Phật giáo Việt nam suốt chiều dài lịch sử từ khi du
nhập đến nay cũng đã khẳng định được điều đó thông qua những tác phẩm
nghệ thuật bao gồm nhiều khía cạnh như văn học, kiến trúc, chùa tháp,
điêu khắc hội hoạ và âm nhạc nghi lễ.
Lễ nhạc trong Phật giáo Việt Nam
Phật giáo Việt Nam có cả một kho tàng
âm nhạc nghi lễ ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam cho thấy nền âm nhạc nghi
lễ ở nước ta hết sức phong phú về hình thức và đa dạng về chủng loại.
Trong
tôn chỉ hoằng pháp độ sanh, các Tổ sư ngày xưa đã biết dùng âm nhạc
nghi lễ làm phương tiện dẫn dụ để tiếp cận quần chúng, “nhạc sĩ tải
đạo”, các Ngài đã biết sử dụng âm nhạc để chuyển tải chân lý Đức Phật
đến với mọi người nhằm mục đích hướng họ về với một đời sống thánh
thiện.
Lễ nhạc Phật giáo là một trong những hình thức nghệ thuật
trực tiếp gợi lên cảm xúc và dẫn đến sự đồng cảm. Lễ nhạc được phổ biến
rộng rãi trong mọi lĩnh vực sinh hoạt của nhân loại: Ai nhạc khiến lòng người buồn thương, Hoà nhạc khiến tâm người vui vẻ, Quân nhạc khiến lòng người phấn chấn, Thánh nhạc
khiến tinh thần người an tĩnh. Âm nhạc không có sự ngăn cách giữa nhân
và ngã. Âm nhạc là một thứ ngôn ngữ chung của thế giới hữu tình.
Trong
Phật giáo, lễ nhạc là một trong sáu món cúng dường. Với âm điệu thiền
vị, nhạc khúc du dương, nó có tác dụng rất lớn đối với sự chuyển hoá
nhân tâm.
Tìm về nguồn gốc khởi thủy của lễ nhạc Phật giáo, thì
nó được bắt nguồn từ Vệ đà (Veda). Đây là một thứ âm nhạc cổ đại trong
văn hoá Ấn Độ. Kinh chép: Đức Thế Tôn cũng thường dùng Dà Đà (kệ tụng)
để làm phương tiện hoằng dương Chánh pháp. Đồng thời Ngài cũng cho các
Tỳ kheo chuyên chú vào việc đọc kinh (Thanh bái), Luật Thập Tụng chép:
thế Tôn khen ngợi Tỳ kheo Bạt Đề rằng: “Cho phép ông được trì tụng kinh
văn theo cách Dà Đà).
Vì nhạc khúc du dương và giai điệu thanh
tịnh có khả năng chuyển hoá lòng người, diễn tấu phạm âm có thể khiến
cho vọng niệm tiêu tan, cho nên, khi Phật còn tại thế, sau những buổi
thuyết pháp, chư Thiên thường trỗi nhạc để cúng dường, ca ngợi công đức
của tam bảo. Kể từ đó, âm nhạc đã trở thành một nghi thức không thể
thiếu trong các pháp hội Phật giáo.
Phật giáo Việt Nam vào buổi
sơ khai đã được các vị cao Tăng Ấn Độ theo thuyền buôn đặt chân đến
Giao Châu truyền đạo, các Ngài đã dạy dân bản xứ biết thắp hương, lễ
Phật, đọc lên những kệ tụng quy y theo điệu khúc được gọi là “Phạm
bái”. Phạm là thanh tịnh, bái là tán tụng, ca vịnh.
Dần dà những điệu khúc đó được chuyển dịch sang ngôn ngữ tiếng Việt mà
người dân Việt quen gọi là “kể hạnh”. Về sau này, các vị cao Tăng như:
Khương Tăng Hội (ở Giao Châu), Trúc Pháp Lan, Chư Khiêm, Cưu Ma La Thập
(ở Lạc Dương) đã đưa những điệu khúc ca vịnh đó dung hợp thành những
làn điệu dân gian để chuyển hoá thành những nét đặc trưng của từng
vùng, từng miền và chính thức trở thành một nghi thức hành lễ của Phật
giáo.
