Trước đây, khi viết bài này, trong tay tôi chưa có các phương tiện nghe
nhìn tối thiểu để có thể hổ trợ mình hoàn thành mong ước, chuyển tải
một cách nhanh nhất những điều mình cảm nhận hầu chia sẻ với mọi người.
Vì
vậy khi ấy tôi không biết bài thơ này nằm trong tập thơ “SÁU-TÁM” của
nhà thơ Nguyễn Duy. Dù sao, nay đọc lại vẫn còn nguyên xúc cảm thiêng
liêng của TÌNH MẸ.
Nhân
dịp mùa Vua lan Báo Hiếu, xin một lần nữa đọc lại bài thơ này. NGỒI
BUỒN NHỚ MẸ TA XƯA, đó cũng là tựa đề bài thơ của Nguyễn Duy, người viết
bài này sau nhiều năm tìm kiếm, chắp nhặt cho đến khi tròn vẹn một bài
thơ.
Tuy
không phải là người có chuyên môn đọc, giới thiệu hay phê bình văn thơ,
càng không phải là người yêu văn thơ, nhưng do ý nghĩa nhân văn sâu sắc
của bài thơ, đã thật sự gieo vào tâm khảm người đọc về một ý niệm –giá
trị tuyệt vời về người mẹ, và chính những điều đó đã tạo nên sức cuốn
hút của bài thơ.
Lại
nữa, viếc vô tình nghe qua làn sóng phát thanh với giọng ngâm trầm ấm
của nghệ sĩ Trần Thị Tuyết đã thôi thúc cảm niệm ai hoài, lại nhân tiết
hội Vu Lan rạo rực, nên tự nhận thấy không thể không giải bày xúc cảm
này.
Nhà thơ Nguyễn Duy có lẽ đã đi từ ca dao được mẹ ru bên cánh võng thuở
ấu thơ, nên trong tâm khảm đã bật ra bao nỗi lòng bằng chính các lời ru,
và đã lấy đó làm tựa đề cho bài thơ:‘NGỒI BUỒN NHHỚ MẸ TA XƯA- MIỆNG
NHAI CƠM BÚNG LUỞI LỪA CA` XƯƠNG”.
Bài
thơ được bắt đầu bằng sự sâu lắng hết sức thiêng liêng, mênh mông, gợi
lên cho ta một khoảng không gian rộng lớn, làm lộ rõ nét cô đơn của đứa
con mồ côi vừa mất mẹ:
Bần thần hương huệ thơm đêm
Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết Bàn
Chân nhang lấm láp tro tàn
Xăm xăm bóng mẹ trần gian thưở nào.
Tại sao lại là “khói nhang”mà không là ánh nến hay một phương tiện huyền ảo nào khác, mới có thể “vẽ nẻo đường lên Niết bàn” ?
Giữa
khói nhang và Niết Bàn trong bài thơ đủ nói lên tập quán ngàn đời của
dân tộc với chân lý Niết Bàn của Phật giáo, dù Niết Bàn trong Duy Thức
Học, hiểu được nó không hề đơn giản.
Theo
tinh thần kinh Hoa Nghiêm, thì Niết Bàn không xảy ra trong thế giới cửa
nhận thức. Nhưng bằng con mắt tục đế, chúng ta dễ dàng hiểu được Niết
Bàn trong thơ Nguyễn Duy. Có nghĩa là nơi đó là một vị trí- địa danh
xứng đáng đới với những tấm lòng hiếu thảo của người con đặt để dành cho
người mẹ mình.
Chúng ta chấp nhận được. Và có lẽ, như biết được ý nghĩa trên nên Nguyễn Duy phải nói “vẻ nẽo đường lên Niết bàn”?
Nhìn thấy “Chân nhang lấm láp tro tàn”
là một hình tượng tất yếu về một kiếp đời thọ nghiệp; nó còn nói lên
cái hình bóng, công ơn lao nhọc cả cuộc đời của người mẹ một cách cô
đọng, thay vì tác giả phải kể lể bằng nhiều hình ảnh khác nhau như “Cánh còn lặn lôi…”…vv.
Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí tay bầu
Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa.
Từ
trước đến nay, tuy tự nhận mình là một người ít khi tiếp xúc với thơ
văn, nhưng trên cảm quan chung, tôi ít khi thấy một áng văn thơ nào ca
ngợi- tả tỉ mỉ về một người mẹ giàu sang, chân tay cắt móng gọn gàng,
mắt mũi đầy ắp chất silicon đặc sệt; chỉ là những bà mẹ nghèo tấn tảo,
chai sạm làm da với đội quang gánh cơ hòn, đè nặng bờ vai lao nhọc.
Ai
đã từng thấy được dây bí dây bầu, dây mướp leo với vô số tay quăng bám
chặt và rẽ ngọn trăm hướng để giử cho thân mình đủ sức mang nặng những
đứa con - những trái đậu lủng lẳng, lúc nào cũng ghì nặng thân dây…mới
cảm nhận được câu thơ của Nguyễn Duy đến nao lòng, và thầm thán phục sự
ví von tài tình, tuyệt vời của nhà thơ.
Không
phải đất nước ta vốn có truyền thống của nền văn minh nông nghiệp, mà
khi nói về “nhuộm bùn” - tức là làm ruộng - làm nông; đó chỉ là một cách
nói tiêu biểu, hàm súc về tình mẹ Phương Đông, muốn tự mình nuôi dạy
con cái, chịu đựng tất cả lao nhọc để cho con khôn lớn, không dựa dẫm
vào bào hiểm, nhà trẻ, cấp dưỡng hoặc phó mặc cho xã hội, nhà trường.
Cái màu nâu còn còn là màu của đất. Mà đất thì được tắm mát bởi nhân duyên của bốn mùa miền nhiệt đới vốn hằng gian khổ.
Người
học Phật còn “đi sâu” vào lòng đất hơn bằng tư tưởng tuyệt vời của Tâm
Địa Quán: nó sinh ra tất cả và nó ôm ấp tất cả (Chúng sinh chi tâm du
như đại địa, ngũ cốc-ngũ quả tùng đại địa sinh). Kể cả cái Tâm của Tam
Giới cũng chính là ba cái tên của đất (Dĩ thử nhân duyên tam giới, duy
tâm tam danh chi địa…)
Phải
chăng do các yếu tố chân lý đó nên chư Tổ Sư truyền thừa xứ ta xưa kia
đã khéo chọn màu nâu cho y phục tăng lữ, như ẩn ý nhắc nhở về một duyên
sinh, một ứng dụng tùy duyên cho đạo Phật Việt nam chúng ta.
Cái cò- sung chát- đào chua
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
Những
lời tiêu biểu trong các bài hát ru, nó còn là những kỷ niệm tuổi thơ
dại, đưa vào miệng bất kể thứ gì nắm được trong tay, và còn mãi tiếc
nuối, nên thay vì “Cây cải về trời”, như thể lời ru rất thiêng liêng phải được bay về trời. cao vút, cao mãi.
Vì
thế mà bàn chân ta dong ruổi với gói hành trang mang theo là những lời
mẹ ru; lỡ mai ta nằm xuống thì vẫn còn đó, còn hoài với đạo lý thế nhân.
Đó chính là những lời ru.
Bao giờ cho đến mùa thu
Trái hồng, trái bưởi đánh đu giữa rằm.
Nhà
thơ Nguyễn Duy chắc lúc tuổi thơ được thừa hưởng những kỷ niệm vui buồn
dưới tàn cây ăn quả trong vườn nhà, mùa nào trái ấy, cho nên luôn nhìn
được những trái quả trên cành mà mẹ dành chờ qua rằm cúng Phật, cúng ông
bà Tổ tiên, hoặc hái đem đi bán đổi gạo.
