ki Tô Giáo gọi là “thấp kém”?Câu trả lời nằm 
trong câu hỏi đối với những  người không cần đến kiến thức của các học 
giả mà chỉ cần có một đầu óc còn đôi  chút suy nghĩ để có thể nhận ra 
bản chất chân thật của Ca Tô Giáo là như thế nào.
Những tổ chức từ thiện của Công Giáo đã được B. S. Rajneesh,  tác giả cuốn Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn (Priests & Politicians: The Mafia of the Soul), nhận định như sau, trang 25:
Nếu con người nghèo đói, họ có thể dễ bị dụ vào 
Ki Tô  Giáo, đặc biệt là Ca Tô Giáo.Những trường học, nhà thương, và 
viện mồ côi của họ  chẳng qua cũng chỉ là những xưởng để dụ người ta trở
thành tín đồ Ca Tô 19
Rajneesh đã không nhắc đến sự kiện là với những sự 
trợ cấp  của chính phủ và sự đóng góp của những người có từ tâm, nhiều 
cơ sở "từ thiện"  đã là những nguồn kinh tài cho giáo hội, vơ vét tiền 
bạc trên sự đau khổ của các  trẻ em mồ côi và những người xấu số.Tưởng 
chúng ta cũng nên biết thêm một sự  kiện về những tổ chức "từ thiện" của
Vatican.Sách vở, báo chí và TV Âu Mỹ đã  phanh phui ra vụ Vatican dùng 
những cơ quan từ thiện như Caritas International,  Red Cross và một số 
tu viện làm những đường giây gọi là "Giây chuột" (Ratlines)  với những 
dịch vụ như cấp căn cước giả, thông hànhgiả, tài chánh v..v.. cho  nhiều
tội phạm chiến tranh Đức Quốc xãẩn náu trong các tu viện chờ cơ hội 
chuồn  sang Nam Mỹ, phần lớn là sang Á Căn Đình (Argentina).
Nói tóm lại, những công cuộc “từ thiện” của Ki Tô 
Giáo, Ca Tô  Giáo cũng như Tin Lành, chỉ là những sơn phết màu mè che 
dấu những âm mưu đen  tối đàng sau.Tuy vậy, những lớp sơn phết này cũng 
đánh lừa được nhiều người, kể  cả những chính quyền phi Ki-Tô không biết
rõ bản chất “từ thiện” của Ki Tô Giáo,  chỉ nhìn thấy mặt ngoài thường 
xuyên được Ki Tô Giáo thổi phồng mà không để ý  đến những mánh mưu gây 
tác hại cho quốc gia dân tộc về sau
6.Và gần đây, Công Giáo cũng như Tin
Lành  còn đưa ra sách lược nham hiểm: dùng bọn người trí thức nô lệ mất
gốc, đưa ra  những tác phẩm xuyên tạc lịch sử, phủ nhận công ơn của 
những anh hùng dân tộc,  tôn vinh những kẻ bán nước cầu vinh, hạ thấp 
nền văn hóa Việt Nam, nhất là lịch  sử và văn hóa Phật Giáo, hoặc đánh 
đồng khập khiễng vài nét văn hóa Việt Nam  hoặc Phật Giáo với nền văn 
hóa Ki Tô, ngụy trang đằng sau những chiêu bài đầu  môi chót lưỡi 
như“Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu”, hoặc “quay về với  
truyền thống dân tộc, hội nhập văn hóa dân tộc”, trong khi bản chất độc 
tôn  cuồng tín về “Chúa KiTô là đấng trung gian duy nhất”, nô lệ Vatican
vẫn không  thay đổi.
Những mánh mưu và luận điệu tuyên truyền lừa bịp của họ không  thể kể hết và phân tích trong phạm vi bài viết này.
Vài Lời Kết.