Như vậy, Phật giáo Việt Nam ở thời kỳ mới du nhập các vị
Sư truyền giáo lấyâm nhạc nghi lễ làm phương tiện chính để truyền đạo.
Điều này chúng ta có thể thấy được qua tín ngưỡng “tứ pháp” của Phật
giáo Việt nam (ở lưu vực sông Hồng) vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Lời
kinh tiếng kệ được diễn tấu thành những khúc nhạc du dương, lung linh
như khói trầm, uyển chuyển như tràng phang, an tĩnh như định lực, cao
vút như núi tuyết, oai hùng như pháp cổ, giá trị của nó không chỉ dừng
lại ở khía cạnh văn thơ, triết lý mà phần quan trọng đáng kể chính là
đạo lực thanh tịnh của người tu hành.
Bức tranh lễ nhạc Phật giáo Việt Nam ngày nay
Âm
nhạc của Phật giáo Việt nam ngày xưa đã đạt đến một trình độ thánh
thiện, điều đó có thể tìm thấy qua những tư liệu của các vị Tổ để lại.
Thế nhưng lễ nhạc của Phật giáo Việt nam ngày nay về hình thức lẫn nội
dung quả thật đã thua kém tiền nhân rất xa, nó không còn bộc lộ được
nét sống tâm linh siêu việt như lễ nhạc cổ điển thuở trước. Vì lẽ tâm
thức của Tăng sĩ trẻ ngày nay đã bị thế tục hoá, ngoại cảnh thì tác
động quá nhiều mà định lực thì non kém chưa vững chãi. Hơn nữa Hán văn
không còn được chú trọng, nên đọc thì có đọc mà hiểu thì không được bao
nhiêu. Như vậy, thì làm sao có thể thâm nhập chân lý ngay khi chúng ta
xướng tụng. Chính vì thế mà vai trò của những người làm công tác nghi
lễ ngày nay cần phải biết chuyển hoá như thế nào để vừa có thể duy trì
lại truyền thống cao đẹp của Thầy Tổ xưa, vừa có thể khế hợp với căn cơ
của quần chúng ngày nay.
Chúng tôi thiết nghĩ, muốn thực hiện
ước vọng này, Giáo hội phải quan tâm nhiều hơn đến những người có kiến
thức uyên thâm về lễ nhạc Phật giáo ở cả ba miền Bắc-Trung-Nam và phải
tạo điều kiện thuận lợi để sưu tầm, khai thác và phát huy cho bộ môn
Nhạc lễ ngày nay trở lại đúng vị trí của nó đã từng có vị trí chủ đạo
trong quá khứ.
Lễ nhạc cần phải được thiết lập một cách nghiêm
chỉnh căn cứ trên truyền thống cũ. Những thanh âm, điệu thức của Thiền
gia phải được duy trì và sáng tạo. Việt hoá những văn bản chữ Hán để
khế hợp với căn cơ người thời nay (những người khôngc có trình độ Hán
Văn).
Còn về nhạc cụ có thể phương tiện dùng bằng chất liệu ngày
nay (kỹ thuật mới), phải có sự giao lưu giữa ba miền, tạo điều kiện gặp
gỡ thường xuyên giữa các nhà nghiên cứu có kiến thức uyên thâm, kinh
nghiệm hành trì về lễ nhạc Phật giáo.
Giáo hội cần phải thành
lập một trường chuyên đề về âm nhạc Phật giáo hoặc có thể đưa lễ nhạc
Phật giáo thành một môn học chính thức tại các trường Phật học để các
Tăng Ni trẻ có điều kiện tiếp xúc, hầu có những tư tưởng và cái nhìn
đúng đắn về vị trí lễ nhạc trong Phật giáo, đồng thời phải đào tạo một
đội ngũ kế thừa truyền thống quý báu mà Thầy Tổ đã dầy công xây dựng.