Riêng tôi, những “Trái hồng-trái bưởi đánh đu giữa rằm” ấy là kỷ niệm về một cách lễ nghĩa mẹ dãy “Để mẹ hái cúng Phật, cúng Ông bà, xong rồi mẹ cho ăn”,
vì thế “đánh đu” của tôi có nghĩa là thèm thuồng bởi những trái cây
cúng Phật, Ông bà thường được mẹ chọn lựa trái to nhất, ngon nhầt.
Bao giờ cho đến tháng năm
Mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao
Ngân hà chảy ngược lên cao
Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm
Bớ ao đom đóm chập chờn
Trong leo lẻo những vui buồn xa xôi.
Những
ý thơ này chắc rằng ai ai cũng đều có diễm phúc tận hưởng. Dưới ánh mắt
và trí tưởng tượng của tuổi thơ , thì vạn vật đều có thật một cách rất
dễ dàng và gần gũi. Sao trên trời làm sao mà đếm được? Nhưng tuổi thơ
đếm được ( một ông sao sáng hai ông sáng sao…) dù đó chỉ là vòng tròn
không có kết thúc, dễ đưa ta vảo…giấc ngủ! Để rồi các thế hệ nối thay
nhau mà tiếp tục đếm; đếm hoài cho đến khi qua tuổi trưởng thành rồi
nhường lại cho đàn con mà ta ngồi vào vị trí của người mẹ, cho nên:
Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn
Dù
trong nhận thức đã từng hiểu được giá trị đích thực của những chuẩn mực
đạo đức cần thiết nơi mỗi con người, thế mà sao tôi vẫn phải giật mình
khi đọc đến hai câu này !
Quả
thật, trong kho tàng hát ru của dân tộc, có câu nào mà không mang nặng
một ý nghĩa nhân văn nào đó, kể cả những điều nhỏ nhất.
Ở
người mẹ Việt nam, sữa và hát có đủ đầy nuôi bao thế hệ khôn lớn, vỗ an
bao nghĩa đậm tình sâu nặng và đúc kết nên bản thiên trường ca tình mẹ
bất tử.
Ngày
nay có không ít em bé được lớn lên, được nuôi dưỡng từ sự ỷ lại và phó
mặc; ru con bằng máy cassette mà trong đó vọng ra toàn là những giai
điệu Pop-Rock-Disco-Hip hop…để rồi các em bé này lớn lên khi bập bẹ đã
thốt ra những thanh âm ban đẩu thay vì Ba-Mẹ thì là “Bai”-“Ok”..
Lớn lên chút nữa thì “Ta là Triển hộ vệ đây”. “Ta là Ninza đây”.
Cho nên chính nhà thơ đã phải lo lắng: Bà ru mẹ, Mẹ ru con Liệu mai sau
các con còn nhớ chăng ? Chỉ có những đứa con được lớn lên mang trong
mình cà xác lẫn hồn mẹ cho, dù có phiêu bạt góc bể chân trời vẫn không
quên được nơi nào quê mẹ và vị trí đặt nôi võng khi xưa ta nằm.
Ấy vậy mà niềm thương yêu trọn vẹn đó vẫn luôn da diết, ai hoài:
Nhìn về quê mẹ xa xăm
Lòng ta chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa
Để
rồi nhà thơ chọn câu ca dao để kết thúc bài thơ như trả về cho đạo lý
dân tộc một gia tài nguyên vẹn; lại nữa như muốn gợi ý với thế nhân
rằng: dù thơ ca có hay đến thế nào đi nữa cũng không bằng chính lời ru
mộc mạc khi nao, xem như sư kết thúc cũng là sự bắt đầu.
Với
tôi, đó còn là lời nhắn nhủ với những ai đã chóng quên cội nguồn, mà
thiếu vắng nó không còn là một giá trị văn hóa-nhân bản của một dân tộc:
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.
Giác Đạo – Dương Kinh Thành