Ngày nay,Ki Tô Giáo, Công Giáo và Tin Lành, dựa vào 
thế lực  giả tạo của Vatican và thế lực của cường quốc Mỹ, nấp sau những
chiêu bài như  “đối thoại”, “hòa hợp tôn giáo”, “tự do dân chủ”, “nhân 
quyền”, “tự do tôn giáo”  để thúc đẩy chương trình bành trướng cải đạo Á
Châu, một lục địa đông dân và tài  nguyên phong phú.Không còn mấy giá 
trị đối với giới trí thức hiểu biết, mất dần  ảnh hưởng trong những quốc
gia văn minh tiến bộ, Ki Tô Giáo phải tìm đất sống ở  những nơi tình 
trạng xã hội chưa ổn định, dân trí còn kém mở mang, và dân chúng  còn 
nghèo khó, còn chịu nhiều bất công xã hội.Á Châu là miếng mồi ngon nhất,
thích hợp nhất, từ đó nền “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu” đã được đề xướng để thực hiện âm mưu xâm lăng văn hóa và tôn giáo Á Châu của Ki  Tô Giáo.Âm
mưu này có thành tựu hay không, tất cả tùy thuộc thái độ của  các Giáo 
hội Phật Giáo địa phương và chính sách giáo dục và tôn giáo của các  
chính quyền địa phương ở Á Châu.
Qua sự phân tích ở trên,chúng ta đã biết rõ thực chất của cái  gọi là “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu”
là như thế nào.Đó  chẳng qua chỉ là một tập hợp những thủ đoạn truyền 
đạo xảo quyệt, bất chính, bất  lương trí thức của những tổ chức thế tục 
mang danh tôn giáo.Cho nên chúng ta  không lấy gì làm lạ trước những 
phản ứng của Á Châu để đối phó với sách lược Cải  Đạo Á Châu của Ki Tô 
Giáo. Thái Lan đã có những phản ứng tích cực trước những  thủ đoạn bất 
chính của Ki Tô Giáo.Trung Quốc có chính sách rất cứng rắn đối với  Ki 
Tô Giáo và mới đây đã tự tấn phong vài Giám mục Công Giáo bất kể đến 
những  phản đối của Vatican muốn giữ độc quyền trong vấn đề này.Lòng yêu
nước của dân  Nhật đã vô hiệu hóa sự xâm nhập của Ki Tô Giáo vào trong 
xã hội Nhật.Còn Việt  Nam thì sao?
Theo thiển ý, Phật Giáo có đủ sáng suốt để 
đưa ra một  sách lược đối phó hữu hiệu.Thật ra sách lược này rất đơn 
giản.Chúng ta chỉ cần  đặt nỗ lực trong vấn đề mở mang dân trí, đưa ra 
và phổ biến rộng rãi trong quần  chúng những sự thật, tuyệt đối chỉ là 
những sự thật, trong Ki Tô Giáo.Những sự  thật này nằm ngay trong cuốn 
Kinh Thánh của Ki Tô Giáo và lịch sử 2000 năm của  Ki Tô Giáo.Đây là một
kho tài liệu mà chúng ta có thể khai thác đến vô tận.Chúng  ta hãy nhớ 
lời của Samuel Butler:“Người Ki Tô không sợ những tội lỗi, họ chỉ  sợ sự thật.”
Đối với những nhà truyền giáo nói lên những luận điệu
thần  học để hạ thấp Đức Phật, để tô hồng quảng cáo cho Ki Tô Giáo, 
chúng ta chỉ cần  đặt trước mặt họ cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo và bất
cứ cuốn Kinh Phật nào rồi  bảo họ hãy giải thích sự trái ngược về luân 
lý và đạo đức chứa trong hai cuốn  sách trên, và hãy so sánh tư cách, 
trí tuệ của Đức Phật với tư cách và trí tuệ  của Thiên Chúa trong Thánh 
Kinh, cùng bảo họ hãy so sánh lịch sử truyền bá Đạo  Pháp của Phật Giáo 
với lịch sử truyền đạo của Ki Tô Giáo.
Tôi tin rằng Phật Giáo sẽ phải giữ một vai trò và một
địa vị  xứng đáng, quan trọng trong xã hội Việt Nam, nhất là trong thời
đại mà những tệ  đoan xã hội theo nếp sống Tây phương đã phần nào làm 
suy yếu nền đạo đức tinh  thần cổ truyền của xã hội Việt Nam.Tôi tin 
tưởng rằng nếu giới Phật tử chúng ta  chịu khó bắt tay vào làm việc, 
đóng góp ý kiến v..v.. về vị thế của Phật Giáo  trong thời đại mới, thì 
Phật Giáo sẽ có nhiều cơ hội phát triển, và do đó sẽ có  nhiều đóng góp 
tích cực cho sự an sinh của quần chúng Việt Nam.