Những
buổi lễ truyền thống Phật giáo như tết Nguyên Đán, Lễ Phật Đản, Lễ Vu
Lan, các buổi lễ tưởng niệm quý Hoà Thượng hữu công trong Phật giáo,
... phải được sử dụng những nét nhạc cổ điển truyền thống, gạn lọc
những nét nhạc ngoại lai, có nên chăng cử xướng dòng nhạc này nơi Điện
Phật trong những buổi lễ truyền thống.
Nghi lễ Phật giáo nên phân chia thành hai loại:
1. Nghi lễ truyền thống.
2. Nghi lễ đại chúng.
Nghi lễ truyền thống thì sử dụng đúng những nét nhạc cổ điển của Phật giáo Việt Nam tuỳ theo từng miền.
Nghi
lễ đại chúng thì đơn giản hoá, phải thống nhất những văn bản Việt ngữ
để mọi người dù Nam – Trung – Bắc xướng tụng mà đại chúng vẫn họa theo
được.
Ở đây cần lưu ý một điểm nhỏ là trong nghi lễ đại chúng
cần phải biết uyển chuyển sao cho phù hợp với thời gian và không gian
cho phép. Thế nên tiêu đề của Giáo hội đề ra là thống nhất nghi lễ Phật
giáo Việt nam, theo chúng tôi thiết nghĩ là thống nhất bản kinh, pháp
ngữ, kệ tán để cả ba miền cùng sử dụng chung một nghi thức, một văn
bản, một tư liệu. Còn giọng điệu của từng địa phương phải giữ gìn đúng
bản sắc để nét nhạc truyền thống của cả ba miền không bị thất truyền,
pha tạp.
Thống nhất nghi lễ Phật giáo Việt nam là vấn đề cấp
thiết, không chỉ những người làm vai trò nghi lễ mới có trách nhhiệm mà
tất cả những Ban ngành khác của Giáo hội đều phải phối hợp đồng đều,
quan tâm hỗ trợ để có cùng một cái nhìn nhất quán. Nghi lễ Phật giáo
giống như Quốc ca của một dân tộc không thể để những người thiếu hiểu
biết đánh giá sai lầm về nghi lễ.
Lễ nhạc Phật giáo Việt Nam cũng chính là văn hóa của Phật giáo Việt Nam ở mọi thời đại
Qua
những thiển kiến trên, chúng tôi nghĩ rằng khi nói đến âm nhạc Phật
giáo là nói đến văn hoá của Phật giáo, vì nó phản ánh được đời sống an
lạc, giải thoát của Tăng sĩ. Âm nhạc của Phật giáo Việt Nam có đủ tư
cách đề nói lên tinh thần thoát tục, siêu phàm, tuỳ duyên mà bất biến,
bất biến mà tuỳ duyên. Đã đến lúc Tăng Ni trẻ Phật giáo Việt nam chúng
ta phải bảo tồn những di sản cao quý của Thầy tổ, chớ nên hời hợt, xem
thường bảo vật của cha ông, “đừng giống như một bác nông phu kém hiểu
biết mà sử dụng một cái thúng cổ đựng lúa cho vịt ăn, trong khi đó
những nhà bảo tồn di sản văn hoá thế giới đang ra sức tìm kiếm những cổ
vật đó để lưu trữ và nghiên cứu tại các viện bảo tàng” (trích – GS-TS
Trần Văn Khê).
Cuối cùng, xin trích dẫn một câu nói của Cổ đức:
“Giá biên, na biên ứng dụng bất khuyết” (dù bên sự hay bên lý, tất cả
đều là phương tiện để dẫn dụ đưa con người đến với Chánh đạo). Người
học Phật phải tuỳ duyên mà ứng dụng, đừng có cái nhìn phiến diện, tự
tôn, cố chấp, để đánh mất những giá trị cao quý mà tiền nhân đã dầy
công xây dựng.
Thích Lệ Trang (Văn hóa Phật giáo Việt Nam)