Vấn đề cấp bách của chúng ta ngày nay là phải xét xem
Ki Tô  giáo có thể làm được những gì với sách lược Cải Đạo Á Châu của 
họ, và sách lược  này có ảnh hưởng gì đến đất nước Việt Nam.Sách lược 
của giáo hội Công giáo cũng  như Tin Lành, chúng ta đã rõ, là một sách 
lược chủ trương xóa bỏ mọi nền văn hóa  phi Ki-Tô, dùng bạo lực thắng 
công lý, dùng gian xảo, dối trá để lừa dối dân  gian, dùng bả vật chất 
và mê tín dị đoan để chiêu dụ và giữ tín đồ, dùng những  phép lạ ngụy 
tạo để huyễn hoặc làm mê mẩn đầu óc tín đồ v..v.. Lịch sử thế giới  đã 
ghi rõ điều này, và kinh nghiệm cay đắng của Việt Nam đối diện với sự 
xâm  nhập của Công Giáo còn ghi rõ trong sử sách.Ở đây, sách lược truyền
giáo của  Công Giáo đã đưa tới những cảnh bất hòa trong những gia đình 
nào có người bỏ tôn  giáo truyền thống của gia đình, của dân tộc, để tin
theo những lời dụ dỗ huyền  hoặc của Công Giáo, từ bỏ không còn tôn 
trọng những lễ tiết truyền thống trong  gia đình.Công Giáo cũng đã đưa 
tới những cảnh Lương Giáo nghi kỵ, thù nghịch,  tàn sát lẫn nhau như 
lịch sử đã chứng tỏ.Chính quyền và người dân Việt Nam cần  nghiên cứu kỹ
để biết rõ những âm mưu lũng đoạn quốc gia Việt Nam, và nhất là  thái 
độ “không đội trời chung” của Công Giáo đối với Cộng Sản, để biết đường 
mà  tránh đi trên con đường đưa tới sự tự hủy diệt.Thế lực của Công Giáo
hoàn vũ  ngày nay chỉ là một lớp sơn phết bên ngoài, thực lực càng ngày
càng yếu, không  còn nắm quyền sinh sát như ngày trước, cho nên muốn gì
giáo hội chỉ còn biết cầu  nguyện.
Do đó chúng ta cần có những biện pháp đối phó.Tại
sao  lại phải đối phó?Bởi vì KiTô giáo chưa hề thay đổi trong sách lược
truyền đạo,  và sách lược này luôn luôn xúc phạm đến các tôn giáo và 
các nền văn hóa truyền  thống địa phương.Ki Tô giáo không thể chấp nhận ý tưởng hòa hợp tôn  giáo theo quan niệm đa tôn giáo bình đẳng trên thế giới.Mục
đích tối hậu  của Ki Tô Giáo là xóa bỏ những nền văn hóa phi-Ki-Tô để 
thay vào đó bằng nền văn  hóa Ki Tô Giáo, một nền văn hóa chỉ có giới 
chăn chiên và con chiên, từ đó họ  mới có thể ngự trị trên những tín đồ 
thấp kém và vơ vét của cải thế gian như  lịch sử đã chứng tỏ ở Âu 
Châu.Đây là một thái độ nguy hiểm, phương hại đến nền  hòa bình thế 
giới.
Trên đây chỉ là vài ý kiến của một cư sĩ Phật Giáo 
Việt Nam  trong thời đại mới.Đối với Phật Giáo Việt Nam, tôi chỉ có một 
hi vọng.Đó  là,trong mục đích tìm ra một hướng đi đích thực cho Phật 
Giáo Việt Nam trong thế  kỷ 21, Phật tử chúng ta, tăng cũng như tục, hãy
tích cực học hỏi để thấu hiểu và  hội nhập được những chân lý vô ngã, 
vô thường của Đức Phật, ngồi lại với nhau,  xóa bỏ những khác biệt có 
tính cách cục bộ, lấp đi cái hố ngăn cách giữa những  Giáo Hội Phật Giáo
ở trong nước cũng như ở hải ngoại, để có thể định một đường  hướng 
tương lai cho đạo Phật ở Việt Nam, một đường hướng có lợi cho dân tộc và
Đạo Pháp. Tôi ước mong các vị tôn đức trong Phật Giáo hãy rút lấy 
những kinh  nghiệm trong quá khứ, nhận rõ tình trạng Phật Giáo hiện nay,
hướng dẫn giới cư  sĩ chúng tôi, ngồi cùng với nhau để lái con thuyền 
Phật Giáo Việt Nam thuận buồm  xuôi gió trên giòng chấn hưng và phát 
triển Phật Giáo ở Việt Nam.
Cuối cùng, trong mục đích xây dựng, tôi xin đặt một 
vấn đề  trước Phật Giáo Việt Nam.Như trên tôi đã trình bày, hào quang 
Phật Giáo đã chiếu  tỏa trên toàn cõi Việt Nam trong 2000 năm.Nhưng 
những hào quang đó có thể duy  trì được bao lâu với hiện tình Phật Giáo 
Việt Nam ngày nay và trước âm mưu cải  đạo Á Châu của Ki Tô Giáo?Đây là 
một câu hỏi lớn mà tôi xin đặt trước quý vị tôn  đức trong Phật Giáo nơi
quê nhà.Kinh điển, giáo lý sâu sắc của Phật Giáo có đủ  để chuyển hóa 
tâm linh con người không?Khi xưa, người dân tìm đến Phật Giáo qua  cái 
gì, phải chăng qua cái gương đạo đức, tác phong thoát tục của các bậc 
xuất  gia?Sức mạnh của Phật Giáo là ở đâu?Phải chăng chỉ là ở bộ áo cà 
sa và những  nghi thức ma chay cúng tế?Hay ở vài hình thức vật chất bên 
ngoài v..v..?Ai cũng  biết sức mạnh của Phật Giáo là ý thức được lý vô 
thường, buông bỏ chấp ngã, chấp  danh, chấp tướng, đoàn kết sống trong 
lục hòa, và ý thức được sức mạnh của Phật  Giáo là sức mạnh tinh thần, 
sức mạnh đạo đức của các bậc tu hành, sức mạnh của  chuyển hóa v..v.. 
chứ không phải là những quyến rũ của danh, lợi, địa vị, quyền  lực, vật 
chất v..v...Tôi chỉ đặt vấn đề trước quý vị, hiển nhiên quý vị là những 
người biết rõ hiện tình Phật Giáo nơi quê nhà hơn ai hết, và cũng hiển 
nhiên là  quý vị có trách nhiệm trước lịch sử về sự hưng thịnh hay suy 
thoái của Phật Giáo.
Theo GS.TS Trần Chung Ngọc (Hoa Kỳ) - Sách Hiếm 
__________________________________________________________
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Mainstream churches in the West appear to  be dying as societies that are increasingly secular see less need for God.
2. 100000 Roman Catholic 
priests  have walked out in the last 20 years – more than one every two 
hours.Almost half  of all American priests will leave – most often, to 
marry – before the 25th anniversary of their ordination.The 
Vatican won’t talk about this exodus, yet it  is the most grievous 
crisis to face the Church since the Protestant Reformation.
3. At a special synod in 1999, the 
bishops  of Europe declared that the peoples of the entire continent had
decided to live  “as though God did not exist”.
4. According to the National Conference of  Brazilian Bishops, some 600000 Catholics leave the Church each year.
5. Most important, the impact of the
scientific perspective is having now that even scholars working under a
conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of 
Jesus is  myth... Scholars have known the truth – that Jesus was nothing
more than a man  with a vision – for decades; they have taught it to 
generations of priests and  ministers, who do not pass it along to their
flocks because they fear a backlash  of anger.So the only ones left in 
the dark are ordinary Christians.
6.With the rediscovery of the 
scientific  method in 16th-century Europe and the subsequent evolvement 
of the Enlightenment  during the 18th-century, it was inevitable that a 
more rational analysis of  Scripture would occur.In a world becoming 
scientifically oriented, descriptions  of walking on water, of demons, 
angels, resurrection stories, and other  phenomena grew increasingly 
unacceptable as historical realities.
In 1835-1836, The Life of Jesus Critically Examined, 
by D. F.  Strauss, referred to some NT narratives as "myth" and defined 
thoseunhistoricalelementsas expressing a series of religious  
ideas.Today,analytical studies continue to support and confirm this  
assertion.The majority of scholars regard the following NT accounts and 
Church-developed doctrines as myth:
1.The virgin birth
2.The Incarnation (God in human form; that is, God as Jesus)
3.The work of Atonement (plan for salvation)
4.The resurrection
5.The ascension (Jesus' bodily ascent into heaven 40 days  after the resurrection)
6.The Second Coming (the return of Jesus to raise the dead  and to summon all to
the Last Judgment)
7.The Last Judgment (the judgment of all by God at Christ's  Second Coming)
7.We human beings do not live in 
sin.We are  not born in sin.We do not need to have the stain of our 
original sin washed away  in baptism.We are not fallen creatures who 
will lose salvation if we are not  baptized... A savior who restores us 
to our prefallen status is therefore  pre-Darwinian superstition and 
post-Darwinian nonsense.
8.Beliefs in supernatural beings 
have  vanished from our culture.Any general serious belief in God is 
fading in our  culture.God has lost his spatial location as a monarch in
heaven.He has lost his  temporal precedence to the universe as its 
Creator ex nihilo.It is not God is  being relegated to a remote 
region.It is not that God has become a bodiless  abstraction (a sexist 
It).It is the realization that there is no God to which to  relate.
9.Christianity has become 
irrelevant, in the  minds of so many thoughtful persons of good will and
honesty, because it  requires so much participation in nonsense.
Whenever someone claims to be the representative of 
God on  earth, or "the Vicar of Christ on earth", or any such thing, he 
is asking the  world to believe in nonsense.It is alarming how many 
millions still believe it.
10. European scholars were 
scrutinizing the  Bible more closely than ever before.They had concluded
that it (the Bible) was  not, as Christians had long believed, a book 
dictated by God and therefore  infallibly true.It was, instead, a 
disorderly anthology of ancient myths,  legends, history, law, 
philosophy, sermons, poems, fiction, and some outright  forgeries.
11.There is very little, if 
anything, that  is original in the teaching attributed to Jesus.Like the
myth of Jesus itself,  the sentiments he expresses are a hodgepodge of 
aphorisms and moral convictions  that can be found in the ancient 
Egyptian, Babylonian, Persian, Greek, Buddhist,  Confucian, and Hindu 
religions...But one thing is certain:Christianity, a  late-comer in the 
history of religion, merely plagiarized sentiments from  Judaism and the
so called pagan religions.In his book Sources of Morality in  the Gospels,
Joseph McCabe [a Catholic priest] quoted the moral views  attributed to
Jesus in the gospels and in parallel columns gave exact moral  
equivalents from Jewish and pagan writers.
12.The "Awakening of the West" is a beautifully 
written  history of the Encounter of Buddhism with the West during the 
past 2000 years -  a chronicle of missed opportunities, cultural 
arrogance, political tragedy, and  unfulfilled dreamd.Since the time of 
Alexander the Great, European kings and  popes longed for the power to 
be gained through the conquest of Asia.They sent  periodic streams of 
envoys and missionaries to establish contact with the  "infidels," but 
the European's narrow-mindedness prevented them from learning  much at 
all about Buddhism.
Buddhism is said to be the fastest growing religion and one  of the most influential spiritual movements in the West.
13. Our theology, however, has 
become a  scholar's game.It is a code of rules accumulated in the petty 
wars of religious  bitterness.It is a tale of tired truths, which only 
serve to rob man of personal  responsibility and reduce him to the 
listlessness of a frightened slave.Theology  took away man's mind and 
left him memorized words... This is the theology I  learned and 
transmitted in every confession I heard, every class I taught, every  
sermon I gave to the guilt-infected flock.
14.It's a shame... Granted, theology
- the  study of God - suffers from the suspicion that it has no 
subject, or at least  none we can study.It is the only field with 
experts who don't know what they are  talking about. Their subject 
matter being inaccessible, theologians must resort  to the odd couple of
imagination and authority... Christian thinkers now have  the job of 
showing that scripture makes sense, is consistent, and appears  morally 
defensible.This can be difficult.
15. Theology: an effort to explain the  unknowable by putting it into terms of the not worth knowing.
16. I consider Christian theology to be one  of the great disasters of the human race..
17. Among the intelligent classes of Europe  andAmerica, Christian theology is practically dead.
18.Whithout peace between the 
religions, war  between the civilizations.No peace among the religions 
without dialogue between  the religions.No dialogue between the 
religions without investigation of the  foundations of the religions.
19. If people are poor and hungry, 
they can  be easily converted to Christianity, particularly into the 
Catholic Church.Their  schools, their hospitals, their orphanages are 
nothing but factories for  converting people into Catholics.